Phong trào cách mạng nào có điều kiện và khả năng đấu tranh công khai hợp pháp?

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN DƯƠNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954

I. Quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở Dương Hòa [1930 - 8/1945]

Với vị thế là địa bàn chiến lược quan trọng, điểm tiếp giáp với thành phố Huế - thủ phủ xứ Trung Kỳ bảo hộ, nên chính sách đô hộ của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Dương Hòa[1] rất hà khắc. Bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã khá hoàn chỉnh. Đứng đầu huyện là Tri huyện. Ở tổng có các Chánh- Phó tổng. Dưới xã, ấp là bọn lý, hương và địa chủ cường hào… chiếm đoạt công điền, công thổ, tham nhũng công quỹ, ức hiếp nông dân. Nhân dân Dương Hòa không có quyền tự do dân chủ nào.

Không thể cam chịu cảnh cùng cực, một số thanh niên có chí hướng ở Dương Hòa đã bắt đầu đi tìm hiểu thời cuộc qua sách báo, qua các cuộc tiếp xúc với những nhà yêu nước tại Huế.

Cuối năm 1929, nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hóa để chuyển sang Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập Chi bộ đảng Đông Dương Cộng sản liên đoàn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc tuyên truyền giác ngộ một số thanh niên yêu nước ở Dương Hòa đi theo con đường cách mạng mới.

Ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở Thừa Thiên Huế, tháng 4/1930, tại Bến Ngự [Huế], dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh được tiến hành. Hội nghị tuyên bố hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Đồng chí Lê Bá Dị được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời, trực tiếp chỉ đạo 3 huyện phía Nam, trong đó có Hương Thủy.

Sau ngày 01/5/1930, các đồng chí đảng viên chủ chốt trực tiếp đi vào nông thôn, miền núi vận động nông dân, tập hợp họ vào tổ chức nông hội, đấu tranh chống bọn cường hào, ác bá.

Ngày 18/6/1931, nhân kỉ niệm ngày Gia Long lên ngôi, nhiều truyền đơn được rải khắp Dương Hòa để vạch mặt bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nhân dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi quyền sống.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tháng 10/1939, địch thực hiện cuộc khủng bố trắng ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên ở Hương Thủy đều bị bắt. Hệ thống cơ sở bị phá vỡ, phong trào cách mạng ở Hương Thủy bị tổn thất nặng nề, còn lại một vài đồng chí và cơ sở phải rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo duy trì những hoạt động của Đảng sau này.

Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vượt ngục trở về triệu tập Hội nghị cán bộ đảng tại Quảng Điền, triển khai Nghị quyết Trung ương VIII. Hội nghị quyết định củng cố các tổ chức đảng để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.

Ngày 23/5/1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị ở Đầm Cầu Hai [Phú Lộc], chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử các đồng chí Lê Minh, Phạm Quang Thuyết, Phan Bạch Vân về chỉ đạo phong trào ở Hương Thủy.

Được sự tiếp sức của tỉnh, các tổ chức đảng ở các huyện khẩn trương triển khai Nghị quyết Hội nghị Đầm Cầu Hai, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến là tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Tháng 6/1945, Mặt trận Việt Minh huyện Hương Trà được thành lập lấy tên là Việt Minh Bình Sơn. Ban lãnh đạo Việt Minh Bình Sơn gồm các đồng chí: Đặng Cháu, Hoàng Liên, Trần Danh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Thị Út do Lâm Mộng Quang làm chủ nhiệm[2].

Đầu tháng 8/1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương, nhân dân xã Dương Hòa cùng với các địa phương trong huyện Hương Thủy đẩy mạnh việc quyên góp thóc, gạo, tiền vào ngân quỹ của Việt Minh để trang cấp cho việc huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu, rèn vũ khí, mua vải may cờ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Trước khí thế của quần chúng và thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt của phát xít Nhật đang đến gần, ngày 10/8/1945, Tỉnh ủy họp phiên mở rộng quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Sau Hội nghị, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp về chỉ đạo ở các huyện.

Ngày 17/8/945, Việt Minh Bình Sơn [Việt Minh Hương Trà] họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện và khu vực, đề ra kế hoạch khởi nghĩa ở các làng, tổng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh Bình Sơn [Việt Minh Hương Trà], ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23/8 nhân dân Hương Thọ đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Tại Dương Hòa đồng chí Ngô Đức Vui đã tập hợp các đoàn biểu tình từ các thôn về tại nhà thờ họ Phan tổ chức mít tinh tuyên bố chính quyền vào tay nhân dân. Bọn hương lý lo sợ đem ấn triện nộp cho chính quyền cách mạng của nhân dân[3].

Ngày 30/8, hàng nghìn nhân dân Dương Hòa đã về Huế cùng nhân dân toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn trong buổi lễ thoái vị của Bảo Đại và nghe đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xáo bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 02/9/1945, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] cùng nhân dân cả nước chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám [1945], nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] được đổi đời từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người chủ xã hội. Cách mạng tháng Tám chứng minh truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân Dương Hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã tạo ra bước ngoặt mới để xây dựng và phát triển Dương Hòa ngày càng khởi sắc sau này.

II. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Dương Hòa [8/1945 - 12/1946]

Sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng và giữ vững chính quyền là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp. Với khó khăn về kinh tế tài chính, văn hóa, xã hội và ngoại xâm, tất cả đang đe dọa một cách nghiêm trọng vận mệnh dân tộc nói chung và Dương Hòa nói riêng. Nhưng do vừa thoát khỏi thân phận một người dân mất nước, nô lệ, nhân dân xã Dương Hòa ý thức sâu sắc giá trị của độc lập, tự do và nguyện đem hết khả năng trách nhiệm của mình để bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được.

1. Về chính trị.

Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 22/11/1945 Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phấn khởi, tràn đầy tin tưởng, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên][4] cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia bầu cử Quốc hội chung cả nước [6/1/1946]. Một không khí sinh hoạt chính trị sôi động đầy khắp thôn xóm. Trước ngày bầu cử các đoàn thể như Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc ngày đêm hăng hái vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử. Lực lượng tự vệ ngày đêm thường xuyên canh gác sẵn sàng đập tan mọi âm ưu phá hoại của kẻ địch, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của xã đã phổ biến quy định bầu cử, đồng thời nhấn mạnh cho nhân dân hiểu rõ tính chất dân chủ của việc phổ thông đầu phiếu. Khẩu hiệu “hoan nghênh ngày bầu cử thống nhất” hòa trong tiếng reo hò của đội cổ động đã làm tăng thêm không khí sôi động của ngày bầu cử. Nhiều loại thơ ca hò vè được nhân dân truyền miệng nhắc nhở nhau bầu cho các đại biểu do Việt Minh đưa ra ứng cử, như:

“Thích Mật Thể, kể cả Hoàng Anh

Cùng Trần Thanh Chữ bạn lành của ta…”

Hòm phiếu được đặt ở đình làng các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc. Để tranh giành với ta, bọn Quốc dân đảng đã đưa ra một số ứng cử viên và chúng đã dùng mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc hòng lừa bịp nhân dân, chúng tìm cách nói xấu các đại biểu Việt Minh. Nhưng kết quả cuộc bầu cử đã thắng lợi, hầu hết các ứng cử viên do Việt Minh giới thiệu là Hoàng Anh và Thích Mật Thể đã trúng cử tỉ lệ cao, có người đạt trên 90% số phiếu.

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất to lớn, cho thấy nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã đặt hết tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Chính phủ cách mạng.

Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện Sắc lệnh 63/SL về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân để cử ra bộ máy chính quyền quản lý xã, thôn. Tại kì họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân xã Hương Nguyên đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch[5].

Để tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng các cấp và đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của cách mạng địa phương, công tác xây dựng Đảng rất được Huyện ủy Hương Trà chú trọng. Tháng 2/1946, tại thôn Hải Cát, đồng chí Đặng Cháu - Bí thư Huyện ủy Hương Trà, đã chủ trì lễ kết nạp 2 quần chúng ưu tú là đồng chí Trần Hữu Thí [quê ở Kim Long] và Đặng Hiền [quê ở Hải Cát]] vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó không lâu kết nạp thêm đồng chí Hồ Văn Hiến [quê ở Đình Môn] hình thành nên Chi bộ ghép đầu tiên, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng. Chi bộ do đồng chí Trần Hữu Thí làm Bí thư.

Ngay sau khi ra đời, Chi bộ ghép phụ trách 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng đã tích cực hoạt động, chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng Đảng viên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đến các địa bàn thôn, xóm. Tại Hương Thọ, được sự quan tâm của Chi bộ, các quần chúng ưu tú như Nguyễn Công Khanh [La Khê Bải], Trần Quang Hợi [Hải Cát Thượng], Bùi Văn Huyên [tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa], Lê Thương [La Khê Trẹm] đã được kết nạp vào Đảng, trên cơ sở đó Huyện ủy Hương Trà cử các đồng chí Hoàng Liên, Nguyễn Vật, Hồ Văn Hiến về xây dựng Tổ đảng Dương Hòa [Hương Nguyên] do đồng chí Hồ Văn Hiến trực tiếp chỉ đạo[6].

Sự kiện Chi bộ đảng Cộng sản ghép của 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty , Hương Phụng và Tổ đảng Dương Hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các xã. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, tổ đảng nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.

2. Về kinh tế.

Song song với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương, Ủy ban Nhân dân lâm thời và sau đó là Ủy ban Hành chính đã tiến hành phân cấp lại ruộng đất chia cho dân nghèo. Tất cả nam nữ công dân từ 18 tuổi trở lên đều được cấp phát ruộng đất để cày cấy, sản xuất.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, chính quyền địa phương đã tiến hành giảm 25% tô, thuế, giảm nợ cho nông dân, xóa bỏ thuế thân và mọi thứ thuế bất hợp lý khác.

Việc tịch thu ruộng đất của cường hào, của những kẻ có nợ máu, việc cấp phát ruộng đất, giảm tô, tức và các thứ thuế bất hợp lý đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất.

Trong tình thế khó khăn chung của đất nước, Chính quyền Cách mạng Dương Hòa [Hương Nguyên] đã đề ra một số biện pháp cấp bách như ra lệnh cấm dùng gạo vào những công việc không cần thiết như nấu rượu, làm bánh và kêu gọi nhân dân giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức “hũ gạo đồng tâm” để giải quyết nạn đói. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất cũng rất được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu gọi “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” của Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Chính quyền và Chi bộ đảng địa phương, nhân dân Dương Hòa đã tích cực canh tác, từ sáng sớm đã có những đoàn người tham gia lao động sản xuất; đẩy mạnh hơn nữa việc khai hoang để mở rộng sản xuất. Nhờ vậy, đã tạo dựng được những tiền đề vững chắc để giải quyết tận gốc nạn đói.

Với quyết tâm của chính quyền cách mạng và sự nỗ lực của nhân dân, nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định và góp phần vào việc thực hiện khẩu hiệu “Diệt giặc đói” của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.

