Tại sao gdp việt nam thấp

Lý do là kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại với đà suy giảm tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc.

Thông tin trên được đưa ra tại Báo cáo chiến lược vĩ mô và thị trường quý 1/2019 vừa được Phòng phân tích của Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt [BVSC] công bố.

GDP quý I tăng trưởng thấp

Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP quý I/2019 đạt 6,79% - thấp hơn hẳn so với mức 7,38% của cùng kỳ năm ngoái. Điểm đáng chú ý là đà suy giảm diễn ra đồng đều ở cả ba khu vực: nông - lâm- thủy sản [chỉ tăng 2,68% so với mức 4,05% của quý I/2018]; công nghiệp - xây dựng [8,63% so với 9,7%] và dịch vụ [6,5% so với 6,7%].

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành trụ cột là công nghiệp chế biến chế tạo cho thấy xu hướng đi xuống khá rõ. Chỉ số PMI trung bình trong 3 tháng đầu năm nay chỉ đạt 51,6 điếm, giảm mạnh so với mức 54,7 điểm của quý IV/2018. Xu hướng sụt giảm tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam là cùng chiều với đà tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới, nhưng điểm tích cực là chỉ số PMI của Việt Nam vẫn đang cao hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Đài Loan, Indonesia...

Điều này cho thấy kinh tế Việt Nam đang thích ứng có phần tốt hơn với những bất lợi từ môi trường bên ngoài so với các nước khác.

Một điểm nổi bật khác nữa là đã có sự hoán đổi động lực giữa các sản phẩm công nghiệp trong quý I/2019. Một số sản phẩm có tăng trưởng cao như xăng dầu [tăng 73,2% nhờ nhà máy lọc dầu Nghi Sơn đã đi vào hoạt động], sắt thép thô [64,8% nhờ Formosa tăng sản lượng], tivi [49%], khí hóa lỏng [37,8%]... đã bù đắp cho mức tăng trưởng thấp hoăc sụt giảm của các nhóm hàng công nghiệp khác như điện thoại di động [tăng 2,1%], xe máy [tăng 2%], dầu thô [giảm 10%], linh kiện điện thoại [giảm 26%]...

Ở một khía cạnh khác, đà tăng trưởng chậm lại của GDP trong quý đầu năm nay có một phần nguyên nhân từ sự tăng trưởng chậm lại của xuất khẩu.

Theo BVSC, điều này có thể được lý giải bởi hai yếu tố.

Thứ nhất, những khó khăn của kinh tế toàn cầu, đặc biệt là thị trường Trung Quốc đã khiến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ tăng 4,7% trong quý I/2019 - thấp hơn hẳn mức tăng 22,5% của cùng kỳ năm 2018. Xuất khẩu các mặt hàng nông-lâm-thủy sản đều có mức tăng trưởng thấp, thậm chí giảm so với cùng kỳ như rau củ quả [giảm 7%], gạo [giảm 15%], cà phê [giảm 16%], sắn [giảm 7,6%]... Một tỷ trọng lớn các mặt hàng này hiện đang xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Xuất khẩu sụt giảm đã góp phần khiến tăng trưởng của khu vực nônglâm-thủy sản 3 tháng vừa qua tăng thấp hơn so với cùng kỳ.

Thứ hai, xuất khẩu các nhóm hàng điện thoại di động và điện tử gặp khó, chỉ tăng nhẹ 7% trong khi cùng kỳ hai năm gần nhất lần lượt tăng 20% và 40%. Các sản phẩm của Samsung gặp khó do thị trường điện thoại di động toàn cầu đang ở giai đoạn bão hòa cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các hãng điện thoại Trung Quốc đã dẫn đến những khó khăn cho xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.

Mặc dù vậy, BVSC cho rằng, vẫn có những điểm sáng nhất định cho kinh tế Việt Nam trong 3 tháng đầu năm. Điển hình là Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực đã góp phần giúp gia tăng xuất khẩu vào các thị trường, điển hình như Canada và Mexico.

Ngoài ra, các hiệp định FTAs khác và căng thẳng thương mại Mỹ-Trung tiếp tục là nhân tố giúp xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến như dệt may, giày dép, gỗ, valy, túi xách... tăng trưởng tốt trong quý I/2019.

