Tại sao chủ nghĩa đế quốc muốn gây chiến tranh

Từ những biện pháp của “chiến lược ngăn chặn”…

Chiến lược "diễn biến hòa bình” ra đời vào thời kỳ chiến tranh lạnh trong bối cảnh quốc tế đang biến động phức tạp. Từ đó đến nay, chiến lược này liên tục được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và không ngừng lớn mạnh, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng. Trước tình hình so sánh lực lượng bất lợi, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ráo riết tìm kiếm giải pháp chiến lược nhằm ngăn chặn "làn sóng cộng sản” từ Đông Âu và Liên Xô. Ở giai đoạn này, với “chiến lược ngăn chặn”, Mỹ chủ trương sử dụng thủ đoạn cứng rắn, đặc biệt là thủ đoạn quân sự với con chủ bài là bom nguyên tử để “ngăn chặn” sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Tổng thống Mỹ Truman từng nói: “Mỹ phải dùng quả đấm sắt và ngôn ngữ cứng rắn để đối phó với Liên Xô”.   


Xe tăng Liên Xô đỗ gần một lối vào điện Kremlin trên quảng trường Đỏ sau khi xảy ra vụ đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Gorbachev vào ngày 19-8-1991. Ảnh: AFP. 

Tuy nhiên, sau một thời gian, “chiến lực ngăn chặn” này không mang lại hiệu quả đáng kể. Đầu năm 1946, khi còn là đại diện lâm thời của Mỹ ở Liên Xô, G. Kennan đã kiến nghị với Nhà Trắng, phải thực hiện giải pháp ngăn chặn bằng thủ đoạn gieo vào trong lòng chế độ Xô viết những mầm mống tự thủ tiêu, làm "mềm hóa từng bước" để cuối cùng tan rã.

Trên cơ sở lý luận của Kennan, tháng 3 năm 1947, chính quyền Truman công bố chính thức thực hiện chiến lược “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản; phát động cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu quyết liệt, toàn diện với Liên Xô bằng chiến tranh tâm lý, chạy đua vũ trang, cấm vận kinh tế, lập vành đai bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, trực tiếp can thiệp vào nội bộ nhiều nước [cả can thiệp vụ trang]. Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Truman đề nghị Quốc hội Mỹ viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ 400 triệu USD và cử nhân viên quân sự, dân sự đến giúp duy trì nên thống trị để các nước này không “ngả vào lòng cộng sản". Tháng 11 năm 1947, Mỹ đưa ra Kế hoạch Marshall, viện trợ 14 tỷ USD, giúp các nước Tây Âu phục hồi kinh tế sau chiến tranh, ép các nước này loại bỏ những bộ trưởng là cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp và cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng dân chủ" để gây chia rẽ, phá hoại tư tưởng từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thực chất của các kế hoạch này nhằm “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản và buộc các nước Tây Âu ngả theo và chịu sự chi phối của Mỹ.

Đối với Trung Quốc, trong một bức thư gửi Tổng thống Truman, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson khuyến cáo, "những người theo chủ nghĩa cá nhân ở Trung Quốc [phần tử theo chủ nghĩa dân chủ cũ, thân Mỹ] có thể tạo ra sự biến đổi từ bên trong, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, làm sụp đổ chính quyền nhân dân...". Đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Ngoại trưởng F.Dulles [1953-1959] xác định, cần phải "giải phóng” họ khỏi chế độ cộng sản nhưng không phải bằng một cuộc chiến tranh mà bằng "biện pháp hòa bình", phi chiến tranh. Đồng thời, Mỹ cấu kết với 14 quốc gia phương Tây, bí mật thành lập “Ủy ban thống nhất quản lý thị trường xuất khẩu” [Feria, 1949] với mục đích cuối cùng là bao vây cấm vận đối với các nước xã hội chủ nghĩa.

… đến “chiến lược hòa bình” toàn diện

Bước vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, “diễn biến hòa bình” bước đầu trở thành chiến lược của chủ nghĩa đế quốc với tên gọi “chiến lược hòa bình”.