  1. Phong trào xây dựng Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng.

Sau Cách mạng tháng Tám, tài chính Nhà nước hầu như trống rỗng. Để giải quyết khó khăn trên, ngày 04/5/1946 Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh số 4 - Sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng” trong cả nước kể từ ngày 12/9/1946 - 24/9/1946 nhằm động viên nhân dân tự nguyện đóng góp phần mình vào việc xây dựng đất nước và giữ vững nền độc lập.

Hưởng ứng phong trào gây Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng ở Dương Hòa [Hương Nguyên], cán bộ cách mạng đã tuyên truyền và giải thích sâu rộng trong quần chúng nhân dân về ý nghĩa chính trị to lớn của việc làm nói trên. Đây không chỉ là việc quyên góp đơn thuần mang tính chất kinh tế mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Hiểu được ý nghĩa của hoạt động này, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] người ít kẻ nhiều đã lần lượt đến đình làng tự giác đóng góp vàng, bạc; có nhiều người còn đem cả vật kỷ niệm ngày cưới như đôi hoa tai vàng, nhẫn… đóng góp cho cách mạng không ghi tên tuổi. Tính chung, trong đợt vận động này, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] cùng toàn thể nhân dân Hương Thọ đã góp hơn 15 lượng vàng, 200kg đồng để đóng góp vào công quỹ Nhà nước[7].

Phong trào Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhiều người dân đã tham gia đóng góp với các mức độ khác nhau. Điều này đã thể hiện sự giác ngộ cách mạng và tinh thần yêu quê hương, đất nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên].

  1. Về văn hóa giáo dục.

Do hậu quả của chính sách ngu dân mà chế độ thực dân, phong kiến để lại, hơn 90% nhân dân Dương Hòa bị mù chữ. Vì vậy, để nâng cao dân trí, góp phần kiến quốc, công cuộc xóa nạn mù chữ được xem như là một yêu cầu cần kíp đặt ra cho chính quyền cách mạng.

Ngày 06/5/1946, Hội đồng Chính phủ đã họp và quyết định phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong cả nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, phong trào học chữ quốc ngữ thực sự là một phong trào rộng rãi của quần chúng mang tính chất tự giác cao. Các buổi học thường được tổ chức vào ban đêm tại các đình, các nhà thờ các thôn ở Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm... Nhân dân lao động trẻ, già, trai, gái không phân biệt lứa tuổi đều tích cực tham gia học tập. Mỗi thôn có từ 3 đến 4 lớp. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít, nên có người vừa là thầy vừa là trò[8]. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dụng cụ học tập như: giấy, bút, dầu đèn... song tiếng ê, a đánh vần vào mỗi buổi tối vẫn vang lên từ đầu đến cuối làng.

Trong các buổi lao động gia đình hoặc hội họp tập thể, hình thức đố bài để giúp nhau ôn lại bài vở đã học đã diễn ra sôi nổi; nhiều bài thơ ca, hò vè đã được sáng tác để kịp thời vận động nhân dân học tập; tại những điểm giao thông có nhiều người qua lại, chính quyền địa phương đã tổ chức giăng dây đố chữ hoặc tổ chức thi hàng tuần, kỳ, tháng hoặc 3, 4 tháng một lần để kiểm tra và kịp thời có những biện pháp thích hợp khuyến khích nhân dân chú trọng hơn nữa đến công tác xóa nạn mù chữ. Từ trong phong trào “diệt giặc dốt”, nhiều cán bộ, đảng viên trở thành những giáo viên giỏi và sau này có những người trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng.

Thắng lợi của phong trào xóa nạn mù chữ không đơn thuần có giá trị về mặt văn hóa - xã hội, mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc.

Nhờ đó mà nhân dân lĩnh hội được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách tương đối dễ dàng, tạo thêm khả năng để nhân dân tham gia đóng góp phần mình vào công cuộc kháng chiến.

5. Về xây dựng lực lượng vũ trang và hỗ trợ phong trào Nam tiến.

  1. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ.

Hầu hết thanh niên tích cực ở Dương Hòa [Hương Nguyên] sau Cách mạng tháng Tám được đưa vào các đội tự vệ. Mỗi thôn có một tiểu đội, vũ khí chủ yếu là dao găm, mã tấu, nhưng tinh thần luyện tập rất hăng hái. Nhiệm vụ của các tiểu đội tự vệ là cảnh giác, tuần tra cho thôn xóm và bảo vệ cơ quan chính quyền xã. Tại Dương Hòa, đội tự vệ thôn có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, phụ nữ như: Mai Văn Trừng, Lê Phán, Lê Thạc, Võ Thanh Duy, Phan Mông, Bùi Ngọc Tịnh, Võ Thị Mòn, Phan Bá Cừ, Phan Sinh, Phan Thị Hàm, Phan Tự… Do đồng chí Mai Văn Trừng làm đội trưởng [1949 - 1950][9].

Năm 1946, chính quyền nhân dân được thành lập và song song với việc tổ chức, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ được phát triển hơn. Đội trưởng tự vệ lúc này là đồng chí Mai Văn Trừng.

Không khí luyện tập rất hăng hái, sôi nổi hơn trước, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang không chỉ đóng khung trong các thôn xóm mà được mở rộng ra địa bàn xã.

  1. Phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ba tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời [23/9/1945], thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta. Tiếng súng xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp đã gây nên một làn sóng căm phẫn dữ dội trong toàn thể quốc dân đồng bào cả nước. Nhân dân Nam bộ ngay từ đầu đã nhất tề đứng dậy cầm súng đánh giặc, mở đầu một trang sử vô cùng oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ở Dương Hòa [Hương Nguyên], phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Thanh niên Dương Hòa [Hương Nguyên] đã nô nức lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người đã gia nhập giải phóng quân, khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam bộ kháng chiến”, “Thà chết vinh còn hơn sống làm nô lệ” được giương cao khắp thôn xóm, Ủy ban ủng hộ Nam bộ kháng chiến được thành lập, động viên nhân dân ủng hộ nhân tài vật lực cho miền Nam như lúa, gạo, chăn màn, quần áo, tiền bạc để mua sắm vũ khí.

Cùng với cả nước, phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến ở Dương Hòa [Hương Nguyên] thực sự trở thành cuộc vận động chính trị vô cùng rộng lớn kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Đã có những đóng góp vật chất, tinh thần xứng đáng cho kháng chiến chống quân xâm lược.

Thời kỳ từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là thời kỳ mà đất nước nói chung và Dương Hòa [Hương Nguyên] nói riêng gặp vô vàn khó khăn như trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng với muôn vàn khó khăn đã đặt đất nước, quê hương trước thử thách nghiêm trọng. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cấp trên và các đảng viên lúc đó như Hồ Văn Hiến [Xạ Hiến người Đình Môn], Nguyễn Công Khanh [Hải Cát] nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chính quyền cách mạng Dương Hòa [Hương Nguyên] đã lãnh đạo nhân dân giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, chuẩn bị tiềm lực để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài và hết sức gian khổ.

III. Dương Hòa [Hương Nguyên][10] tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [19/12/1946 - 20/7/1954]

Đúng như Đảng đã dự đoán, thực dân Pháp tiếp tục chính sách “việc đã rồi” hòng đặt lại ách thống trị của chúng lên đất nước ta. Sau nhiều vụ khiêu khích của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, chiến tranh bắt đầu lan tỏa khắp đất nước. Thời kỳ tạm hòa hoãn đã chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy kháng chiến, kiên quyết giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc.

Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch thay mặt Đảng và Chính phủ, kêu gọi đồng bào cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11].

Cùng cả nước, cả tỉnh và thành phố Huế nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch.

1. Dương Hòa [Hương Nguyên] từ kháng chiến toàn quốc bùng nổ [19/12/1946] đến khi mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ [5/2/1947].

Mặc dù đã kí với Chính phủ các Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ tái xâm chiếm nước ta. Chúng sẵn sàng hành động với sự hậu thuẫn của các nước đồng minh để chiếm lại nước ta bằng mọi giá.

Tại Thừa Thiên Huế, trước những hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, đầu tháng 12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy họp đã rà soát kiểm điểm việc chuẩn bị các mặt cho công cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh.

Ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm hôm đó, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên thông qua kế hoạch tác chiến của Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến Liên khu. Tỉnh ủy chủ trương dùng lực lượng vũ trang kết hợp sức mạnh của nhân dân tiến công, bao vây và tiêu diệt quân Pháp đóng ở Huế trước khi lực lượng tăng viện của địch đến.

Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, tất cả các xã trong toàn huyện Hương Thủy đã sôi sục trong bão lửa chiến tranh, quyết đem tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương.

Trong 50 ngày đêm liền, quân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã góp phần cùng quân dân Hương Thủy tấn công liên tục vào những các vị trí của địch có pháo binh yểm trợ lưu động trên trận địa Hương Thủy từ Quảng Tế đến Ngự Bình. Ban ngày từ các vị trí chúng tấn công ta bằng thiết giáp và bộ binh. Ta dựa vào trận địa giao thông mà chiến đấu bằng nhiều hình thức phù hợp như bắn tỉa, bắn đón bằng súng trường. Nhiều lúc đánh giáp lá cà, đánh cháy xe thiết giáp của chúng bằng bom xăng.

Các cuộc tấn công của ta diễn ra bằng những vũ khí thô sơ, có khi còn dùng cả rơm rạ và ớt, dùng lửa và khói đánh vào các tòa nhà chúng dùng làm công sự để chặn ta tấn công. Hầu hết các gia đình trong xã đều có đóng góp ít nhất là một gánh rơm, vài ba lon ớt… Khoảng 7 - 8 giờ tối, tất cả những thứ đó được đưa xuống đò chuyển về Huế tiếp viện cho lực lượng bộ đội đánh địch[12].

Tại chùa Khoai [nơi xưa kia đặt Bộ Chỉ huy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo khởi nghĩa Chày Vôi] chị Tú - cán bộ phụ nữ huyện, báo cáo trước nhân dân trong xã về tình hình diễn biến chiến trận và kêu gọi nhân dân “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hưởng ứng lời kêu gọi của chị

Tú, đồng chí Thân Trọng Một và đồng chí Thạnh ở Dương Hòa [Hương Nguyên] đã tình nguyện tham gia đội quân này, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Hôm sau, hai đồng chí vác bộ 10kg bộc phá vào nhà Mác-bớp đánh địch đang cố thủ ở đây. Đồng chí Thạnh hy sinh tại chỗ, đồng chí Thân Trọng Một bị thương[13].

Khi mặt trận tiếp tục mở rộng, địch liên tiếp càn quét. Do chủ quan và chưa nắm được tình hình, nên lúc đầu các cơ sở của ta bị vỡ, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể phải rút lui, thậm chí các đồng chí cán bộ trong Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến phải phân tán mỗi người một nơi. Sau khi địch rút lui, lực lượng của ta lại tập hợp, củng cố để chuẩn bị đối phó với kế hoạch mới của địch

Nhìn chung, trong khoảng thời gian này, lúc đầu ta có lúng túng, bị động nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện, quân và dân Dương Hòa [Hương Nguyên] vẫn thực hiện cuộc rút lui về tuyến sau an toàn, xây dựng căn cứ địa đảm bảo lực lượng để bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] từ tháng 2/1947 đến cuối năm 1950.