Bên cạnh đó, làn sóng dịch chuyển các nhà máy sang Việt Nam để tránh xung đột thương mại Mỹ- Trung cũng phần nào giúp vốn FDI tăng mạnh. Vốn FDI đăng ký mới đạt 5,1 tỷ USD [không tính vốn góp mua cổ phần], tăng 30% YoY, trong đó vốn FDI từ Trung Quốc có mức tăng đột biến [gấp 6 lần so với cùng kỳ].

GDP 3 quý cuối năm sẽ tiếp tục khó khăn

Từ những phân tích trên, BVSC dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu sẽ tiếp tục gặp nhiều thách thức trong 3 quý tới. Lý do là kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại với đà suy giảm tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc

Theo đó, tại Mỹ, tốc độ tăng chậm lại của GDP mang tính chu kỳ. Quý gần đây GDP giảm tốc là do chính sách thắt chặt tiền tệ khiến lãi suất tăng nhanh của FED trong 2 năm trước đang dần “ngấm” vào nền kinh tế, dẫn đến tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư của các doanh nghiệp suy giảm. Ngoài ra, trong năm 2019, chính sách cắt giảm thuế quy mô lớn của ông Trump sẽ không còn đóng góp nhiều cho tăng trưởng như năm 2018.

Tại châu Âu, sự khó khăn đến từ khu vực sản xuất công nghiệp khi các quy định về khí thải mới khiến sản xuất ô tô của khu vực này suy giảm trong nửa cuối năm 2018. Ngoài sản xuất, tiêu dùng và đầu tư tại khu vực Eurozone cũng suy giảm do triển vọng tăng trưởng khó khăn trong thời gian tới.

Tại Trung Quốc, các hoạt động kinh tế vẫn đang trong xu hướng đi xuống, từ sản lượng công nghiệp, đầu tư đến bán lẻ. Chính phủ Trung Quốc kể từ cuối năm 2018 đã liên tục tung ra các biện pháp kích thích kinh tế nhưng đến nay vẫn chưa cho hiệu quả rõ rệt. Đáng lưu ý, do những rủi ro đối với hệ thống tài chính hiện nay, gói kích thích kinh tế lần này của Trung Quốc có quy mô nhỏ hơn nhiều so với hai lần nới lỏng gần nhất.

Theo BVSC, về bản chất, vấn đề suy giảm của kinh tế Trung Quốc hiện nay là hệ quả và chủ yếu bắt nguồn từ việc chuyển đổi mô hình kinh tế, các vấn đề mang tính cơ cấu dài hạn. Tuy nhiên, những chính sách cụ thể trong ngắn hạn như quá trình thắt chặt tiền tệ, giảm đòn bẩy nợ của Chính phủ nước này kể từ năm 2015 tạo thêm khó khăn cho kinh tế Trung Quốc trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, tìm mô hình mới.

Căng thẳng thương mại với Mỹ chỉ là yếu tố phụ, khiến đà suy giảm có thêm quán tính. Vì vậy, một thỏa thuận tạm thời ngừng áp thuế mà Tổng thống Trump và Chủ tịch Tập Cận Bình đang hướng đến vào đầu tháng 04/2019 tới nhiều khả năng sẽ không thể đảm bảo giúp chặn đà rơi của kinh tế nước này trong năm 2019.

Theo đánh giá của BVSC, kinh tế Trung Quốc sẽ cần thêm một vài quý nữa để các giải pháp kích thích kinh tế dần có tác dụng, giúp ngăn lại đà giảm tốc. Tuy nhiên, tốc độ hồi phục trở lại sau đó, nếu có, cũng sẽ ở mức khiêm tốn

Trên cơ sở đó, BVSC duy trì dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2019 sẽ ở mức 6,8%.

Nguồn: Báo Diễn đàn Doanh nghiệp

9 tháng đầu năm 2021, GDP Việt Nam chỉ tăng trưởng 1,42% - mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây, cho thấy ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh đến sự phát triển kinh tế. Cùng với đó, 6 tháng đầu năm 2021, GDP ước tính công bố tăng 5,64%, nhưng Tổng cục Thống kê vừa tính toán sơ bộ cho thấy GDP 6 tháng giảm 0,02 điểm phần trăm so với ước tính. Ông Lê Trung Hiếu, Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia, Tổng cục Thống kê chia sẻ rõ hơn về 2 ngưỡng giảm này.

