Tại sao lại bị ung thư cổ tử cung

BVK - Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư hay gặp ở nữ giới, chiếm khoảng 12% của tất cả các ung thư ở nữ giới và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai sau ung thư vú. Tuổi trung bình phụ nữ bị ung thư cổ tử cung từ 48-52 tuổi. Theo Ghi nhận ung thư 2018, Việt Nam có khoảng gần 4.200 ca mắc mới và có hơn 2.400 ca tử vong vì căn bệnh này. Phần lớn người bệnh đến khám và điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, nhiễm HPV là nguyên nhân  hàng đầu gây ung thư cổ tử cung, 90-100% ung thư cổ tử cung có HPV dương tính. Mặc dù có tới hơn 200 týp HPV khác nhau, nhưng chỉ khoảng 40 týp lây nhiễm ở đường sinh dục và ít nhất 15 týp liên quan đến ung thư. Các nhóm 16, 18, 45, 56 thường có liên quan với các tổn thương loạn sản nặng và ung thư cổ tử cung xâm nhập. HPV nhóm 18 có liên quan với ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô kém biệt hoá cổ tử cung cũng như tỷ lệ di căn hạch và khả năng tái phát của bệnh. Các nghiên cứu cho thấy HPV nhóm 16 liên quan với ung thư biểu mô vảy sừng hoá có tỷ lệ tái phát thấp hơn. Do nhận thấy mối liên quan rõ rệt giữa nhiễm HPV và nguy cơ mắc bệnh ung thư nên hiện nay đã có nhiều nghiên cứu đã được thực hiện và đã tìm ra văcxin chống HPV làm giảm sự nhiễm HPV liên tục cũng như giảm các tổn thương loạn sản.

Ung thư cổ tử cung do nhiều nguyên nhân gây nên, ngoài yếu tố chủ yếu nhiễm HPV, còn phải kể đến các yếu tố nguy cơ khác như: Hành vi tình dục [phụ nữ sinh hoạt tình dục sớm, nhiều bạn tình], nhiễm trùng, nhiễm Herpes virus, tác động của tinh dịch, trạng thái suy giảm miễn dịch, hút thuốc lá, dinh dưỡng 

Chẩn đoán ung thư cổ tử cung

* Triệu chứng cơ năng:

Đối với giai đoạn sớm của bệnh như tổn thương loạn sản hoặc ung thư tại chỗ thường không thấy dấu hiệu gì hoặc chỉ phát hiện vết loét nông khi soi cổ tử cung.

Dấu hiệu lâm sàng có thể chỉ thấy ra khí hư đơn thuần hoặc lẫn máu ở âm đạo, đặc biệt ra dịch rất hôi ở bệnh nhân có tổn thương hoại tử nhiều. Đa số các trường hợp bệnh nhân xuất hiện ra  máu âm đạo tự nhiên ngoài chu kỳ kinh hoặc sau sinh hoạt tình dục. Dấu hiệu đau tiểu khung, bất thường của hệ tiết niệu và trực tràng thường xuất hiện ở giai đoạn tiến triển và giai đoạn muộn. Trong những trường hợp này khám lâm sàng có thể đủ để chẩn đoán xác định.

* Triệu chứng thực thể

- Giai đoạn sớm: ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu thường không có hình ảnh đặc biệt, thường không phát hiện bằng mắt thường.

- Khi bệnh tiến triển: thường có các hình thái đại thể khác nhau, đánh giá các tổn thương tại cổ tử cung trên lâm sàng qua khám cổ tử cung bằng mỏ vịt:

+ Hình thái sùi: gồm các nụ sùi dễ rụng, dễ chảy máu, dễ nhiễm khuẩn, hình thái này thâm nhiễm ít và lan tràn chậm.

+ Hình thái loét: tổn thương lõm sâu xuống, rắn, nền có nhiều nụ nhỏ, có viêm nhiễm mủ. Hình thái này xâm nhiễm và lan tràn sâu vào xung quanh và hay di căn hạch sớm.

+ Hình thái ống cổ tử cung: tổn thương trong ống cổ tử cung, lúc đầu rất khó chẩn đoán chỉ khi có dấu hiệu lâm sàng hay nạo ống cổ tử cung.