  1. Âm mưu của thực dân Pháp

Sau khi chiếm được thành phố và các đầu mối giao thông quan trọng, thực dân Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng đồng bằng và đánh sâu vào căn cứ của ta ở rừng núi, đặc biệt là Dương Hòa, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang, phá hoại kho tàng của ta. Đi đôi với chiến thuật càn quét lớn, giặc Pháp dùng chiến thuật cứ điểm nhỏ để kìm chân các hoạt động của ta ở đồng bằng, phong tỏa ta ở miền núi. Địch đánh tới đâu, chúng xây dựng, đóng đồn tới đó để thực hiện chiến thuật “Vết dầu loang”.

Tại Dương Hòa [Hương Nguyên], thực dân Pháp đã hỗ trợ cho Linh mục Nguyễn Ngọc xây dựng Giáo xứ Buồng Tằm. Nhiệm vụ chủ yếu của các đồn, lô cốt là bảo vệ an ninh cho địch, khủng bố nhân dân, xây dựng bộ máy tề - ngụy phản động ở địa phương, lùng bắt cán bộ và phá hoại phong trào.

  1. Chủ trương kháng chiến của ta:

Không để cho thực dân Pháp thực hiện được những ý đồ thâm độc của chúng, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm đứng lên đấu tranh phá tan các âm mưu của địch.

Một tháng rưỡi sau khi vỡ mặt trận, Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế mở rộng đã họp từ ngày 25 đến 27/3/1947 tại thôn Nam Dương [huyện Quảng Điền] dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi mặt trận mở rộng. Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị chủ trương:

+ Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, không để cho giặc ăn ngon, ngủ yên, phá chính sách “bình định” của giặc, cương quyết phá tề, trừ gian, làm cho đồng bào tin tưởng Đảng vẫn còn, bộ đội vẫn còn và nhân dân tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

+ Tổ chức tăng gia sản xuất, cất giấu của cải, lúa gạo, tổ chức cảnh giác để lúa gạo không rơi vào tay giặc.

+ Xây dựng lại cơ sở, tổ chức đưa cán bộ về lại địa phương cũ để hoạt động, gây dựng lại phong trào, cơ sở, nắm lấy quần chúng để kháng chiến [nhất là 3 huyện phía Nam Thừa Thiên], phải chấn chỉnh lại quân đội, tổ chức lại hệ thống chỉ huy và cơ sở du kích, chỉnh đốn lại Ủy ban, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng[14].

Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp ở Nam Dương [3/1947], Huyện ủy Hương Trà đã họp quán triệt chủ trương của cấp trên và đề ra những biện pháp cấp thiết giữ vững chính quyền cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh và Huyện ủy Hương Trà, cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã từng bước khôi phục, củng cố phong trào cách mạng, góp phần với huyện, tỉnh làm nên những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận: chính trị, kinh tế và quân sự trong giai đoạn 1947 - 1950.

c. Nhân dân Dương Hòa chiến đấu chống lại âm mưu của thực dân Pháp, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc [từ ngày 5/2/1947 đến cuối năm 1950].

- Phong trào đấu tranh của nhân dân Dương Hòa từ ngày 5/2/1947 đến giữa năm 1948.

Sau khi Mặt trận Huế vỡ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lan rộng khắp toàn tỉnh. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ sở đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo mình đối với phong trào cách mạng của quần chúng. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết nói trên, từ năm 1947, việc phát triển đảng viên, xây dựng các hạt nhân nòng cốt để trực tiếp lãnh đạo nhân dân địa phương tiếp thu và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng rất được các Chi bộ cơ sở chú trọng. Tại Hương Thọ, với những hoạt động tích cực của Chi bộ đảng, số lượng đảng viên của xã cuối năm 1947 đã tăng lên 18 người, gồm các đồng chí: Hồ Văn Hiến [tức Xạ Hiến, Đình Môn], Bùi Văn Huyên [tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa], Lê Thượng [La Khê Trẹm], Nguyễn Công Khanh [La Khê Bãi], Trần Quang Hợi [Hải Cát Thượng], Nguyễn Bạo [Hải Cát Hạ], Trần Quang Bỉnh [Hải Cát Thượng], Đặng Văn Tuân [Hải Cát Thượng], Lê Văn Kế [La Khê Trạm], Mai Văn Trọng [Hải Cát Thượng], Nguyễn Văn Nghệ [La Khê Trẹm], Nguyễn Bách [La Khê Trẹm], Nguyễn Thị Châu [Kim Ngọc], Mai Văn Trừng [Đình Môn], Phan Bá Cừ [Dương Hòa], Mai Văn Sử [Đình Môn], Nguyễn Dương [Kim Ngọc]. Về sau, các đồng chí trên mất liên lạc với tổ chức và không thể tiếp tục hoạt động.

Nhờ sự phát triển mạnh của lực lượng đảng viên đã góp phần quan trọng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Chi bộ Hương Thọ và Tổ đảng Dương Hòa trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch trên mọi mặt, dưới mọi hình thức để từng bước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.

Sau khi xây dựng hệ thống đồn bốt tại địa phương, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng và củng cố lại bộ máy tề - ngụy, nhằm tạo lập chính quyền tay sai phục vụ cho những chính sách xâm lược của chúng. Trước tình hình đó, ta chủ trương biến hội tề của địch thành lực lượng hoạt động phục vụ cho cách mạng, bằng cách đưa một số người của ta cài vào hoạt động trong các tổ chức của địch để có điều kiện hoạt động công khai và kiên quyết trừng trị những tên phản cách mạng phục vụ đắc lực cho thực dân Pháp. Tại Dương Hòa [Hương Nguyên], mặc dù địch đã thành lập bộ máy hương lí làm tay sai cho chúng nhưng bộ máy này đã bị vô hiệu hóa vì ta đã cài người của mình vào đây.

Thực hiện chủ trương không để địch tăng cường các hoạt động quân sự nhằm chống phá lực lượng cách mạng, ta đã tập trung lực lượng dân quân tiến hành bao vây liên tục không cho địch tiếp xúc với bên ngoài. Kết hợp với bao vây, ta tiến hành binh vận, kêu gọi những binh lính lầm đường lạc lối, thức tỉnh trở về với cách mạng.

Đầu năm 1947, Đội hành động [tổ chức của An ninh Trinh sát vũ trang] về đóng quân tại Đình Môn [khu vực lăng Gia Long]. Để giữ vai trò liên lạc giữa đồng chí lãnh đạo Ty Công an ở Dương Hòa với tổ Minh Khai [các cơ sở, các điệp báo viên cắm trong thành phố], các đội viên đội công an hành động qua cơ sở ở Dương Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo đường dây liên lạc giữa Đội Công an Hành động ở chiến khu Dương Hòa và thành phố.

Tháng 3/1947 tại 2 thôn Dương Hòa và Đình Môn, dựa vào bọn phản động và Linh mục Nguyễn Ngọc chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt 13 cán bộ chủ chốt của xã đem về đồn Nam Giao để khai thác dụ dỗ nhưng không thành. Chính vì vậy, nhiệm vụ trừ gian, diệt tề tại đây được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng kháng chiến và củng cố niềm tin cho nhân dân[15]. Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, tháng 7/1947, đồng chí Thân Trọng Một, Phạm Công Lan phối hợp với đồng chí Hồ Văn Hiến [Xạ Hiến], Chủ tịch xã Hương Nhuyên chỉ huy quyết tử quân, du kích đánh và giải tán bọn phản động tại đây. Linh mục Ngọc phải bỏ giáo xứ chạy về nhà thờ Thần Phù.

Sau chiến thắng này, ta đã làm chủ hoàn toàn con đường liên lạc Bắc - Nam đi qua Dương Hòa, mở ra vành đai bảo vệ từ Le Le lên đến điện Hòn Chén, tạo tiền đề to lớn để năm sau xây dựng chiến khu Dương Hòa[16]. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Dương Hòa từ đây bắt đầu có những bước phát triển mới. Chuyển từ thế phòng ngự sang chiến tranh du kích diệt tề, trừ gian. Từ đó đã tạo dựng được những tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân quân du kích ở Dương Hòa.

Do vậy, vào đầu năm 1948, mặc dù thực dân Pháp thực hiện kế hoạch bình định vùng đồng bằng và bao vây chiến khu miền núi, tiến hành xây dựng đồn bốt, làm chỗ dựa về quân sự cho việc xây dựng chính quyền tề, ngụy của chúng nhưng vẫn không đàn áp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Du kích các xã đã ra sức phối hợp với bộ đội chính quy [Trung đoàn 101] đánh địch càn quét, hỗ trợ nhân dân làm chủ thôn xóm. Hoạt động vũ trang được đẩy mạnh khắp toàn huyện.

- Sự ra đời của chiến khu Dương Hòa và các hoạt động đấu tranh cách mạng bảo vệ chiến khu của nhân dân Dương Hòa [từ giữa năm 1948 đến năm 1949].

Vấn đề xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hàng đầu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Nhận thức rõ về vấn đề trên, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, việc chọn địa bàn để xây dựng thành điểm đứng chân cho các ban ngành lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và bảo toàn lực lượng cách mạng rất được Tỉnh ủy chú trọng thực hiện. Trên cơ sở đó, từ năm 1947 các chiến khu cách mạng đã lần lượt ra đời: chiến khu Hòa Mỹ [Phong Điền], chiến khu Trò [Hương Trà], Khe Tre - Nam Đông [Phú Lộc]... Tại Hương Thủy chiến khu động Mỏ Tàu [ở đất xóm Hộ, Dương Hòa] đã được thành lập vào năm 1947, đặt tên là chiến khu Phương Hải để tưởng nhớ 2 đồng chí đã hy sinh: đồng chí Lê Trạc [Hải], Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách Huyện ủy Phú Vang và đồng chí Nguyễn Thượng Phương [Hương Thủy].

Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng ở các huyện phía Nam của tỉnh phát triển mạnh nhằm để đáp ứng yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, tháng 5/1948, Tỉnh ủy đã quyết định chuyển địa bàn từ chiến khu Hòa Mỹ vào vùng rừng núi phía Tây huyện Hương Thủy để xây dựng chiến khu Dương Hòa, lấy làng Dương Hòa làm trung tâm của chiến khu.

Việc lựa chọn Dương Hòa làm căn cứ đứng chân của lãnh đạo tỉnh không phải được quyết định một cách ngẫu nhiên, mà quyết định này được đưa ra trên cơ sở những phân tích về vị trí địa lí và thực tiễn hoạt động của các tổ chức cách mạng tại đây.

  • Về mặt vị trí địa lí, chiến khu Dương Hòa hội tụ nhiều yếu tố mà chiến khu Hòa Mỹ không thể có được.

Dương Hòa là vùng đất được bao bọc bởi 2 nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch, có núi non che chở ở phía Tây, phía Nam gần đô thị Huế [cách Huế 12km], cách trung tâm huyện lị Hương Thủy 11km theo đường chim bay, nằm trên tuyến đường nối liền 2 chiến khu Hòa Mỹ [Phong Điền] và Khe Tre - Nam Đông [Phú Lộc], tạo thế liên hoàn giữa các mặt trận.