Ông Lê Trung Hiếu, Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia, Tổng cục Thống kê

Tổng cục Thống kê đã ước tính GDP quý II/2021 tăng 6,61% và 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64%. Vì sao số thống kê sơ bộ lại điều chỉnh giảm, thậm chí giảm khá sâu, thưa ông?

Theo quy trình biên soạn số liệu GDP, đến tháng 9 năm 2021, Tổng cục Thống kê tính toán sơ bộ số liệu quý II và 6 tháng đầu năm 2021. Kết quả tính toán sơ bộ cho thấy, GDP 6 tháng đầu năm 2021 giảm 0,02 điểm phần trăm so với số liệu ước tính GDP kỳ 6 tháng đầu năm 2021, trong đó, quý I năm 2021 vẫn giữ nguyên số liệu so với kỳ ước tính 6 tháng đầu năm 2021, quý II năm 2021 giảm 0,04 điểm phần trăm. Nguyên nhân chủ yếu làm GDP quý II năm 2021 giảm 0,04 điểm phần trăm so với số ước tính đến từ một số ngành, như: ngành nông nghiệp giảm 0,16 điểm phần trăm [do một số sản phẩm của ngành nông nghiệp giảm như cây hàng năm, cây lâu năm, chăn nuôi …], ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 0,25 điểm phần trăm [do một số sản phẩm ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm].

Cùng với đó, ngành xây dựng tăng 1,7 điểm phần trăm [do bổ sung vào số liệu ước tính sớm một số công trình, dự án trọng điểm được đẩy nhanh tiến độ, như: thi công Công trình đường cao tốc Bắc- Nam gói liên doanh có tổng mức 900 tỷ đồng; Đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn Mai Sơn - Quốc lộ 45 [đoạn qua địa bàn tỉnh có tổng mức đầu tư 12.918 tỷ đồng, thực hiện trong năm khoảng 2.700 tỷ đồng, 02 dự án: Khu đô thị phía Nam TP. Thanh Hóa; Khu đô thị sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí cao cấp và du lịch biển Sầm Sơn có tổng mức đầu tư 10.000 tỷ đồng; đẩy nhanh tiến độ công trình Nhà máy điện gió Hướng Phùng 2 có tổng mức 1.125 tỷ đồng, Nhà máy điện gió Hướng Phùng 3 có tổng mức đầu tư 1.581 tỷ đồng, Nhà máy điện gió Liên Tập có tổng mức 1.933 tỷ đồng [tại Quảng Trị]; Đẩy nhanh tiến độ công trình Nhà máy điện gió Đắk N’Drung 1 có tổng vốn đầu tư dự kiến là 3.902,9 tỷ đồng, Đắk N’Drung 2, tổng vốn đầu tư là 3.314,5 tỷ đồng và Đắk N’Drung 3 tổng mức đầu tư của dự án là 3.309,7 tỷ đồng… Ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 2,53 điểm phần trăm chủ yếu do chi tiêu cho công tác khám chữa bệnh tăng cao, đặc biệt là trong quý II năm 2021 dịch bệnh Covid_19 có dấu hiệu bùng phát trở lại.

Trong những lần công bố số liệu trước đây, hầu hết số liệu thống kê sơ bộ đều được điều chỉnh tăng so với số liệu ước tính đã công bố trước đó, nhưng lần này thì ngược lại. Ông có thể lý giải hiện tượng này?

Trong quy trình biên soạn GDP, kết quả tính toán được thực hiện theo 3 chu kỳ: kỳ ước tính, kỳ sơ bộ và kỳ chính thức. Trong kỳ ước tính, thời điểm tính toán thông thường được thực hiện khi chưa kết thúc kỳ báo cáo [thường là 20 ngày trước khi kết thúc kỳ báo cáo], nên hầu hết thông tin phải được ước tính bổ sung để đầy đủ phạm vi số liệu. Kỳ sơ bộ được thực hiện khi đã có số liệu ước tính đầy đủ hơn của cả kỳ báo cáo, độ tin cậy của số liệu cao hơn, nhưng có thể còn hạn chế về các nguồn thông tin. Kỳ số liệu chính thức được thực hiện khi có đầy đủ số liệu kỳ báo cáo từ các nguồn thông tin tương đối đầy đủ và tin cậy.

