Tại sao ngân hàng trung ương độc quyền phát hành tiền

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Ngân hàng trung ương [có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ] là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.

Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán [promises to pay] đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu Âu và Châu Á. Ngược lại 500 năm trước đây, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền [Knight Templar] thời Trung Cổ sử dụng một cơ chế có thể nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân hàng trung ương. Các giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và nhiều người cho rằng các hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian đó, Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy ở Trung Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.

Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển [Bank of Sweden] ra đời năm 1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh [Bank of England] ra đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William Paterson tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội chiến lúc đó. Ý tưởng về ngân hàng trung ương cũng được Marx ủng hộ trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bằng việc đề xuất "tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước"[1]. Trước nhu cầu quản lý nền tài chính quốc gia, các ngân hàng trung ương trên thế giới lần lượt ra đời. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc hội tại đạo luật mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen [Glass-Owen Bill]. Tổng thống Woodrow Wilson ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.

Từ đầu thế kỷ XX, các ngân hàng trung ương đã hình thành tuy nhiên các ngân hàng này vẫn thuộc sở hữu tư nhân, sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 thì mới trở thành ngân hàng sở hữu của nhà nước.

Ngân hàng Trung ương Trung Quốc [Tiếng Anh là People’s Bank of China – Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa] bắt đầu các chức năng ngân hàng trung ương năm 1979 cùng với chính sách cải cách kinh tế. Vai trò ngân hàng trung ương của nó được đẩy mạnh năm 1989 khi đất nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền kinh tế hướng xuất khẩu. Tới năm 2000, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã là một ngân hàng trung ương về mọi mặt, với cơ cấu và hoạt động có tham khảo Ngân hàng Trung ương châu Âu vốn là mô hình ngân hàng trung ương mới nhất, chi phối ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên mà vẫn để quyền quản lý kinh tế quốc gia cho các ngân hàng đó.

Ngân hàng trung ương liên quan đến bốn chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của Chính phủ, quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào cũng mang đầy đủ 3 chức năng này.

Phát hành tiền tệ

Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do Chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang – ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ – không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó, Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự trữ Liên bang phát hành. Nhưng hiện nay, đã có rất nhiều cuộc nghiên cứu, và họ đã phát hiện ra, thực chất Cục Dự trữ Liên bang Mỹ mới có quyền phát hành tiền tệ, Chính phủ Mỹ không có quyền này.

Ngân hàng của các ngân hàng

Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này [đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất]. [Xem thêm Chính sách lãi suất ngân hàng]

Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường. [Xem thêm Nghiệp vụ thị trường mở]

Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ 1 lượng tiền nhất định. Thông thường, lượng tiền này được quy định tương đương với 1 tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng.

Ngân hàng của Chính phủ

Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho Chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.

Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho Chính phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối [xem Can thiệp tỷ giá].

  1. ^ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Phần II: Những người vô sản và những người cộng sản

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ngân_hàng_trung_ương&oldid=64175609”

Ngân hàng nhà nước Việt Nam trực thuộc chính phủ, chính phủ uỷ quyền cho ngân hàng nhà nước thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Ngân hàng nhà nước độc quyền phát hành tiền, nhưng không vì thế mà phát hành một cách tự ý, tuỳ tiện. Trước khi phát hành tiền ngân hàng nhà nước phải căn cứ vào các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc này quy định khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông phải được đảm bảo bằng dự trữ kim loại quý hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng. Việc đảm bảo này phải được duy trì theo một trong các hình thức sau:

- Nhà nước quy định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng, khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quý [vàng] làm đảm bảo, nhưng nếu vượt quá hạn mức đó thì khối lượng vượt quá hạn mức đòi hỏi phải có 100% vàng làm đảm bảo.

- Nhà nước sẽ quy định mức tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông mà không quy định mức dự trữ vàng đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. Nhưng nếu phát hành giấy bạc vượt quá mức quy định đó thì phải có vàng làm đảm bảo.

- Nhà nước quy định mức dự trữ vang tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành, phần còn lại phải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu, chứng khoán chính phủ và các tài sản có kháccủa ngân hàng trung ương.

Cùng với sự phát triển sản xuất hàng hoá, khối lượng hàng hoá lưu thông ngày càng tăng, đòi hỏi phải có nhiều tiền để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác do yêu cầu đáp ứng chi tiêu của chính phủ. Sau chiến tranh thế giới II, nguyên tắc 1. gần như được chấm dứt. Thay vào đó là sự đảm bảo bằng hàng hoá cho việc phát hành tiền. Mặt khác quá trình lưu thông xuất hiện mới nhận thức về tiền, thế giới đã phi tiền tệ hoá vai trò của vàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời và thay thế cho tiền kim loại vàng trong lưu thông. Để lưu thông tiền tệ ổn định, ngân hàng trung ương đặt ra nguyên tắc phát hành tiền được đảm bảo bằng giá trị hàng hoá.