Chiến khu bao gồm địa phận xã Hương Thọ [Hương Trà] và các vùng lân cận khu vực rừng núi của dãy Trường Sơn trùng điệp, tiếp giáp với thôn Lương Miêu. Ngoại vi chiến khu bao gồm Bình Điền, An Bằng, Hải Cát và một số thôn thuộc các xã Phú Sơn, Thủy Bằng [Hương Thủy]. Do vậy, từ chiến khu Dương Hòa ta có nhiều thuận lợi để triển khai các hoạt động về các xã đồng bằng: Dương Hòa - Hương Thủy [từ Dương Hòa về Ấp 5, Thủy Phương], Dương Hòa - Hương Hồ [từ Dương Hòa qua đồi “Đất Mẹ” [Thủy Bằng], sau lưng điện Hòn Chén về Hương Hồ], Dương Hòa - Huế [Dương Hòa vượt qua sông đến Thủy Bằng về Huế], Dương Hòa - Liên khu 5 [Dương Hòa băng qua Khe Sòng, Khe Ván đi Nam Đông lên Liên khu 5].

Nhìn chung,“đặc điểm của chiến khu Dương Hòa là dễ thủ khó công. Tiếp tế lên về có nhiều đường, nhiều phía. Đánh địch cũng dễ vì chỉ cần vận động trong thời gian ngắn là có thể đến được nơi cần đến”[17] nên có nhiều ưu thế để cơ quan đầu não kháng chiến tỉnh chọn đây làm nơi đứng chân của mình để lãnh đạo kháng chiến.

  • Về mặt địa hình, Dương Hòa có nhiều điểm cao nếu ta làm chủ sẽ rất thuận lợi để nắm bắt kịp thời những mưu đồ và hoạt động của thực dân Pháp, Chính phủ bù nhìn Trung Kỳ, tạo điều kiện chỉ đạo sâu sát tình hình toàn tỉnh và thành phố Huế; nhiều khe, động, núi, sông ở Dương Hòa là những địa bàn lí tưởng để làm nơi trú chân của các cơ quan, ban, ngành lãnh đạo kháng chiến. Đến cuối tháng 6/1948, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh đã di chuyển vào Chiến khu Dương Hòa an toàn:
  • Ty Công an đặt cơ quan tại lăng Gia Long.
  • Cơ quan quân sự, cơ quan đầu não tỉnh đóng ở khe Ồ Ồ [một nhánh của khe Dài].

*Bệnh viện, cơ quan thông tin văn hóa, cơ quan Thành ủy Huế đóng ở Khe Cống, đồi 815.

  • Trung đoàn 101 thường trú quân ở thôn Lương Miêu, Đại đội trọng pháo đóng quân ở Bến Trẹ [Dương Hòa].
  • Xưởng quân giới đóng ở Khe Dài.
  • Cơ quan tòa án, Công an tỉnh đóng ở xóm Hạ và xóm Trung [Buồng Tằm, Dương Hòa].

Chiến khu Dương Hòa được thành lập một mặt vừa tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa tiếp nhận sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo kháng chiến của Tỉnh ủy, Huyện ủy, mặt khác cũng đặt ra cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chiến khu và phải tổ chức các hoạt động đảm bảo việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho chiến khu.

Trong những ngày đầu mới thành lập, Chiến khu Dương Hòa dựa vào sự che chở, tiếp tế của nhân dân các làng khắp Hương Thủy, Hương Trà cũng như thị xã Huế để duy trì hoạt động.

Hàng hóa trung chuyển từ đồng bằng lên Chiến khu Dương Hòa để chi viện cho các cơ quan cách mạng đều tập kết cạnh miếu Ngũ Hành, ở thôn Hạ [một thôn của Dương Hòa]. Với vai trò, vị trí trọng yếu như vậy đối với chiến khu, khu vực này được xem như là chợ kháng chiến của ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược[18]. Hoạt động của chợ kháng chiến Dương Hòa thời kì này rất tấp nập. Gần như mọi thứ hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống cán bộ, nhân dân đều có ở đây. Ngay cả khi địch tiến hành ngăn chặn, cô lập Chiến khu Dương Hòa khốc liệt, chợ kháng chiến Dương Hòa vẫn tiếp tục duy trì hoạt động. Nhiều đoàn dân công từ Dương Hòa lên, về thành phố tiếp tế lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, bộ đội; nhiều con em Dương Hòa đã phải hi sinh vì bom đạn của địch hoặc bị bắt bớ tù đày trong quá trình vận chuyển các nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu, song vẫn một lòng trung thành với cách mạng; có nhiều chị; nhiều mẹ tháng tháng, ngày ngày nuôi giấu cán bộ, nuôi dưỡng thương binh, không một chút suy tính[19].

Chương III

Đăng lúc: 17/09/2021 [GMT+7]
100%

Chương III

ĐẢNG BỘ TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO CAO TRÀODÂN SINH, DÂN CHỦ

CHỐNG CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT 1936 - 1939

Hậu quả nặng nề của khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929 - 1933 làm cho nền kinh tế các nước tư bản tiêu điều. Sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các nước đến quốc đã thúc đẩy các đế quốc Đức - Ý - Nhật gây chiến chia lại thị trường thế giới, giành giật thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu.Họa phát xít và nguy cơ chiến tranh đe dọa loài người đến gần.

Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh dâng cao ở Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Trung Quốc... Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều mong muốn thống nhất hàng ngũ giai cấp mình, động viên tất cả lực lượng dân chủ và hòa bình đoàn kết đấu tranh.

Trước tình hình ấy, tháng 7-1935, Quốc tếCộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của các Đảng cộng sản, đặc biệt là kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Pháp trong đấu tranh ngăn chặn bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Đại hội khẳng định: “Chủ nghĩa phát xít chính là con đẻ của khủng hoảng kinh tế cực kỳ sâu sắc trong khuôn khổ cuộc tổng khủng hoảng chủ nghĩa tư bản. Nhân dân toàn thế giới hoàn toàn có thể ngăn chặn được chủ nghĩa phát xít lên nắm chính quyền và lật đổ chủ nghĩa phát xít”[1]. Đại hội chủ trương tập trung khả năng, sức lực của giai cấp công nhân, nhân dân thế giới vào sự nghiệp chống chiến tranh xâm lược, giành tự do dân chủ, bảo vệ hòa bình thế giới: “Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn chặt với việc thiết lập khối liên minh chiến đấu với giai cấp nông dân dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông vững chắc mà thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, hòa bình và cải thiện đời sống”[2].

Ở Pháp, tháng 1 năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp chống phát xít được thành lập, bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội cấp tiến... trong đó Đảng Cộng sản là nòng cốt. Mặt trận đề ra cương lĩnh đòi thả hết tù chính trị, giải tán và tước vũ khí bọn phát xít, thực hiện tuần làm việc 40 giờ, tăng trợ cấp cho người thất nghiệp, giúp đỡ nông dân... Đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của Mặt trận nêu ra việc thành lập Phái đoàn của Quốc hội Pháp điều tra tình hình các nước thuộc địa, trong đó đặc biệt chú ý là vùng Bắc Phi và Đông Dương, toàn xá tù chính trị, ban hành các quyền tự do dânchủ, tự do nghiệp đoàn, cải thiện điều kiện làm việc cho giới lao động.

Tình hình thế giới, nhất là tình hình nước Pháp đã tác động tích cực đến tình hình chính trị ở Việt Nam và các nước thuộc địa Pháp.

Tại Việt Nam, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, các tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân Việt Nam bị đẩy vào cuộc sống vô cùng khó khăn. Giai cấp công nhân bị thất nghiệp đến 30%, thời gian lao động phải kéo dài, bị đánh đập, cúp phạt... Giai cấp nông dân điêu đứng vì địa tô, nợ lãi cao, sưu thuế nặng nề, phu phen tạp dịch triền miên, lại bị bọn địa chủ cường hào địa phương bóc lột, ức hiếp... Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, công chức lớp dưới, dân nghèo thành thị, học sinh... cuộc sống thiếu thốn, bỏ học, bỏ nghề... Tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ, tư sản dân tộc bị bọn tư sản mại bản, tư sản chính quốc và đại địa chủ chèn ép nên buôn bán thua lỗ, mất mát tài sản, rơi vào tầng lớp lao động.

Tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân có nguyện vọng chung là: tự do dân chủ, cơm áo hòa bình. Đó là động lực mạnh mẽ để Đảng ta khi có điều kiện thuận lợi phát động nhân dân vùng dậy đấu tranh.

Tháng 7-1936, đồng chí Lê Hồng Phong[1]triệu tập Hộinghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Thượng Hải [Trung Quốc]. Hội nghị đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức đấu tranh trong tình hình mới, về nhiệm vụ chiến lược, Hội nghị khẳng định: nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến không thay đổi. Xuất phát từtình hình cụ thể lúc bấy giờ, Hội nghị tạm thời chưa nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ mà chỉ nêu khẩu hiệu đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Hội nghị quyết đinh thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương baơ gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để cùng nhau đấu tranh để đòi những điều dân chủ đơn sơ.

Vềtổ chức và phương pháp đấu tranh, Hội nghị chỉ rõ phải triệt để lợi dụng những khả năng hoạt động công khai hợp pháp nhằm tập hợp và lãnh đạo quần chúng, đồng thời không được quên duy trì và phát triển các tổ chức bí mật của Đảng, phòng khi bất trắc.

Để phù hợp với thực tiễn của phong trào, Đảng chủ trương tiến tới thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Tại Hội nghị tháng 9-1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Thanh niên dân chủ Đông Dương thay Thanh niên Cộng sản liên đoàn, lập Hội Cứu tế bình dân. Công hội, Nông hội thay cho Cứu tếđỏ, Công hội đỏ,

Nông hội đỏ. Đồng thời chủ trương lập các hội quần chúng công khai và nửa công khai như Hội ái hữu, Hội tương tế.... Tháng 3-1937, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp về vấn đề tổ chức các lực lượng cách mạng của quần chúng và tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh thêm về chủ trương và sách lược đấu tranh. Đến Hội nghị tháng 3-1938, Trung ương Đảng đã thảo luận và nhấn mạnh việc thành lập Mặt trận dân chủ, “Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng”. Hội nghị quyết định đổi tên Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương [gọi tắt là Mật trận Dân chủ].

Nghị quyết của Trung ương Đảng là kim chỉ nam hướng dẫn các đảng bộ trong toàn quốc vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Cũng như các địa phương trong cả nước, vào thời kỳ này trên đất Thanh Hóa, thực dân Pháp cấu kết với chính quyền phong kiến áp bức bóc lột nhân dân, nhất là tầng lớp nhân dân lao động một cách tàn bạo.

Về chính trị: Chúng tăng cường hệ thống cai trị của triều đình nhà Nguyễn từ tỉnh đến làng, xã để dễ bề trấn áp, bóc lột nhân dân ta. Khi phong trào Mặt trận Dân chủ lên mạnh buộc chúng thay đổi về thái độ. Bề ngoài chúng không dám hành động trắng trợn như trước, nhưng bên trong chúng vẫn bí mật theo dõi hoạt động của các chiến sỹ cách mạng; phong trào cách mạng vẫn bị đàn áp, bắt bớ.