Khi đã có tổn thương ác tính cần đánh giá vùng hạch có liên quan như vùng bẹn, hố thượng đòn. Di căn vào hạch bạch huyết vùng  xuất hiện với tần xuất tăng dần từ giai đoạn I đến giai đoạn IV. Sự lan rộng ra vùng cạnh tử cung bắt đầu từ cổ tử cung đi mọi hướng. Niệu quản thường bị tắc ở bên cạnh cổ tử cung, gây giãn thận và do đó giảm chức năng thận. Đau lưng và đau vùng phân phối của đám rối thắt lưng cũng thường là dấu hiệu gợi ý của thần kinh bị chèn ép. Phù rõ rệt ở chân là đặc trưng của ứ trệ máu và bạch huyết do khối u gây ra. Rò âm đạo vào trực tràng và đường tiết niệu là biến chứng muộn và nặng do khối u xâm lấn. 

Khi thăm khám lâm sàng, nếu có dấu hiệu nghi ngờ cần tiến hành xét nghiệm tế bào và khi kết quả tế bào nghi ngờ cần sinh thiết vùng tổn thương để có chẩn đoán xác định về giải phẫu bệnh.

Xét nghiệm mô bệnh học qua bấm sinh thiết tại cổ tử cung cho phép chẩn đoán xác định phân loại mô học và độ mô học. Cần phải lưu ý rằng có khi hình ảnh cổ tử cung bình thường trên lâm sàng nhưng có thể có tổn thương trên vi thể hay ung thư nội ống cổ tử cung.

Không có dấu hiệu hay triệu chứng gì đặc trưng cho ung thư  biểu mô của cổ tử cung giai đoạn sớm. Chẩn đoán sớm bằng phương pháp tế bào học [PAP-test]  qua khám sàng lọc ở một quần thể  rất có giá trị.

* Xét nghiệm tế bào học [PAP test]:

Bệnh phẩm được lấy từ những bệnh nhân ngoài kỳ hành kinh, phết lên một phiến kính mỏng và được cố định bằng cồn tuyệt đối. Phiến đồ sẽ được các nhà tế bào học đọc để phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư.

 * Soi CTC:

Soi CTC là dùng máy soi phóng đại 10-20 lần cho phép nhìn rõ được kích thước và ranh giới của vùng chuyển đổi bất thường và xác định độ lan xa vào ống cổ tử cung.

* Sinh thiết:

Sinh thiết lấy một mảnh hoặc nạo ống cổ tử cung là phương pháp bắt buộc phải làm dưới sự hướng dẫn của soi cổ tử cung để có chẩn đoán xác định trước khi điều trị. Người ta thường làm sinh thiết ở nhiều điểm, ở những nơi mà biểu mô vảy không bắt màu hoặc sinh thiết ở mỗi góc của cổ tử cung. Các kết quả thu được từ sinh thiết cổ tử cung và nạo ống cổ tử cung là quan trọng trong việc chẩn đoán và quyết định điều trị.

* Siêu âm

Phát hiện các di căn hạch chậu, hạch chủ bụng, các tổn thương chèn ép ở tiểu khung [giãn đài bể thận...]. Siêu âm qua đường âm đạo hay qua trực tràng cho phép nhìn rõ các tổn thương xâm lấn, kích thước của các tổn thương, dịch ổ bụng.

 * Chụp cắt lớp vi tính [CT] – Chụp cộng hưởng từ [MRI]: để đánh giá tổn thương ngoài cổ tử cung như di căn gan, phổi xương, hạch... có thể phát hiện các tổn thương tại parametre hai bên và các dây chằng tử cung để chẩn đoán giai đoạn và qua đó có phác đồ điều trị thích hợp.

Các xét nghiệm cận lâm sàng khác:

 * Công thức máu toàn phần.

 * Hóa sinh máu: chú ý lượng ure, creatinin, nồng độ SCC có giá trị chẩn đoán và theo dõi bệnh .

Điều trị cổ tử cung

Điều trị ung thư cổ tử cung hiện nay có thể áp dụng các phương pháp sau: phẫu thuật triệt căn, xạ trị triệt căn, kết hợp xạ trị-phẫu thuật, kết hợp xạ trị- hóa chất.