Kennedy sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ, đã tuyên bố: “Nước Mỹ giống như con đại bàng trên Quốc huy hình lá chắn của tổng thống, chân phải của nó cắp cành ô liu còn chân kia cắp mũi tên, phải coi trọng cả hai chân như nhau”. Theo đó, Kennedy một mặt tiếp tục thực hiện chính sách cứng rắn [bao vây, cấm vận, chống đối], mặt khác vạch kế hoạch "hòa bình" với Liên Xô [6-1961], đề xướng "liên minh vì tiến bộ”, chi 20 tỷ USD viện trợ nhằm khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Mỹ La-tinh, thành lập "đội hòa bình" ở châu Phi, điều chỉnh chiến lược quân sự "trả đũa ồ ạt" của Eisenhower trước đó thành chiến lược "phản ứng linh hoạt”, tiến hành “chiến tranh đặc biệt" ở Việt Nam.

Thời kỳ chính quyền Richard Nixon, bằng chính sách “cây gậy và củ cà rốt”, đàm phán trên thế mạnh, Mỹ tuy vẫn coi trọng răn đe hạt nhân, nhưng đã điều chỉnh cục diện ôm đồm, giảm bớt lực lượng quân sự ở nước ngoài; tạo thế cân bằng giữa các nước lớn; tăng cường tiếp xúc hòa bình với các nước xã hội chủ nghĩa, lấy hòa hoãn thay dần cho “chiến tranh lạnh”, qua đó để thẩm thấu tư tưởng và văn hóa, tác động vào kinh tế, phá hoại quốc phòng, an ninh, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong…  

Sang thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Mỹ khôi phục kinh tế, quân sự và vị thế quốc tế, tăng cường sức mạnh trên một số mặt. Các nước tư bản khác cũng vượt qua khủng hoảng, sản xuất bắt đầu phát triển. Lợi dụng các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ, cải cách, mở cửa Mỹ đề ra dự án "dân chủ toàn cầu” nhằm ủng hộ sự xuất hiện của lực lượng "dân chủ” ở các nước cộng sản, tìm cách đả kích hệ tư tưởng Mác-xít, đề cao "dân chủ", "tự do” phương Tây, thúc đẩy sự hòa nhập kinh tế thế giới để lái cải cách đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Mỹ ngầm đánh vào bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời nghi binh chiến lược, tích cực tuyên truyền chạy đua vũ trang, thu hút Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa cái gọi là "chương trình SDI", kéo quân đội Liên Xô ra ngoài, chạy theo đối phó với "nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu,” loại được công cụ sắc bén của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt là loại được lực lượng KGB ra khỏi cuộc chiến tranh ngầm” đang diễn ra gay gắt ngay trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ [1-1989], G.Bush đưa ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn", trong đó linh hồn là “diễn biến hòa bình”, nhằm đưa cuộc đấu tranh vào trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa [bằng lực lượng phản động], làm cho các nước xã hội chủ nghĩa bị xô đẩy tới chỗ sụp đổ.  

Đến đây, "diễn biến hòa bình" từ vị trí là thủ đoạn của chiến lược "ngăn chặn", "vượt trên ngăn chặn" đã trở thành một chiến lược chống cộng toàn diện. Sử dụng chiến lược này, Mỹ và các thế lực phản động đã thu được kết quả, thúc đẩy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu.


Hình ảnh Liên Xô hỗn loạn trước thời điểm tan rã hoàn toàn. Ảnh: AP 

Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ sau chính biến ở Liên Xô và Đông Âu

Ở thời kỳ này, Mỹ tiếp tục theo đuổi chiến lược "can dự” nhưng có sự điều chỉnh nhất định, tăng cường "dính líu" vào các nước nhưng bằng các biện pháp "cứng rắn” hơn, trong đó coi trọng "đòn phủ đầu” để thực hiện cái gọi là "chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ”. Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell trong một cuộc điều trần ngày 17-1-2001, tuyên bố: "Chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ sẽ không có bất kể sự nhún nhường nào khiến cho Mỹ phải rút lui khỏi thế giới, co về pháo đài của chủ nghĩa bảo hộ hoặc về một hòn đảo biệt lập”.