Trong bối cảnh kinh tế bình thường, việc dự báo xu hướng và ước tính kết quả các hoạt động kinh tế tương đối phù hợp, nên độ doãng giữa số liệu kỳ ước tính và sơ bộ không lớn, thậm trí xu hướng ước tính cao hơn sơ bộ là khá thường xuyên. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế bất ổn, đặc biệt có những cú sốc kinh tế đột ngột, các hoạt động kinh tế không thể diễn ra bình thường, thậm chí bị méo mó, khác xa so với thực tế, nên độ doãng giữa số liệu ước tính và sơ bộ sẽ nới rộng hơn. Tình trạng này thể hiện rất rõ trong bối cảnh Covid hiện tại. Rõ ràng, không ai dự đoán được dịch bệnh Covid sẽ bùng nổ, lan rộng trên toàn thế giới, kéo dài 2 năm và tác động sâu đến mọi nền kinh tế như vậy. Ở Isarel, khi 90% dân số đã được tiêm đủ 2 mũi vaccine, hoạt động kinh tế - xã hội gần như đã trở về trạng thái bình thường như trước dịch, thì không ai ngờ lại có ngày Isarel phải chật vật đối phó với làn sóng dịch tiếp theo như tình trạng hiện nay.

Với tình trạng dịch bệnh diễn biến khó lường, việc điều chỉnh giảm số liệu chính thức so với sơ bộ, số liệu sơ bộ so với số liệu ước tính là hoàn toàn bình thường, đặc biệt khi tính toán GDP ở Việt Nam thường phải ước tính thêm khoảng 1 tháng trước khi kết thúc kỳ báo cáo và tình trạng khó khăn trong thu thập số liệu đầu vào ở các cơ sở kinh tế trong vùng tâm dịch.

WB, ADB, IMF giảm dự báo tăng trưởng năm 2021, nhưng lạc quan về Việt Nam

Tổng quan 9 tháng đầu năm 2021. Nguồn: Tổng cục Thống kê

Không chỉ có Việt Nam mà hầu hết các nền kinh tế trong khu vực châu Á, đặc biệt là ASEAN đều được các định chế tài chính quốc tế như ADB, IMF, WB… dự báo giảm tốc độ tăng trưởng năm 2021 so với dự báo của chính các tổ chức này trước đó. Thưa ông, so với các nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2021 và 2022 liệu có khả quan hơn?

So với các dự báo tăng trưởng kinh tế trước đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Việt Nam dự báo tại thời quý III năm 2021 của một số định chế tài chính quốc tế như ADB, IMF, WB đã giảm đi đáng kể. Trong Báo cáo tháng 8/2021, Ngân hàng thế giới [WB] cho rằng, nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng khoảng 4,8% trong năm 2021, giảm 1,8 phần trăm so với con số trong Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2021 của chính WB và dự báo hướng tới mức tăng trưởng 6,5-7% trong năm 2022. Ngân hàng phát triển châu Á [ADB] giảm mạnh dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2021 từ mức 6,7% xuống 3,8%; năm 2022 vẫn giữ nguyên dự báo trước đó tăng 7%. Cũng theo ADB, dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á, sau Singapore tăng 6,5%, Malaysia tăng 4,7% và Philipinnes tăng 4,5%.

Tuy các định chế tài chính đã giảm mức dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2021, nhưng xét trong bối cảnh thực tế của kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm, tình hình diễn biến dịch bệnh ở Việt Nam, các mức dự báo này vẫn ở mức tương đối cao, kể cả mức 3,8% của ADB.