Việc lựa chọn phương pháp điều trị căn cứ vào giai đoạn bệnh, thể trạng chung của bệnh nhân, tổn thương tại chỗ, ..... Tuy vậy cho đến nay các nghiên cứu so sánh chưa cho thấy có sự khác biệt rõ ràng, nhất là về thời gian sống thêm giữa các phương pháp. Dù chọn phương pháp nào thì mục tiêu chung là: thời gian sống thêm lâu nhất và nguy cơ biến chứng thấp nhất, như vậy bệnh nhân có chất lượng sống tốt nhất sau điều trị.

Nguyên nhân ung thư cổ tử cung chủ yếu là virus HPV với 2 chủng phổ biến là HPV 16 và HPV 18. Theo Báo cáo của Bộ Y tế, đến 80% phụ nữ Việt Nam mắc virus này ít nhất 1 lần trong đời, phổ biến nhất là độ tuổi 20 - 30 tuổi.

1. Ung thư cổ tử cung và ảnh hưởng của bệnh tới cơ thể

Cổ tử cung là cơ quan quan trọng, có vai trò như một bức tường ngăn cách, bảo vệ tử cung bởi các yếu tố gây bệnh từ âm đạo. Cổ tử cung được cấu tạo với dạng ống thông nhỏ, bao phủ bằng một lớp mô mỏng các tế bào.

Tìm hiểu nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung giúp phụ nữ chủ động phòng ngừa bệnh

Bệnh lý ung thư cổ tử cung khởi phát khi tế bào ác tính [có thể là tế bào biểu mô tuyến cổ tử cung hoặc tế bào gai] hình thành trên cổ tử cung, tạo ra khối u với kích thước ngày càng lớn. Những tế bào ác tính này không chết theo chu trình bình thường mà ngày càng nhân lên với số lượng lớn. Những tế bào ung thư này ngày càng nhiều không kiểm soát, vừa làm tăng kích thước khối u vừa lan rộng, xâm lấn đến các khu vực xung quanh.

Rất nhiều người phụ nữ chưa được giáo dục và hiểu chính xác về mối nguy hại sức khỏe này với bản thân. Số người mắc bệnh ung thư cổ tử cung ở Việt Nam đang ngày càng tăng, đặc biệt nhiều ca phát hiện ở giai đoạn muộn. Theo thống kê mới nhất, mỗi ngày nước ta có khoảng 14 ca ung thư cổ tử cung mới, trong đó có 7 ca tử vong.

Mỗi ngày nước ta ghi nhận khoảng 14 ca ung thư cổ tử cung mới

Chúng ta đã nghe nhiều hơn đến những căn bệnh như lao, HIV, sốt rét,… song số ca tử vong vì những căn bệnh này cộng lại cũng chưa bằng số người chết vì ung thư cổ tử cung. Không những cướp đi sự sống, sức khỏe mà ung thư cổ tử cung còn để lại gánh nặng bệnh tật lớn cho bản thân người bệnh, gia đình và xã hội.

Năm 2012, chi phí thiệt hại ước tính mà ung thư cổ tử cung gây ra là 1.755 tỉ đồng, chiếm khoảng 0.015% GDP cả nước. Nhiều người bệnh không có điều kiện kinh tế tốt, không tiếp cận được phương pháp điều trị sớm và hiệu quả dẫn đến tổn thất sức khỏe, tính mạng đáng tiếc.

Với mức độ phổ biến, nguy hiểm và gây nhiều thiệt hại mà ung thư cổ tử cung gây ra, trước hết mỗi người phụ nữ, bé gái cần được giáo dục hiểu rõ về căn bệnh này cũng như cách phòng ngừa, phát hiện sớm. Dù tỉ lệ tử vong cao và phổ biến nhưng chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa bệnh bằng tiêm HPV và sàng lọc định kỳ.

2. Nguyên nhân ung thư cổ tử cung

Các chuyên gia đã xác định nguyên nhân chủ yếu gây căn bệnh này là virus thể u nhú HPV [Human Papilloma Virus]. Có đến 99% trường hợp ung thư cổ tử cung có nhiễm virus này, trong đó HPV type 16 và 18 là phổ biến hơn, chiếm khoảng 70% các trường hợp.