Sau sự kiện ngày 11-9, Mỹ ra sức lợi dụng cuộc chiến "chống khủng bố”, lấy cớ "kiểm soát việc sản xuất, tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt" để tính toán, điều chỉnh chiến lược. Đặc biệt, sau khi lôi kéo đồng minh vào cuộc chiến “chống khủng bố” và một số nước lớn ngả theo mình, Mỹ đơn phương tuyên bố rút khỏi Hiệp ước cấm tên lửa đạn đạo [ABM], đẩy nhanh việc thử nghiệm Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia [NMD], thành lập Bộ tư lệnh Bắc Mỹ, tăng chi phí quân sự nhằm châm ngòi một cuộc chạy đua vũ trang mới, tăng cường khả năng răn đe để thực hiện ý đồ "xây dựng thế giới một siêu cường” do Mỹ đứng đầu. Mỹ trực tiếp can thiệp [cả bằng quân sự] vào nhiều nước để mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Đông và châu Á - Thái Bình Dương, thông qua chiêu bài "dân chủ, nhân quyền” để can dự sâu hơn, nhằm "diễn biến hòa bình” đối với các nước, hoặc gây áp lực nhằm hướng lái các nước theo “quỹ đạo” của Mỹ.

QĐND

Giải bài tập 1 trang 173 SGK Lịch sử 10

Vì sao các nước đế quốc tăng cường xâm chiếm và tranh giành thuộc địa?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk Lịch sử 10 trang 173 để lí giải. 

- Là nơi đầu tư và tiêu thụ hàng hóa của chính quốc.

- Nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt.

- Cung cấp binh lính cho các cuộc chiến tranh.

- Thể hiện sức mạnh của các nước đế quốc,…

⟹ Các nước đế quốc tăng cường xâm chiếm và tranh giành thuộc địa.