Kinh tế Việt Nam đã đi được 3/4 quãng đường, với mức tăng trưởng 1,42% trong 9 tháng, khả năng tăng trưởng cao trong quý IV năm 2021 để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% là không khả thi. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn cơ hội để cải thiện mức tăng trưởng hiện tại nếu sớm đạt được những thành quả tích cực hơn trong phòng chống dịch bệnh. Hiện nay, công tác phòng chống dịch vẫn đang được triển khai ráo riết và nghiêm ngặt; chiến dịch tiêm chủng toàn dân được đẩy mạnh, mục tiêu hướng tới 70% dân số sẽ được tiêm đủ 2 mũi đến giữa năm 2022 sẽ sớm giúp Việt Nam có thể kiểm soát và ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh; nhanh chóng thiết lập trạng thái bình thường mới cho hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, thái độ và ý thức của người dân trong phòng tránh dịch bệnh cũng là nhân tố quan trọng để đạt được bước tiến cao hơn trong cuộc chiến Covid này. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển trong thời gian tới, tiệm cận gần hơn với mục tiêu đặt ra ban đầu.

Với những kết quả chống dịch thời gian qua, khả năng tăng trưởng kinh tế Việt Nam được cải thiện tốt hơn trong những tháng cuối năm là tương đối khả quan và điều này sẽ tạo động lực lớn cho năm 2022 để hoàn thành tốt mục tiêu kế hoạch tăng trưởng đề ra.

Trở lại với dự báo của ADB rằng, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2021 của Việt Nam sẽ vào khoảng 3,8%, giảm rất sâu so với dự báo 6,7% của chính ADB trước đó. Mặc dù vậy, ADB nhấn mạnh, rất lạc quan về tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Theo ông, dựa vào cơ sở nào để ADB nói riêng và các định chế tài chính nói chung vẫn đặt niềm tin vào kinh tế Việt Nam?

Đúng là một số định chế tài chính quốc tế như ADB, WB đã hạ mức dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 nhưng vẫn thể hiện sự lạc quan về triển vọng tăng trưởng của Việt Nam trong trung và dài hạn. Điều này có thể diễn giải qua một số cơ sở sau:

Thứ nhất, dự báo về sự hồi phục của nền kinh tế toàn cầu, trong đó Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có độ mở nền kinh tế lớn, quan hệ thương mại với nhiều quốc gia. Đặc biệt những quốc gia lớn, có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, các quốc gia châu Âu có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng. Khi kinh tế toàn cầu phục hồi và tăng trưởng thì kinh tế Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tăng trưởng khá.

Diễn biến dịch Covid-19 tại các nước phát triển đang dần hạ nhiệt do nỗ lực tiêm chủng vaccine diện rộng giúp làm giảm nhanh các ca lây nhiễm, tử vong và kiềm chế sự phát triển của các biến chủng virus. Sự phục hồi của các quốc gia này là tín hiệu tích cực cho Việt Nam. Nguồn cung nguyên, vật liệu được cải thiện ổn định sẽ kiềm chế sự tăng giá, bảo đảm hoạt động sản xuất không bị đình trệ. Vận tải cũng rất quan trọng cho việc luân chuyểnhàng hóa được thông suốt, giảm thiểu đứt gãy chuỗi cung ứng. Với việc các nước dần trở lại cuộc sống bình thường, nhu cầu của người dân sẽ tăng, thậm chí có thể còn tăng cao do sau thời gian dài bị hạn chế chi tiêu. Vì thế, Việt Nam đứng trước cơ hội lớn đẩy mạnh các hoạt động xuất, nhập khẩu các mặt hàng chủ lực để góp phần phục hồi nền kinh tế.

Thứ hai, diễn biến dịch Covid tại Việt Nam. Đợt dịch bùng phát từ tháng 4/2021 đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Việt Nam. Các tỉnh thành phố đã phải thực hiện giãn cách xã hội trong thời gian rất dài, đặc biệt trong đó có các tỉnh, thành phố là trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bắc Ninh... Điều này dẫn tới mức tăng trưởng trong quý III giảm âm, tăng trưởng 9 tháng không đạt được như kỳ vọng khiến mức tăng trưởng cả năm dự kiến chậm lại. Giải pháp tối quan trọng hiện nay là chủ động kiềm chế sự lây lan của dịch, cụ thể là triển khai tiêm vaccine toàn diện. Nhận thức được điều này, Việt Nam đã nhanh chóng triển khai bao phủ vaccine đến toàn dân, tập trung chủ yếu cho các tỉnh, thành phố có diễn biến dịch phức tạp.