Vềkinh tế: Sau khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, các công ty tư bản ở Thanh Hóa bỏ thêm vốn và mở rộng kinh doanh ở Nhà máy cưa Hàm Rồng, Nhà máy rượu Nam Đồng Ích, nhà máy ép dầu, phốt phát, mỏ Cromit Cổ Định,... và mở thêm Nhà máy xay Hàm Rồng và đồn điền Yên Mỹ [Như Xuân], Vạn Lại [Thọ Xuân], Vân Du [Thạch Thành]... Chúng tăng thuế thân, ruộng đất, môn bài; định ra thuế mới như thuế cư trú, thuế lợi tức, thuế nhà ngói, thuế thủy lợi... Ngoài việc tăng thuế chúng còn đặt ra quốc trái lạc quyên để vơ vét tiền của. Thâm độc hơn, chúng đã dùng thủ đoạn trắng trợn bắt mỗi suất đinh phải mua 7 lít rượu trong 1 năm, nếu không mua chúng sẽ đánh đập, bắt bớ.

Bị chính quyền thực dân phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Khi được Đảng ta vận động phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới của nhân dân lao động bùng lên mạnh mẽ và rộng khắp.

I- ĐẢNG BỘ THANH HÓA TRIỂN KHAI CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG THÀNH PHONG TRÀO CÁCH MẠNG RỘNG LỚN

Do áp lực của tình hình chính trị trên thế giới, sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta, năm 1936, chính phủ Pháp phải thay đổi chính sách cai trị ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam.

Tại Thanh Hóa, năm 1936, một số cán bộ bị thực dân Pháp bắt thoát khỏi nhà tù trở về địa phương. Có thêm lực lượng lãnh đạo, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mở rộng. Để thống nhất sự lãnh đạo, ngày 15-3-1936, Tỉnh ủy lâm thời tổ chức hội nghị cán bộ tại chùa Yên Lộ [nay thuộc xã Thiệu Vũ, Thiệu Hóa] kiểm điểm tình hình, bàn chủ trương tiếp tục đưa phong trào tiến lên và kiện toàn Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ. Hội nghị đã đề ra chủ trương:

Tiếp tục củng cố và phát triển các hội quần chúng, phát triển đảng viên. Tổ chức các cuộc mít tinh để tuyên truyền giác ngộ cách mạng trong quần chúng. Chấn chỉnh lại hệ thống giao thông liên lạc, lập thêm thùng thư bí mật ở các huyện. Ra tờ báo Tia sáng thay cho tờ Hồn Lao động. Tìm cách liên lạc với Trung ương Đảng.

5 đồng chí: Lê Chủ, Trịnh Huy Quang, Bùi Đạt, Hoàng Văn Mạch, Trịnh Khắc Sản được bầu vào Tỉnh ủy. Đồng chí Lê Chủ được cử làm Bí thư. Tỉnh ủy đã phân công nhiệm vụ cho từng người như sau:

- Đồng chí Lê Chủ phụ trách tổ chức và các huyện Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Đông Sơn.

- Đồng chí Trịnh Huy Quang phụ trách tờ “Tia sáng” và cơ quan in của Tỉnh ủy, huyện Vĩnh Lộc.

- Đồng chí Bùi Đạt phụ trách phong trào công khai ở thị xã Thanh Hóa và các huyện: Hậu Lộc, Nga Sơn.

- Đồng chí Hoàng Văn Mạch phụ trách huyện Yên Định.

Từ sau Hội nghị này, phong trào cách mạng trong tỉnh tiếp tục được phát triển. Các đồng chí Tỉnh ủy đã cùng với đảng viên ở các cơ sở: Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Đông Sơn, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thạch Thành... đã tập trung vận động phát triển, củng cố Hội tương tế ái hữu. Những nơi chưa thành lập được Hội ái hữu, các đồng chí vận động thành lập các Hội biến tướng của quần chúng. Hội ái hữu tập trung vào nhiệm vụ vận động quần chúng giúp đỡ nhau khi khó khăn, đấu tranh giành quyền sống hàng ngày. Trong đó có quyền học tập nâng cao dân trí. Hội ái hữu làng Ngọc Vực [Yên Định] vận động quần chúng đóng tiền và đóng góp công sức xây dựng trường học chữ quốc ngữ chống nạn thất học cho nhân dân lao động theo chủ trương của Tỉnh ủy. Để cổ vũ việc mở trường lớp bình dân và khích lệ phong trào quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, cuối tháng 3- 1936, Hội ái hữu huyện Yên Định đã tổ chức mít tinh khánh thành trường Ngọc Vực thu hút đông đảo hội viên ái hữu và quần chúng huyện Yên Định và cả đại biểu các huyện Quảng Hóa [Vĩnh Lộc], Thiệu Hóa, Thạch Thành, Thọ Xuân tham dự. Phong trào đấu tranh đòi mở các trường, lớp từ đó phát triển rộng góp phần làm cho phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trong tỉnh phong phú, linh hoạt, đa dạng hơn. Báo “Tia sáng” - cơ quan tuyên truyền của Tỉnh ủy được đặt tại nhà đồng chí Lê Hồng Quế [thôn Phù Hưng, xã Yên Thái, huyện Yên Định] đã kịp thời tuyên truyền, hướng dẫn, biểu dương phong trào cách mạng của quần chúng. Mùa thu năm 1936, các báo công khai của Đảng như Lao động, Tin tức, Nhành lúa... được phát hành rộng rãi ở Thanh Hóa. Tỉnh ủy chủ trương tạm đình bản báo Tia sáng để chỉ đạo hướng dẫn việc phát hành sách báo công khai của Đảng.

Vào thời điểm bấy giờ, Đảng bộ Thanh Hóa chưa liên lạc được với Trung ương Đảng, nhưng thông qua báo chí công khai, Tỉnh ủy đã kịp thời tổ chức hưởng ứng Đông Dương Đại hội được tiến hành sôi nổi và rộng rãi. Mở đầu phong trào là việc Tỉnh ủy bố trí lực lượng vận động các nhà khoa cử có xu hướng tiến bộ chống lại âm mưu phá hoại phong trào Đông Dương Đại hội do Đảng chủ trương; mặt khác phân công cán bộ, đảng viên tổ chức phát động quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ủy ban hành động cách mạng ở các huyện được thành lập bao gồm đại biểu các giai cấp, các tầng lớp nhân dân tham gia, trong đó công nhân, nông dân đóng vai trò nòng cốt. Trong vòng một tháng, ủy ban hành động cách mạng tỉnh đã tập hợp được hàng trăm bản kiến nghị với hàng ngàn chữ ký, điểm chỉ đòi Chính phủ Pháp phải thi hành cải cách ở Đông Dương gửi lên Công sứ Thanh Hóa.

Trước phong trào mạnh mẽ của quần chúng, bọn phản động thuộc địa được quan thầy dung túng đã tiến hành đàn áp công khai kết hợp với chia rẽ và xoa dịu. Ngày 15 tháng 9 năm 1936, chúng ra lệnh giải tán các ủy ban hành động cấm tất cả các cuộc hội họp của nhân dân, bắt và khám xét những người đứng đầu các ủy ban hành động tịch thu các báo tuyên truyền cổ động cho Đại hội Đông Dương.

Đại hội Đông Dương bị cấm nhưng phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, cải thiện đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động ngày càng phát triển mạnh hơn. Công nhân đấu tranh đòi tăng lương, chống cúp phạt, chống đuổi thợ; nông dân đấu tranh đòi cứu tế, chống lụt, chống đói, đòi giảm tô, giảm tức, chống cướp giật ruộng đất; tiểu thương, tiểu chủ đòi giảm thuế chợ,...

Vào chiều 14-9-1936, tên Phó đoan Béc-Nác-Đê đem lính về làng Phong Cốc lùng sục vào từng nhà lấy cớ là đi bắt những người nấu rượu lậu, nhưng thực chất là tìm kiếm cơ sở và tài liệu cách mạng.

Đoán được âm mưu của quân thù, cơ sở cách mạng đã vận động nhân dân đấu tranh ngăn chặn. Lấy cớ là bọn Tây đoan chưa trình báo lệnh khám xét cho lý trưởng, quần chúng đã bao vây bọn lính và không cho khám xét. Tên Tây đoan Béc- Nác- Đê đã bắn chết lý trưởng làng Phong Cốc. Lửa căm hờn dâng cao, quần chúng kiên quyết đấu tranh đòi tên sát nhân phải đền mạng, buộc tri phủ Thiệu Hóa phải đến can thiệp...

Cuộc đấu tranh của nhân dân làng Phong Cốc tiếp tục diễn biến quyết liệt. Địch đã bắt một số người nhưng được Hội ái hữu Liên khu vực Thiệu Hóa - Yên Định ủng hộ, nhân dân làng Phong Cốc vẫn kiên trì đấu tranh. Cuối cùng bọn thống trị phải trả tự do cho số người bị bắt, kết tội tên sát nhân 5 tháng tù treo và trục xuất y khỏi xứ Trung Kỳ.

Cuộc đấu tranh thắng lợi đã tạo ra tiếng vang lớn, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh dân chủ trong huyện, trong tỉnh phát triển mạnh mẽ.

Tháng 12-1936, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại làng Yên Lộ, nhận định tình hình và đề ra chủ trương mới: Đẩy mạnh phong trào đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp lên một bước mới trên địa bàn toàn tỉnh bằng các hình thức phong phú. Tổ chức hoạt động công khai và nửa công khai ở thành phố, vận động công nhân ở các nhà máy và dân nghèo thành thị. Cử người tiếp tục bắt liên lạc với Trung ương Đảng; mở các lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày phổ biến tình hình và phương sách đấu tranh mới. Đồng chí Trịnh Huy Quang, Bí thư Tỉnh ủy được phân công phụ trách tuyên truyền, huấn luyện, thanh niên; đồng chí Lê Chủ, Phó Bí thư phụ trách tổ chức, giao thông, tài chính và phong trào nông thôn; đồng chí Bùi Đạt phụ trách phong trào công khai ở thị xã Thanh Hóa.

Chủ trương của Tỉnh ủy được các địa phương thực hiện nghiêm túc, ở Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc... tổ chức Nông Hội Đỏ chuyên thành Hội Tương tê ái hữu, Hội Hiếu nghĩa... Làng Ngọc Vực, Yên Lộ đã có sáng kiến tổ chức theo ngành nghề và giới như: Nông Hội Tương tế, Thanh Niên Tương tế, Phụ Nữ Tương tế, Phụ Lão Tương tế. Làng Long Linh tổ chức Hội “Kỳ anh” để thu hút những kỳ lão có uy tín trong làng làm hậu thuẫn cho các cuộc đấu tranh hợp pháp ở nông thôn.

Song song với xây dựng củng cố Hội tương tế ái hữu, chuyển các tổ chức Nông Hội Đỏ thành Hội Tương tế ái hữu [xin gọi tắt là Hội ái hữu] và tổ chức phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp ở nông thôn. Tỉnh ủy đã khẩn trương xây dựng cư sở cách mạng ở thị xã, các thị trấn trong tỉnh.