[QK7 Online] - “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự. Như vậy, “Diễn biến hòa bình” chỉ là sự thay hình, đổi dạng để che đậy bản chất của chủ nghĩa đế quốc, gây mơ hồ ảo tưởng, dao động về mục tiêu lý tưởng đối với cán bộ đảng viên và nhân dân lao động để tiến công chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chiến lược của “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là làm cho các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đa nguyên chính trị, kinh tế tư nhân hóa; xã hội phương tây hóa; cuối cùng làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa chuyển hóa thành chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương thức tiến hành, thực hiện sự thẩm thấu hòa bình, làm cho chủ nghĩa xã hội mục rỗng từ bên trong, tự sụp đổ theo kiểu chiến thắng không cần chiến tranh. Chúng thực hiện bằng sự tiến công xâm nhập vào trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh các thủ đoạn phi quân sự như: Chính trị, tư tưởng, kinh tế, ngoại giao, tâm lý, lối sống... làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trong lòng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch kết hợp chặt chẽ giữa “Diễn biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ và răn đe quân sự. Tính chất của “Diễn biến hòa bình” rất độc ác, nham hiểm, tinh vi và phức tạp. Chúng đánh thẳng vào trong lòng chủ nghĩa xã hội, thực hiện âm mưu “tự diễn biến” hòng tạo ra sự mất ổn định từ bên trong, trước hết về chính trị ngay từ nội bộ Đảng cộng sản. Đây là cuộc đấu tranh hết sức gay go và phức tạp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là cuộc đấu tranh không phân tuyến, kẻ thù vừa trực diện vừa giấu mặt, vừa công khai vừa bí mật, nó len lỏi vào mọi lực lượng, mọi lĩnh vực, ở mọi lúc mọi nơi đối với cả con người và tổ chức, kết hợp cả lực lượng bên trong và lực lượng bên ngoài. Chính kẻ thù chỉ ra rằng: “Diễn biến hòa bình” có ưu điểm hơn hẳn thủ đoạn và phương thức tiến hành chiến tranh ở chỗ nó không khêu gợi tinh thần cảnh giác của đối phương mà nhiều khi còn ru ngủ tinh thần đấu tranh của đối phương. Theo họ, điều kiện cần thiết để thực hiện “Diễn biến hòa bình” là mở rộng tiếp xúc, giao lưu giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Những cơ sở thúc đẩy chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán của chủ nghĩa đế quốc là tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, bắt các nước xã hội chủ nghĩa phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa của chủ nghĩa đế quốc. Khôi phục một thế giới thống nhất tư bản chủ nghĩa theo một trật tự của chủ nghĩa tư bản. Đó là bản chất không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc. Kể từ khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1917 và hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay, từng giây từng phút chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ lơi lỏng mục tiêu đó. “Diễn biến hòa bình” lúc đầu chỉ đóng vai trò thủ đoạn để hỗ trợ các chiến lược quân sự, đến đầu những năm 50 của thế kỷ XX đã trở thành một chiến lược quân sự và đến giữa thập kỷ 80, do tình hình thế giới có những biến động phức tạp, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, chúng đã đẩy mạnh và thực thi toàn diện “Diễn biến hòa bình” chống phá chủ nghĩa xã hội. Trong một thời gian dài, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành nhiều chiến lược quân sự gây chiến tranh chống phá chủ nghĩa xã hội, nhưng đều thất bại. Việc chủ nghĩa đế quốc thực hiện ráo riết hơn “Diễn biến hòa bình” chính là nhằm khắc phục sự hạn chế của các thủ đoạn quân sự, che đậy bản chất xâm lược của chúng. Họ hy vọng rằng đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình” làm “ruỗng nát” chủ nghĩa xã hội từ bên trong mà đòn tác động tư tưởng tâm lý tạo nên sự chuyển hóa về lập trường chính trị là đòn trọng yếu nguy hiểm nhất tạo nên sức “hủy diệt” từ bên trong, đẩy đối phương đến suy yếu toàn diện, rối loạn nội bộ và sụp đổ nhanh hơn. Mặt khác trong vài thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng thành công nhiều thành tựu khoa học và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn. Trong khi đó các nước xã hội chủ nghĩa có những khó khăn nhất định. Đây là cơ hội để chúng sử dụng đòn kinh tế tiến công chủ nghĩa xã hội: Viện trợ kinh tế kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản nhằm làm vật mồi chài để xâm nhập, khống chế, nhượng bộ về chính trị, tiến tới can thiệp vào công việc nội bộ và lôi kéo các nước xã hội chủ nghĩa vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Họ xác định những khó khăn về kinh tế - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa là thời cơ có lợi để sử dụng đòn kinh tế trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Lợi dụng xu thế hòa dịu trên thế giới và những sai lầm khuyết điểm trong cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa để thực hiện ráo riết hơn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống chủ nghĩa xã hội. Cuối 1987 thế giới xuất hiện xu thế hòa hoãn, hòa dịu và đối thoại, đây là cơ hội cho sự xâm nhập của phương Tây vào các nước xã hội chủ nghĩa bằng các thủ đoạn phi quân sự. Mặt khác, bước vào những năm 1980, các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện cải cách, cải tổ nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra cho phù hợp với quy luật khách quan. Cải cách, cải tổ là công việc đầy khó khăn phức tạp trên các bình diện xã hội, do đó không tránh khỏi những sai lầm vấp váp. Đây chính là cơ hội ngàn vàng cho chủ nghĩa đế quốc luồn lách, chui sâu, leo cao thực thi toàn diện “Diễn biến hòa bình”, kết hợp nội công, ngoại kích để triệt phá chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, trong đó Việt Nam là trọng điểm, trước hết chúng ra sức phá hoại về mặt chính trị tư tưởng. Mục tiêu “Diễn biến hòa bình”của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, chúng phá hoại làm cho Đảng cộng sản suy yếu mọi mặt, chia rẽ nội bộ Đảng, làm cho quần chúng xa rời Đảng, mất phương hướng, rời xa chủ nghĩa xã hội, theo con đường chủ nghĩa tư bản. Đồng thời các thế lực thù địch tìm mọi cách vô hiệu hoá lực lượng vũ trang, tách sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Quân đội.

Vũ Trọng Khanh 

Video liên quan

Chủ Đề