Tính đến nay, nhờ nỗ lực triển khai tiêm chủng vaccine nên sau thời gian dài giãn cách, nhiều địa phương đã có động thái nới lỏng giãn cách, dần đưa hoạt động sản xuất, sinh hoạt của người dân trở lại trạng thái bình thường mới. Như vậy, mặc dù công cuộc chống dịch còn muôn vàn khó khăn, nhưng với sự quyết tâm, hành động cụ thể, kịp thời của chính phủ và đồng lòng của người dân đã làm cho tình hình chung dần cải thiện và đem tới tín hiệu lạc quan.

Thứ ba, nội lực của nền kinh tế. Mặc dù gặp nhiều tác động rủi ro trong quý III/2021, nhưng nhìn chung nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi nhờ sự năng động và bền bỉ, hơn nữa đã có tăng trưởng vững chắc vào đầu năm nay. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng trưởng dương trong năm 2020, trong khi các nước khác trong khu vực, ngoại trừ Trung Quốc, đều tăng trưởng kinh tế âm.

Khu vực FDI trong các năm qua vẫn luôn là động lực chính đóng góp vào tăng trưởng của Việt Nam. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp như vậy, nhưng tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 9 tháng đầu năm vẫn đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ. Điều này cho thấy niềm tin lớn của khu vực FDI vào khả năng kiểm soát dịch, chính trị ổn định và tiềm năng phát triển của Việt Nam. Với tiềm lực của các doanh nghiệp FDI thì khả năng hồi phục nền kinh tế sẽ diễn ra nhanh hơn.

Nguồn lực vốn trong dân cư cũng là nền tảng vững chắc cho phục hồi nền kinh tế. Mặc dù, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, gây khó khăn lớn cho đời sống của người dân, nhưng với đặc thù tiết kiệm của người Việt Nam, xét tổng thể vĩ mô thì tổng vốn trong dân cư là rất lớn. Đây là một trong những nguồn huy động vốn quan trọng để tăng tốc quá trình hồi phục nền kinh tế.

Nếu đại dịch được kiểm soát, cần giải pháp mới về nhập siêu

Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến GDP tăng trưởng thấp là do thâm hụt thương mại, khác với trước đây, kể từ năm 2016, Việt Nam luôn thặng dư thương mại. Phải chăng để lấy lại đà tăng trưởng trong quý IV/2021, Việt Nam cần phải tìm mọi cách để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu, giảm dần thâm hụt tiến tới thặng dư thương mại?

Nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt thương mại ngày càng tăng là do cơ cấu kinh tế, mất cân đối vĩ mô giữa tiết kiệm và đầu tư, thâm hụt ngân sách chính phủ và việc sử dụng chưa hiệu quả của các dòng vốn nước ngoài

Việt Nam là nước đang phát triển, có độ mở kinh tế cao do nhu cầu xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị cho sản xuất là rất lớn. Ở mỗi thời điểm, tùy thuộc vào nhu cầu nguyên vật liệu và tích tụ tài sản của nền kinh tế, diễn biến thị trường hàng hóa quốc tế, cung-cầu ngoại tệ… mà cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam đạt thặng dư hay thâm hụt. Tuy nhiên, tính toán thặng dư hay thâm hụt thương mại quốc tế trong tài khoản quốc gia còn phụ thuộc nhiều vào quy mô của hoạt động xuất-nhập khẩu dịch vụ, do phải tuân thủ các kỹ thuật tính toán theo quy định nhằm tránh tình trạng tính trùng trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa và nhập khẩu dịch vụ.

Thực tế, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kể từ năm 2016, xuất khẩu của Việt Nam luôn đạt thặng dư nhưng chủ yếu từ khu vực FDI. Trong 2 năm gần đây, do tác động của đại dịch Covid, thị trường xuất khẩu quốc tế của Việt Nam bị thu hẹp, có thời điểm đóng cửa hoàn toàn, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm mạnh do hoạt động du lịch bị tê liệt, sản xuất đình trệ, thiếu nguyên vật liệu, thiếu nhân công, trong khi nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất trong nước vẫn tăng cao, giá dịch vụ vận tải quốc tế tăng khiến giá nhập khẩu tăng mạnh… dẫn đến tình trạng cán cân thương mại bị thâm hụt tại một số thời điểm. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thâm hụt thương mại trong 9 tháng năm 2021 là 319 nghìn tỷ đồng theo giá hiện hành. Tuy nhiên, khi tính toán GDP phải loại trừ phần dịch vụ vận tải và bảo hiểm trong giá trị nhập khẩu hàng hóa để không trùng với giá trị nhập khẩu dịch vụ [đã bao gồm dịch vụ vận tải và bảo hiểm] thì tình trạng thâm hụt của 9 tháng chỉ còn khoảng 109 nghìn tỷ đồng theo giá hiện hành. Để đạt đươc thặng dư thương mại, ngoài việc nhanh chóng gia nhập thị trường hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam cần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt sớm mở cửa được thị trường du lịch quốc, thu hút khách du lịch để mở rộng hoạt động xuất khẩu tại chỗ vừa tiết kiệm chi phí, vừa đạt hiệu quả cao trong cân bằng cán cân thương mại quốc tế.