Được sự phân công của Tỉnh ủy, đồng chí Bùi Đạt và một số đồng chí khác đã mở hiệu giặt là ở thị xã Thanh Hóa, lúc đầu đặt tại phố Nhà Giòng, sau đó chuyển sang phố Huế. Hiệu giặt là trở thành cơ sở liên lạc giữa đồng chí Bùi Đạt với Tỉnh ủy và quần chúng cách mạng trong thị xã Thanh Hóa. Từ hiệu giặt là, cơ sở phát triển sang phố Cửa Hậu, ngõ Ba Đình và nhiều nơi trong thị xã Thanh Hóa, tạo ra nhân tố khởi động phong trào đấu tranh công khai hợp pháp. Tháng 7-1937, bị quân thù theo dõi, hiệu giặt là đóng cửa, đồng chí Bùi Đạt và các chiến sĩ cách mạng chuyển đến địa điểm mới tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng.

Đi đôi với việc vận động cách mạng trong nông dân, đồng chí Trịnh Huy Quang đã cùng với các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Văn Cài, Nguyễn Đức Nhuận, Trịnh Huy Lãn... đi vào đồn điền, nhà máy vận động cách mạng trong công nhân. Nhà máy diêm Hàm Rồng, Rượu Nam Đồng Ích, mỏ sắt Thanh Xá, Núi Bầu, Nông trường Yên Mỹ... công nhân đã tổ chức đấu tranh đòi tăng lương giảm giờ làm, chống đánh đập...

Đầu năm 1937 được tin Gô Đa, Phái viên Chính phủ Pháp sang Đông Dương điềư tra tình hình thuộc địa sẽ đi qua Thanh Hóa, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã phát động đưa thư thỉnh nguyện đòi dân sinh, dân chủ gửi Gô Đa lên Chính phủ Pháp.

Ngày 19-02-1937, các cuộc biểu tình đưa thư thỉnh nguyện đã được chuẩn bị chu đáo ở Còng [Tĩnh Gia], bến phà Ghép [Quảng Xương] và thị xã Thanh Hóa - những nơi Gô Đa dừng chân... Hàng ngàn đại biểu đã sẵn sàng thư thỉnh nguyện có chữ ký của hàng vạn quần chúng các huyện: Tĩnh Gia, Quảng Xương, thị xã Thanh Hóa, Cẩm Thủy, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Hà Trung, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa... Hoảng sợ trước phong trào mạnh mẽ của quần chúng, bọn tay sai phải thay đổi ngày giờ qua Thanh Hóa của Gô Đa nhằm ngăn cản sự tiếp xúc của quần chúng. Nhưng với tinh thần cảnh giác và nhiệt tình cách mạng, ngày 22 tháng 2 năm 1937, khi Gô Đa từ Hà Nội vào Thanh Hóa, một số cán bộ và quần chúng đã tìm cách gặp trực tiếp Gô Đa ở Tòa sứ.

Tháng 5 năm 1937, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, một số cán bộ Đảng đã tổ chức cuộc đình công của 2.000 thợ khai thác gỗ ở Thường Xuân đòi tăng lương từ 20 đến 30%, chống đánh đập, bãi bỏ chế độ bắt nợ với người làm khoán... Thời gian kéo dài gần 20 ngày và cuối cùng đã giành thắng lợi. Cuộc đình công của công nhân khai thác gỗ Thường Xuân thắng lợi đã cổ vũ công nhân ở các đồn điền: Yên Mỹ [Nông Cống], mỏ sắt Trà Là, Thanh Xá [Hà Trung], nhà máy Rượu Nam Đồng Ích [thị xã Thanh Hóa ], nhà máy Diêm Hàm Rồng tiếp tục tổ chức đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm.

Năm 1937, Hội ái hữu đã trở thành tổ chức quần chúng rộng lớn ở các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Đông Sơn, Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hậu Lộc, Nga Sơn, Hoằng Hóa... Hội đã tìm ra các hình thức hoạt động phong phú đa dạng đưa quần chúng xuống đường đấu tranh.

Tháng 5 năm 1937, tri phủ Thiệu Hóa cho nha lại đưa lính và phu tuần về các làng tả ngạn sông Chu cắm đất nhổ hoa màu chuẩn bị làm đường. Hội ái hữu làng Yên Lộ đã vận động nhân dân không cho phá hoa màu, đòi bồi thường thiệt hại. Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, bọn thống trị phải hoãn việc đắp đường.

Cũng vào tháng 5 năm 1937, hàng ngàn quần chúng Yên Định, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy đã đưa bản dân nguyện phản đối tri huyện quỵt tiền công đắp đê Yên Hoành. Bọn địch đã bắt đồng chí Lê Hồng Quế - người thay mặt Tỉnh ủy đã lãnh đạo cuộc đấu tranh. Căm phẫn cao độ đối với hành động của địch, hơn 300 quần chúng với cuốc thuổng và công cụ đắp đê, dưới sự chỉ đạo của các chiến sĩ Cộng sản đã kéo đến huyện đường đòi trả tự do cho người bị bắt và trả tiền công đắp đê Yên Hoành. Cuối cùng bọn thống trị bắt buộc phải thực hiện ý nguyện của nhân dân.

Tháng 9 năm 1937, Hội ái hữu của công nhân đồn điền Yên Mỹ được thành lập và vận động công nhân đấu tranh đòi tăng tiền công, giảm giờ làm, bọn chủ định đàn áp, công nhân tuyên bố đình công. Tên chủ đồn điền là Đờ-Ôn sợ thất thiệt lớn phải tuyên bố tăng tiền công từ 3 xu lên 5 xu và giảm giờ làm từ 13 giờ lao động còn 9 giờ trong 1 ngày.

Bên cạnh phong trào công nhân, nông dân, phong trào của học sinh, trí thức đô thị phát triển mạnh. Các cuộc đấu tranh đòi miễn giảm học phí, chống trù dập ức hiếp học sinh phát triển và đẩy mạnh ở trường Thành Chung... Các cuộc tuyên truyền yêu nước, mít tinh ủng hộ Mặt trận Nhân dân Tây Ban Nha... tổ chức ở Núi Nhồi, Hàm Rồng, Rừng Thông, v.v. Phong trào học chữ quốc ngữ, đọc sách báo cách mạng được tổ chức ở nhiều khu phố, thu hút đông đảo lực lượng tiểu thương, tiểu chủ tham gia.

Một trong những sự kiện chính trị nổi bật trong năm 1937 là cuộc vận động bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ. Nắm thời cơ Đảng chủ trương mở rộng phong trào đấu tranh công khai hợp pháp, Tỉnh ủy tiến hành thực hiện cuộc vận động bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ.

Mặc dù lúc này Đảng bộ Thanh Hóa vẫn chưa bắt được liên lạc với Trung ương Đảng, nhưng qua báo chí công khai, Tỉnh ủy Thanh Hóa chủ trương lựa chọn và ủng hộ những thân sỹ tiến bộ ra ứng cử. Trước khi vận động tuyển cử, liên lạc với một số người có uy tín trong thân sỹ, tổ chức cuộc Hội nghị hiệp thương [tại nhà Cử Trác, phố Lò Chum] để cử ra người ứng cử ở các khu vực:

- Hoàng Văn Khái [cử Ngò]: Khu vực thị xã, Quảng Xương.

- Nguyễn Đan Quế [đốc Quế]: Hà Trung, Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy.

- Lê Nguyên Phong [cử Phong][1]: Khu vực Nông Cống,Tĩnh Gia.

- Nguyễn Duy Vận [tú Vận]: Khu vực Thọ Xuân,Yên Định.

- Lê Mậu Biền [tú Biền]: Khu vực Thiệu Hóa,Đông Sơn.

- Nguyễn Duy Cừ: Khu vực Hoằng Hóa,Hậu Lộc.

Chính quyền thực dân phong kiến cũng đưa Tống Khắc Hân, Phan Văn Giáo ra tranh cử.

Với hình thức vận động linh hoạt, sáng tạo, hầu hết những người ứng cử do Cách mạng giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao. Cảtỉnh có 6 đơn vị bầu cử thì người Cách mạng giới thiệu trúng cử ở 5 đơn vị. Riêng khu vực Thọ Xuân, Yên Định, Phan Văn Giáo được chính quyền thực dân ủng hộ, mới trúng cử vào đợt bầu cử lần 2.

Thắng lợi trong cuộc bầu cử viện dân biểu Trung Kỳ đã kiểm nghiệm và xác minh chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng là đúng đắn. Thắng lợi này sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết để Đảng ta mở rộng phong trào đấu tranh công khai hợp pháp.

Sau cuộc bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ, Hội ái hữu ở các làng, tổng trong nhiều phủ, huyện được phát triển mở rộng và sáng tạo thêm nhiều hình thức hoạt động nhằm tập hợp đông đảo quần chúng vào trận tuyến đấu tranh. Hội ái hữu làng Yên Lộ đã sáng tạo 3 hình thức hợp tác: Tổ chức 2 nhóm HTX nông nghiệp giúp đỡ nhau sản xuất, tổ chức HTX tiêu thụ hàng thiết yếu, tổ chức HTX mua bán nông sản chống đầu cơ...

Các cuộc vận động cách mạng của Đảng bộ trong những năm 1936 - 1937 đã đưa đông đảo quần chúng xuống đường đấu tranh dưới các hình thức công khai hợp pháp, tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy phong trào đấu tranh trong tỉnh lên cao trào.

II- PHONG TRÀO DÂN SINH DÂN CHỦ PHÁT TRIỂN TỚI ĐỈNH CAO

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy [tháng 12 năm 1936], năm 1937, Tỉnh ủy đã nhiều lần cử cán bộ đi tìm bắt liên lạc với Trung ương nhưng không kết quả. Tháng 11 năm 1937, Tỉnh ủy cử đồng chí Bùi Đạt ra Hà Nội. Đồng chí đã gặp đồng chí Hà Bá Cang [tức Hoàng Quốc Việt] ở cơ quan “Thời báo”, nhận được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng.

Sau khi chắp nối liên lạc với Trung ương Đảng, tháng 12-1937, Trung ương cử Phái viên vào Thanh Hóa trực tiếp kiểm tra tình hình và phổ biến chủ trương mới. Tỉnh ủy Thanh Hóa đã khẩn trương tổ chức Hội nghị mở rộng tại làng Yên Lộ [Thiệu Vũ, Thiệu Hóa] kiểm điểm tình hình hoạt động và tiếp thu chủ trương của Đảng:

- Về đối ngoại: Đảng ta ủng hộ Liên bang Xô Viết, ủng hộ Mật trận bình dân Pháp, ủng hộ hòa bình, chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới.

- Về đối nội: Đảng ta chủ trương xây dựng Mặt trận Nhân dân thống nhất Đông Dương, tập hợp mọi lực lượng chống bọn phản động thuộc địa đế quốc và tay sai, đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Tại Hội nghị, đồng chí Phái viên đã thay mặt Trung ương Đảng công nhận Đảng bộ Thanh Hóa là Đảng bộ chính thức trực thuộc Xứủy Trung Kỳ.