Đường lây truyền chủ yếu của virus HPV là đường tình dục

Con đường lây lan chủ yếu của virus HPV là qua đường tình dục với nhiều hình thức như: quan hệ qua âm đạo, hậu môn, quan hệ tình dục bằng tay, bằng miệng,… Những tiếp xúc trực tiếp da - da cũng có thể gây lây nhiễm virus HPV. Một con số có thể khiến bạn kinh ngạc là khoảng 80% phụ nữ sẽ mắc virus HPV ít nhất một lần trong đời tại một thời điểm nào đó.

Có đến 140 type Virus HPV ở người đã được phát hiện, trong đó có 40 type virus có thể gây bệnh ở cơ quan sinh dục. Type 16 và 18 là nguy hiểm nhất, chúng hoạt động mạnh mẽ, tiến sâu vào tử cung, cổ tử cung và tác động làm biến đổi tế bào. Những tổn thương bất thường do virus HPV gây ra hoàn toàn có thể tiến triển thành ung thư sau khoảng 3 - 7 năm.

Không chỉ phụ nữ, nam giới mắc phải virus HPV cũng có thể mắc bệnh đường sinh dục như: sùi mào gà, nổi mụn cóc, ung thư dương vật,… Sự lây nhiễm virus có thể chưa gây ra bệnh lý ngay nếu hệ miễn dịch cơ thể hoạt động tốt. Song nếu khi hệ miễn dịch suy yếu, virus HPV dễ dàng tấn công và gây bệnh hơn, trong đó có ung thư cổ tử cung.

Ngoài virus HPV là nguyên nhân ung thư cổ tử cung chủ yếu, còn có 1 số yếu tố khác làm tăng nguy cơ mắc bệnh bằng tác động tăng nguy cơ biến đổi tế bào bình thường thành tế bào bất thường, tiền ung thư và ung thư, như:

Phụ nữ có nguy cơ mắc căn bệnh nguy hiểm này cao hơn nếu mang thai trước 17 tuổi

Mang thai sớm, nhiều lần

Việc mang thai sớm [trước 17 tuổi] và mang thai nhiều lần đều ảnh hưởng đến sức khỏe và sự hồi phục của cơ quan sinh sản. Cổ tử cung cũng là bộ phận đầu tiên phải chịu hậu quả này. Bé gái nếu không được giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản tốt rất dễ gặp phải tình trạng mang thai sớm, không chỉ gây hệ lụy cho sức khỏe khi hệ sinh dục chưa phát triển toàn diện mà còn gây ảnh hưởng lớn đến cuộc đời sau này.

Quan hệ với nhiều người

Quan hệ tình dục thiếu an toàn khiến phụ nữ có nguy cơ nhiễm Virus HPV cao hơn, biến chứng do virus gây ra và ung thư cổ tử cung vì thế cũng dễ xuất hiện. Ngoài ra, quan hệ tình dục sớm ở bé gái tuổi vị thành niên là lúc cơ quan sinh dục, đặc biệt là mô cổ tử cung chưa trưởng thành, dễ bị tổn thương và biến đổi xấu hơn.

Suy giảm miễn dịch

Hệ miễn dịch cơ thể có vai trò quan trọng trong việc chống lại tác nhân gây bệnh xâm nhập cũng như khả năng tiêu diệt tế bào ung thư, tiền ung thư. Vì thế, bảo vệ sức khỏe và tăng cường hệ miễn dịch là cần thiết để giảm nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung.

Hút thuốc lá

Trong khói thuốc chứa nhiều Nicotin và các chất khí độc hại khác, chúng khiến hệ miễn dịch kém hoạt quả, làm tăng nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung.

Nicotin trong thuốc lá là chất độc với hệ miễn dịch

Yếu tố khác

Các yếu tố này được xác định ít tác động biến đổi tế bào hơn song không nên bỏ qua, bao gồm: nhiễm bệnh phụ khoa, vệ sinh thân thể kém, sử dụng thuốc tránh thai kéo dài.

Hiểu rõ về nguyên nhân ung thư cổ tử cung cũng như cơ chế tác động gây bệnh của nó, mỗi chị em phụ nữ sẽ có thể bảo vệ sức khỏe của bản thân tốt hơn, phòng ngừa và sàng lọc ngay từ khi bệnh mới khởi phát.

Video liên quan

Chủ Đề