Để đạt tăng trưởng kinh tế tốt, ngoài việc khơi thông được thị trường tiêu thụ thế giới thì thúc đẩy sản xuất trong nước trên cơ sở nội lực của nền kinh tế mới là một giải pháp lâu bền và vững chắc. Khi nền kinh tế đạt mức tự chủ, tự khắc sẽ điều tiết linh hoạt hoạt động thương mại quốc tế để tạo một trạng thái cân bằng thương mại tốt nhất.

Trước mắt, trong quý IV/2021, Việt Nam cần đẩy mạnh đồng bộ nhiều giải pháp để lấy lại đà tăng trưởng trong quý tiếp theo. Chẳng hạn, Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh khôi phục sản xuất, đặc biệt tại các tỉnh phía nam có tỷ lệ xuất, nhập khẩu hàng hóa lớn như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai..., xây dựng kế hoạch mở cửa từng bước thị trường du lịch quốc tế theo hướng chấp nhận hộ chiếu vaccine, visa vaccine. Nhà nước cung cấp thông tin định hướng cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp trong nước tích cực và chủ động hơn tham gia chuỗi giá trị tăng thêm để có thể giảm giá thành và chủ động nguồn nguyên vật liệu trong nước; khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, mở rộng các doanh nghiệp vệ tinh chuyên trách sản xuất nguyên phụ liệu trong nước tiến tới hạn chế việc nhập khẩu nguyên vật liệu của nước ngoài dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại.

Các doanh nghiệp vận tải trong nước cần lớn mạnh hơn, tham gia tích cực vào mảng vận tải quốc tế để hạn chế sự phụ thuộc của nước ngoài và chủ động về giá cước vận tải.

Cũng nhiều ý kiến cho rằng, thâm hụt thương mại không hẳn đã tiêu cực, đặc biệt với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Quan của ông về vấn đề này thế nào?

Để đạt tăng trưởng kinh tế tốt, ngoài việc khơi thông được thị trường tiêu thụ thế giới thì thúc đẩy sản xuất trong nước trên cơ sở nội lực của nền kinh tế mới là một giải pháp lâu bền và vững chắc.

Đối với một nước đang phát triển có độ mở cao như Việt Nam, thặng dư hay thâm hụt thương mại sẽ phụ thuộc vào thời điểm sản xuất và không phải cán cân thương mại thâm hụt là tiêu cực.

Tùy thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô mà thâm hụt thương mại là dấu hiệu tích cực hay là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Những quốc gia đang phát triển có thể phải chấp nhận thâm hụt thương mại trong quá trình chuyển đổi khi có nhu cầu lớn đối với nguyên vật liệu, thiết bị máy móc hay công nghệ của nước ngoài, trong khi khả năng và trình độ sản xuất trong nước còn thấp kém, điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Tuy nhiên, nếu quy mô nhập siêu tăng cao và dai dẳng trong thời gian quá dài mà không có bất kỳ dấu hiệu cải thiện nào thì lại đồng nghĩa với quá trình tích lũy tư bản, công nghệ từ nước ngoài trước đó đã chuyển hóa không hiệu quả để có thể nâng cao được năng lực sản xuất và xuất khẩu của nền kinh tế.

Nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt thương mại ngày càng tăng là do cơ cấu kinh tế, mất cân đối vĩ mô giữa tiết kiệm và đầu tư, thâm hụt ngân sách chính phủ và việc sử dụng chưa hiệu quả của các dòng vốn nước ngoài.