Thực hiện Nghị quyết Tỉnh Ủy, ngày 11 tháng 2 năm 1938, Đảng bộ tổ chức một cuộc mít tinh liên huyện tại làng Chiềng [tức làng Trịnh Xá, Yên Ninh. Yên Định] để tuyên truyền vận động quần chúng tham gia Mặt trận Dân chủ, đòi thực hiện “Tự do, cơm áo, hòa bình”. Đồng chí Trịnh Huy Quang, Lê Chủ, Nguyễn Xuân Thúy, Lê Hồng Quế trong Ban lãnh đạo cuộc mít tinh này.

Theo kế hoạch đã định, ngày 11 tháng 2 năm 1938 cán bộ, đảng viên ở nhiều địa phương đã vận động quần chúng kéo về rất đông. Còi lệnh được phát ra, quần chúng có tổ chức và đông đảo nhân dân tập trung. Đồng chí Nguyễn Xuân Thúy và Lê Hồng Quếlên diễn thuyết. Trên 3.000 quần chúng ở các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc đã hô vang các khẩu hiệu: “ủng hộ Liên bang Xô viết thành trì của cách mạng thế giới”, “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”, “ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống Nhật”, “Cương quyết chống phát xít, chống đế quốc chiến tranh” và các khẩu hiệu đòi quyền tự do dân chủ. Cuộc mít tinh đã tạo ra tiếng vang lớn đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng Thanh Hóa.

Cùng với vận động quần chúng tham gia Mặt trận Dân chủ, Tỉnh ủy quyết định thành lập ủy ban Vận động cách mạng ở các phủ, huyện. Tính đến đầu năm 1938 đã có 10 phủ, huyện thành lập UBVĐCM. Việc thành lập UBVĐCM thực chất là cuộc vận động cách mạng rộng lớn nhằm tuyên truyền giác ngộ quần chúng tích cực tham gia các phong trào đấu tranh công khai hợp pháp và bán hợp pháp, trên cơ sở đó lựa chọn bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cho các phủ, huyện.

Ngay sau khi ra đời. UBVĐCM đã tập hợp đoàn kết đông đảo quần chúng tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương và các tổ chức Thanh niên Dân chủ. Phự nữ Dân chủ, Hội học sinh, Hội Đọc sách báo, Hội ái hữu... và đưa quần chúng xuống đường đấu tranh chống thuế, chống phù thu lạm bổ, chống mê tín dị đoan, bài trừ hủ tục, vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng Nhật.

Tại thị xã Thanh Hỏa: Đồng chí Hoàng Văn Cài và Nguyễn Đức Nhuận được Tỉnh ủy phân công vào làm việc tại Nhà máy Rượu Nam Đồng ích để vận động công nhân tham gia cách mạng. Được giác ngộ, hơn 70% công nhân Nhà máy đã làm kiến nghị đòi tăng 15% lương hàng tháng. Sợ công nhân đình công làm thất thiệt. Giám đốc nhà máy buộc phải tăng lương cho công nhân.

Cùng với công nhân Nhà máy Rượu Nam Đổng ích. dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Công Song, hơn 100 công nhân xc kéo tổ chức đình công đòi chủ hạ giá thuê xe, chống đánh đập. Chống đền bù khi xe bị hỏng. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt, bọn chủ buộc phải đáp ứng yêu cầu của công nhân.

Tại các huyện vùng Trung Châu: Phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột, đòi lự do dân chủ diễn ra quyết liệt:

Quần chúng huyện Yên Định dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Hồng Quế đã tổ chức cuộc biểu tình lớn đòi nợ huyệnTương lấy lại số liền đóng góp làm nhà thương mà y định biển lận.

Sáng ngày 7-4-1938, đi đầu là đoàn đại biểu Hội ái hữu, tiếp sau là đoàn biểu tình gần 600 người, từ làng Là Thôn [Định Liên, Yên Định] kéo đến huyện đường, vừa đi vừa hò vang các khẩu hiệu đòi tự do, dân chủ, đòi huyện Tương phải trả nợ cho dân... Trước sức mạnh của quần chúng, y hứa trả nợ trước khi chuyển đến huyện Cẩm Thủy.

Phát huy thắng lợi, đoàn biểu tình tiếp tục diễu hành qua các làng, xã trong huyện. Quần chúng các địa phương tiếp tục gia nhập đoàn biểu tình, hô vang các khẩu hiệu đấu tranh.

Tiếp sau là cuộc đấu tranh của nhân dân làng Long Linh, nhân dân tổng Thử Cốc vào ngày 12-4-1938. Được tin tri phủ Thiệu Hóa tuần hạt về tổng Thử Cốc, Hội ái hữu các làng Long Linh Ngoại, Xá Lê, Phú Hậu đã vận động 300 quần chúng dương cao băng khẩu hiệu chặn dường tri phủ Phan Thanh Kỷ đòi trả tiền công đắp đường cho dân. Trước sức mạnh của nhân dân, tri phủ Thiệu Hóa phải trả sốtiền công đắp đường còn nợ.

Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ lên cao, chính quyền thực dân phong kiến phải chấp nhận “Cải lương hương tục”. Lợi dụng thời cơ này, Tỉnh ủy đã chỉ đạo cơ sở cách mạng làng, xã trong tỉnh dự thảo khế ước với nội dung: Loại bỏ hủtục, tự do lập hội, tự do mở trường... Mùa hè năm 1938. Công sứ La-gre-đơ và Tổng đốc Nguyễn Hy buộc phải phê chuẩn khế ước “Cải lương hương tục” của các làng: Yên Lộ, Ngô Xá, Mao Xá, Phong Cốc, Trung Lập, Phù Hưng và nhiều làng, xã khác.

Dựa trên khế ước đã được phê chuẩn, quần chúng đã tích cực đấu tranh chống hủ tục, xây dựng mở rộng các trường lớp bình dân, mở rộng Hội ái hữu. Tại làng Bình Ngộ, phụ nữ đã có phong trào cắt tóc ngắn, mặc quần dài. Tại nhiều làng xã trong tỉnh đã thành lập Ban Vận động khuyến học phát triển mở rộng phong trào truyền bá chữ quốc ngữ. Thông qua việc dạy và học, các chiến sỹ Cộng sản đã nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Những bài thơ, ca dao, hò vè về Cách mạng Tháng Mười Nga, chống áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến... là một phần của việc dạy và học.

Tiếp tục nâng cao ý thức cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân, tháng 5 năm 1938 tại Thị xã Thanh Hóa thành lập “Thanh Hoa thư quán”, đại lý phát hành công khai sách báo của Đảng do đồng chí Bùi Đạt làm chủ hiệu, đồng chí Trịnh Hữu Thường trực tiếp bán sách và giao dịch. “Thanh Hoa thư quán” dần dần trở thành trung tâm tuyên truyền, chỉ đạo, cung cấp sách báo tiến bộ cho các cơ sở cách mạng trong tỉnh. Các tờ báo Tiến bộ và cuốn sách “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh và Vân Đình [tức đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp] đã trở thành vũ khí tuyên truyền sắc bén và thu hút đông đảo quần chúng tham gia các cuộc đấu tranh. Đến cuối năm 1938, nhiều Hội đọc sách báo ở các huyện được thành lập như Hoằng Hóa, Quảng Xương, Đông Sơn, Thiệu Hóa...Cùng với Hội đọc sách báo, Hội truyền bá quốc ngữ được thành lập và phát triển. Tại Thị xã có các lớp đặt tại trụ sở Tri tân học hội, ở nông thôn, các trường học được tổ chức theo từng làng. Các cơ sở cách mạng ở địa phương đã cử cán bộ ra dạy học. Cũng trong thời kỳ này, Tỉnh ủy chủ trương tiếp tục xây dựng các tổ chức dân chủ thu hút đông đảo các tầng lớp quần chúng vào trận tuyến đấu tranh, đặc biệt là thanh niên và phụ nữ.

Tháng 3 năm 1938, dưới sự chỉ đạo trực liếp của đồng chí Trịnh Huy Quang, Bí thư Tỉnh đoàn, Đoàn Thanh niên Tân tiến được thành lập ở Thị xã với 15 đoàn viên. Tháng 6 năm 1938, Đoàn Thanh niên Tân tiến được đổi tên thành Đoàn Thanh niên Dân chủ. Lực lượng thanh niên trong tỉnh được tập hợp đông đảo và được tổ chức chặt chẽ. Đến cuối năm 1939, toàn tỉnh đã có 15 nhóm thanh niên Dân chủ ở các phủ, huyện,

Đồng thời với việc thành lập Đoàn Thanh niên dân chủ, Tỉnh ủy chỉ đạo thành lập Hội Phụ nữ dân chủ vào tháng 6 năm 1938 trên cơ sở hội Phụ nữ Giải phóng được thành lập từ tháng 2 - 1935.

Hội Phụ nữ Dân chủ được thành lập đầu tiên ở Thị xã Thanh Hóa gồm 10 hội viên và nhanh chóng phát triển đến các huyện: Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Hoằng Hóa... Đến cuối năm 1939 đã có 900 hội viên.

Việc xây dựng, phát triển mở rộng hệ thống tổ chức quần chúng đã tạo ra lực lượng cách mạng đông đảo, đưa phong trào dân sinh, dân chủ từ thấp lên cao, từ đấu tranh kinh tế lên đấu tranh chính trị trên địa bàn toàn tỉnh.

Năm 1938, phong trào đấu tranh đòi bỏ thuế, khất thuế, miễn giảm thuế diễn ra quyết liệt tại các vùng Trung Châu Thanh Hóa. Mở đầu là nhân dân các làng: Phù Hưng, Ngọc Vực, Phúc Tỉnh, Trịnh Xá, Quảng Hàn... [Yên Định] đấu tranh đòi khất thuế lưu động. Tri huyện đã bắt giam những đại biểu lên huyện nộp đơn khất thuế. Không lùi bước, dưới sự chỉ đạo của các chiến sỹ Cộng sản, quần chúng tổ chức thành đoàn biểu tình lên huyện đòi thả người bị bắt và đòi khất thuế. Cuộc đấu tranh thắng lợi đã tạo ra tiếng vang lớn thúc đẩy nhân dân các huyện: Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Quảng Hóa [Vĩnh Lộc]... đấu tranh đòi miễn giảm thuế.

Theo “Báo cáo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về tình hình chính trị ở Đông Dương từ 1936 - 1939" thì ở Thanh Hóa có 1.739 người và 47 lá đơn của các làng tổng gửi cho Phủ toàn quyền đòi giảm thuế và đòi quyền tự do dân chủ.

Tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân lao động đến tận xương tuỷ, giữa năm 1938. Khâm sứ Trung Kỳ và chính quyền phong kiến đã đưa ra dự án thuế mới. Từ thành thị đến nông thôn, nhân dân đã tổ chức mít tinh biểu tình lấy chữ ký, thu thập bản kiến nghị gửi Phủ toàn quyền, Tòa Khâm sứ, Viện Dân biểu Trung Kỳ. Trước áp lực của quần chúng, Viện Dân biểu Trung Kỳ đã bác bỏ dự án thuếthân và thuếđiền thổ của Chính phủ Nam triều.

Cùng với đấu tranh chống thuế, công nhân mở sắt Thanh Xá, công nhân xe kéo Thị xã, công nhân Nhà máy Diêm Hàm Rồng liên tục tổ chức đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống cưỡng bức, đánh đập, cúp phạt.