Theo nguyên tắc này, đảm bảo duy nhất cho khối lượng tiền trong lưu thông giờ đây là hàng hoá, thông qua các chứng khoán của chính phủ hoặc các giấy nhận nợ được phát hành từ các doanh nghiệp. Yêu cầu phát hành tiền dựa vào cơ sở hàng hoá nhằm duy trì vừa đủ cho nhu cầu của nền kinh tế, trên cơ sở phương trình trao đổi của Fisher với nội dung như sau:

M.V=P.Y

Trong phương trình này, Fisher quan niệm rằng, khối lượng tiền cần được tạo ra cho nền kinh tế [M], trong đó tiền mặt là bộ phận hạt nhân, phụ thuộc vào ba biến số: P [ mức giá cả bình quân của hàng hoá ], Y [ tổng sản lượng ],V [vòng quay tiền tệ ].

Dựa vào nguyên tắc trên ngân hàng trung ương cần phải dự tính khối lượng tiền phát hành, tức là dự kiến mức cầu tiền. Nhu cầu tiền được quyết định bởi tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sự biến động của giá cả dự tính và tốc độ lưu thông tiền tệ, ta có thể tính theo công thức:

M=P.Q-V

Trong đó:

M : Tốc độ tăng trưởng của tiền cung ứng.

P : Mức biến động giá dự tính.

Q : Tỷ lệ tăng trưởng thực tế dự tính.

V : Sự biến động tốc độ lưu thông tiền tệ dự tính.

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, căn cứ vao lượng tiền cung ứng tăng thêm trong năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn: Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá và các loại cho vay khác.

Khi Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay làm tăng bộ phận tiền mặt trong lưu thông hoặc làm tăng số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng trung ương. Kết quả làm tăng tiền trung ương [MB]. Nư vậy, qua việc Ngan6n hàng trung ương cho các Ngân hàng thương mại vay, Ngân hàng trung ương đã phát hành một lượng tiền vào lưu thông còn ngân hàng thương mại nhận được một khoản tín dụng từ ngân hàng trung ương là một nguồn vốn giúp ngân hàng thương mại mơ rộng hoạt động kinh doanh.

Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng thương mại mua các giấy tờ có giá trên thị trường, nghĩa là đã đưa một khối lượng tiền vào lưu thông, hàng hoá mà Ngân hàng trung ương mua là các tín phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn. Khi Ngân hàng trung ương mua các chứng từ có giá trên thị trường thì tiền từ Ngân hàng trung ương ra lưu thông, kết quả là tiền cung ứng sẽ tăng lên bằng đúng giá trị của chứng từ có giá đó. Các chứng từ có giá được Ngân hàng trung ương nắm giữ trở thành tài sản có của Ngân hàng trung ương tương ứng với nó là một sự tăng lên của bên tài sản nợ hoặc tiền mặt hoặc tiền dự trữ. Kênh này đang được sử dụng phổ biến, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển vì đây là kênh rất linh hoạt.

Trong quá trình hoạt động thu chi của ngân sách, thông thường thu có tính chất thời vụ mà chi thì diễn ra thường xuyên, do đó tại một thời điểm ngân sách có thể bị thiếu vốn ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu chi, được sự đồng ý của chính phủ, Quốc hội, Ngân hàng trung ương tạm ứng cho ngân sách theo quy định của chính phủ bằng nhiều hình thức đẻ xử lý thiếu hụt. Như vậy Ngân hàng trung ương đã cung ứng một khối lượng tiền cho ngân sách chi tiêu. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng trung ương đã phát hành tiền thông qua kênh ngân sách.

Khi Ngân hàng trung ương thực hiện mua ngoại hối trên thị trường hối đoái, đây cũng là một kênh phát hành tiền. Khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương tăng, đồng thời một lượng tiền cũng được đưa vào lưu thông qua việc thanh toán tiền cho các tổ chức cá nhân bán ngoại tệ cho ngân hàng trung ương . Ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương giảm, tiền trung ương cũng giảm.

Như vậy, tuy theo từng điều kiện nhất định mà các kênh cung ứng tiền của mỗi quốc gia được ngân hàng trung ương sử dụng phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Song dù tiền được cung ứng theo kênh nào cũng phải đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Video liên quan

Chủ Đề