Do đó, trong thời gian tới, nếu như dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát tốt, bên cạnh các chính sách Chính phủ đưa ra trong thời gian qua, cần có các giải pháp hạn chế nhập siêu trong cả ngắn hạn và dài hạn. Về ngắn hạn, Việt Nam nên tập trung các giải pháp củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các FTA đã có hiệu lực. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới, tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu cả trong và ngoài nước trên môi trường trực tuyến và dựa trên những nền tảng mới, tập trung vào những hàng hoá, nông sản đang mùa vụ.

Về dài hạn cần nghiên cứu phát triển nguồn nguyên liệu thay thế nhập khẩu để chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản xuất nói chung và sản xuất để xuất khẩu nói riêng. Giữ ổn định thị trường xuất khẩu hiện có và phát triển mạng lưới marketing sang các thị trường mới và đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam đã ký hiệp định thương mại FTA. Xây dựng cơ cấu hợp lý cho nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng hấp thụ công nghệ từ các nguồn vốn nước ngoài.

Điểm sáng trong bức tranh nền kinh tế 9 tháng năm 2021

Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là ngành hiếm hoi có mức tăng trưởng khá trong cả quý III và 9 tháng năm 2021 và hầu như không bị ảnh hưởng của dịch Covid-19. Tổng cục Thống kê có đánh giá thế nào về mức tăng trưởng của ngành này?

Nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19 đó là một thực tế. Giãn cách xã hội tại nhiều tỉnh, thành phố khiến GDP quý III/2021 tăng trưởng âm 6,17% với hàng loạt ngành kinh tế bị giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt là các ngành dịch vụ như bán buôn, bán lẻ, lưu trú, ăn uống, vật tải kho bãi… ghi nhận mức tăng trưởng âm chưa từng có. Tính chung 9 tháng đầu năm, nền kinh tế chỉ tăng trưởng 1,42% - mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây, cho thấy ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh đến sự phát triển kinh tế. Điểm sáng trong bức tranh tăng trưởng của nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2021 là sự tăng trưởng của khu vực I và sự duy trì tăng trưởng của một số ít ngành dịch vụ, trong đó ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm vẫn đạt được mức tăng trưởng khá tốt với 8,37%, trong đó 6 tháng đầu năm đạt mức tăng trưởng 9,09% và quý III tăng trưởng 7,13%.

Đóng góp chủ yếu vào sự tăng trưởng của ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm [ngành K] là sự tăng trưởng của ngành dịch vụ tài chính với tỉ trọng hơn 82% [trong đó hệ thống tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm tỉ trọng chính]. Sự tăng trưởng ấn tượng [9,42%] của ngành dịch vụ tài chính 6 tháng đầu năm 2021 có được là nhờ: [1] Thu nhập lãi thuần tăng cao do tín dụng vẫn duy trì mức tăng và biên độ lãi ròng [NIM] tiếp tục nới rộng ở phần lớn các ngân hàng; [2] Lãi từ hoạt động dịch vụ của nhiều ngân hàng tăng mạnh; [3] Nhiều ngân hàng tiết giảm chi phí giúp lợi nhuận gia tăng; và [4] Nền so sánh cùng kỳ năm 2020 thấp.

Quý III/2021, tăng trưởng của hệ thống ngân hàng không sáng như 6 tháng đầu năm, do trong quý III, Việt Nam đã thực hiện giãn cách toàn xã hội ở 20 tỉnh, thành phố trong thời gian khá dài, hoạt động của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe hệ thống tài chính, ngân hàng, nợ xấu dự báo sẽ tăng lên, trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng dự báo tăng mạnh cùng với việc phải giảm lãi suất cho vay theo định hướng của Ngân hàng Nhà nước để duy trì dòng vốn cho sản xuất kinh doanh. Điều này khiến lợi nhuận của các tổ chức tín dụng khó đạt được mức ấn tượng như 6 tháng đầu năm 2021. Tuy nhiên, so với bối cảnh chung của toàn nền kinh tế thì mức tăng trưởng 9 tháng đầu năm 2021 của ngành này cũng vẫn là một con số nổi bật./.

Video liên quan

Chủ Đề