Từ giữa năm 1938, phong trào trong tỉnh phát triển mạnh và lan ra diện rộng. Đồng chí Trịnh Huy Quang [Bí thư Tỉnh ủy] đã về Nhà máy Diêm Hàm Rồng xây dựng phong trào. Lúc đầu đồng chí tập hợp một số thanh niên vào “Hội bóng đá”. Đầu năm 1939, từ “Hội bóng đá”, Hội Tương tế ái hữu được thành lập thu hút đông đảo anh em công nhân tham gia.

Cùng với các cuộc đấu tranh kinh tế, Tỉnh ủy chủ trương đẩy mạnh cuộc vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống phát xít Nhật nhân ngày 7-7-1938 [ngày Song thất].

Cuộc vận động đã diễn ra trên quy mô toàn tỉnh, từ Thị xã đến các phủ, huyện vùng đồng bằng châu thổ, Hội ái hữu đã tổ chức các cuộc mít tinh vạch trần âm mưu gây chiến tranh của phát xít Nhật, kêu gọi quần chúng quyên góp tiền, gửi thư tỏ tình đoàn kết chiến đấu với nhân dân Trung Hoa. Cuộc vận động đã đem lại hiệu quả chính trị xã hội to lớn. Trong báo cáo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về tình hình Đông Dương đã viết: nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã gửi cho các chiến sỹ Trung Hoa 100 đồng và một lá thư cổ vũ gồm 2.330 chữ ký.

Cuối năm 1938 do phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ lên cao, bọn thống trị đã đề ra cái gọi là “Hội đồng Hương chính” cố tạo ra dân chủ giả hiệu nhằm lừa mị nhân dân. Vận dụng tình thế hợp pháp, Tỉnh ủy chủ trương vận động quần chúng đòi phổ thông đầu phiếu đưa người của cách mạng vào Hội đồng Hương chính. Cuộc vận động đã diễn ra sôi nổi ở các huyện: Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc... Nhân dân các xã đã cử cán bộ cách mạng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong Hội đồng Hương chính - tạo thêm điều kiện đấu tranh công khai hợp pháp.

Tiếp sau là cuộc vận động tổ chức kỷ niệm “Quảng Châu Công x㔠vào ngày 22-12. Mặc dù bọn cầm quyền đã ra lệnh quản thúc một số chính trị phạm mà chúng cho là nguy hiểm để hòng trấn áp tinh thần đấu tranh của quần chúng trong tỉnh, nhưng nhiều cuộc mít tinh đã được tổ chức bí mật hoặc bán công khai ở các huyện. Trong đó có 2 cuộc mít tinh lớn:

- Cuộc mít tinh ở chợ Mía làng Phong Mỹ, tổng Thử Cốc [Xuân Lai, Thọ Xuân] có 300 người tham gia, do đồng chí Trịnh Khắc sản diễn thuyết.

- Cuộc đấu tranh ở làng Ngọc Trung và Thuần Hậu [Xuân Minh, Thọ Xuân] có hàng ngàn người tham gia, do đồng chí Nguyễn Xuân Thúy chủ trì.

Trong các cuộc mít tinh, quần chúng biểu hiện thái độ khâm phục và hoan hô tinh thần anh dũng của các chiến sỹ Quảng Châu Công xã, ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống Nhật, đòi tự do dân chủ, tự do đi lại, tự do báo chí...

Năm 1939, các cuộc đấu tranh của nhân dân trong tỉnh tiếp tục diễn ra sôi nổi rầm rộ: Nhân dân làng Cẩm Bao [Nông Cống] chống tri phủ cấu kết với Nhà Chung cướp đất của nhân dân làm nhà thờ. Công nhân Nhà máy Diêm Hàm Rồng đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm dưới hình thức viết đơn kiến nghị lấy chữ ký của 500 công nhân gửi Ban Thanh tra lao động của Chính phủ, gửi sang Pari. Nhân dân khu vực Hà Trung - Nga Sơn và Vĩnh Lộc - Thạch Thành - cẩm Thủy đã bỏ phiếu cho những người cách mạng giới thiệu bổ sung vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, mặc dù bọn thống trị giở thủ đoạn hăm dọa, mua chuộc cử tri cuối cùng vẫn thất bại. Riêng ngày 01-5-1939, đã tổ chức 23 cuộc mít tinh đòi thi hành Luật Lao động, tự do nghiệp đoàn, toàn xá chính trị phạm... gồm hàng ngàn quần chúng tham dự. Nhân dân các xã trong tỉnh tiếp tục đấu tranh thực hiện “Cải lương hương tục”, bầu cử người của cách mạng vào Hội đồng Hương chính. Riêng làng Yên Lộ đã cử 15 người thuộc phía cách mạng vào Hội đồng Hương chính, đẩy mạnh cải cách hương tục, bài trừ hủ tục lạc hậu...

Tháng 4-1939, Đảng bộ huyện Thiệu Hóa - Đảng bộ cấp huyện được thành lập đầu tiên trên địa bàn Thanh Hóa đã tiến hành Hội nghị bầu Huyện ủy gồm 3 đồng chí [Hoàng Văn Quế, Ngô Ngọc Toản, Hoàng Văn Đài]. Đồng chí Hoàng Văn Quế được cử làm Bí thư. Hội nghị bầu 2 đồng chí Lê Huy Toán và Ngô Đức đi dự Hội nghị Đảng bộ tỉnh. Hội nghị Đảng bộ huyện Thiệu Hóa thành công đã tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy phong trào cách mạng huyện nhà phát triển và tạo ra nền tảng vững chắc nuôi dưỡng bảo vệ Tỉnh ủy và các cơ quan của Đảng bộ tỉnh đóng trên địa bàn.

Tiếp tục thúc đẩy cao trào cách mạng trong tỉnh phát triển, Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị Đảng bộ tỉnh vào ngày 20 tháng 6 năm 1939 tại nhà ông Hoàng Văn Cài. thôn Yên Lộ, phủ Thiệu Hóa [nay thuộc xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa]. Thay mặt cho 50 đảng viên thuộc 9 chi bộ trong tỉnh, các đại biểu đã kiểm điểm sâu sắc tình hình của Đảng bộ trong 2 năm qua, đồng thời đề ra những chủ trương công tác cấp thiết trước mắt trong tình hình mới. Cụ thể là: Tăng cường phát triển cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng, chú ý những địa phương chưa xây dựng được cơ sở cách mạng. Khẩn trương đưa một số bộ phận hoạt động công khai vào hoạt động bí mật. Tổ chức kỷ niệm, quyên góp ủng hộ nhân dân Trung Hoa chống Nhật, chống chiến tranh phát xít, kêu gọi phòng thủ Đông Dương. Hội nghị đã bầu Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí [Lê Chủ, Nguyễn Đức Dương, Hoàng Văn Mạch, Bùi Đạt, Hoàng Văn Cài], đồng chí Lê Chủ được cử làm Bí thư.

Sau Hội nghị Đảng bộ Tỉnh, Tỉnh ủy đã khẩn trương chuyển Thanh Hoa Thư quán vào hoạt động bí mật, chuyên các cơ quan Tỉnh ủy lừ Thị xã về làng Yên Lộ [Thiệu Hóa], đồng thời tăng cường củng cố phát triển các cơ sở bí mật của Đảng bộ trên địa bàn toàn tỉnh.

Tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phát xít, Đảng bộ đã tiến hành cuộc vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa, kháng chiến chống phát xít Nhật dưới các hình thức: Mít tinh, quyên tiền, viết thư, thu thập chữ ký tỏ tình đoàn kết với nhân dân Trung Hoa. Nhiều làng xã các huyện: Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Hà Trung, Hoàng Hóa, Nga Sơn, Quảng Xương, Tĩnh Gia... đã tổ chức mít tinh và quyên góp tiền ủng hộ nhân dân Trung Hoa.

Tại Thị xã Thanh Hóa, Tỉnh ủy tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Hội quán Hoa kiều có gần 600 người tham dự. Đồng chí Bùi Đạt thay mặt nhân dân Thanh Hóa trao cho đại diện Hoa kiều 108 đồng Đông Dương và hàng trăm lá thư nhờ chuyển về Trung Quốc.

Sau khi kết thúc cuộc mít tinh, chính quyền thực dân phong kiến đã bắt giữ đồng chí Bùi Đạt. Một phong trào đấu tranh chống khủng bố đòi trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt diễn ra sôi sục trong tỉnh.

Nhân ngày kỷ niệm Cách mạng Tư sản Pháp [14-7], Tỉnh ủy phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, nhằm biểu dương lực lượng cách mạng, phản đối bọn thống trị phản động thuộc địa chà đạp lên quyền sống của nhân dân, kêu gọi quần chúng đấu tranh chống khủng bố. Kết quả trong 2 ngày [13 và 14-7-1939], nhiều cuộc mít tinh, biểu tình lớn đã diễn ra ở nhiều nơi trong tỉnh.

Tại Thị xã Thanh Hóa, Tỉnh ủy đã phối hợp với chi nhánh Đảng Xã hội tổ chức thành công cuộc mít tinh tại Rạp hát phố Cửa Hậu, thu hút đông đảo viên chức, học sinh, thân sỹ tham dự.

Tại Vĩnh Lộc: Hàng trăm quần chúng đã tham dự mít tinh ở thành Tây Giai, tạo ra tiếng vang lớn.

Tại Yên Định: gần 400 quần chúng tham dự mít tinh tại Núi Khoai, làng Yên Thành [Yên Hùng, Yên Định] rồi biến thành cuộc biểu dương lực lượng, hô vang khẩu hiệu và hát những bài ca cách mạng.

Tại Thọ Xuân, từ đầu tháng 7 năm 1939, dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Sỹ Oánh, Trịnh Hữu Thường, Hội nghị các cơ sở cách mạng Thọ Xuân đã họp quyết định phát động cuộc mít tinh lớn tại chợ Neo [nay thuộc xã Bắc Lương] để biểu dương lực lượng và thúc đẩy phong trào cách mạng trong huyện.

Sáng ngày 14 tháng 7 năm 1939, hàng ngàn quần chúng và tự vệ khắp nơi trong huyện đã được huy động về dự cuộc mít tinh. Đúng vào phiên chợ nên cuộc mít tinh còn thu hút thêm đông đảo quần chúng đủ các tầng lớp tham gia. Đồng chí Trịnh Hữu Thường thay mặt Ban lãnh đạo cuộc mít tinh đã lên án bọn phản động thuộc địa phản bội tinh thần Cách mạng Tư sản Pháp, đàn áp khủng bố Mặt trận Dân chủ Đông Dương, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh đòi quyền tự do, cơm áo, hòa bình.

Cuộc mít tinh đã chuyển thành cuộc biểu dương lực lượng. Quần chúng hàng ngũ chỉnh tề, giương cao băng khẩu hiệu tiến qua nhiều làng tổng trong huyện. Mặc dù chính quyền thực dân phong kiến đã chuẩn bị lực lượng nhưng trước sức mạnh của quần chúng không dám khủng bố.

Tại Thiệu Hóa, hàng ngàn người các tổng từ đêm 13 tháng 7 năm 1939 đã tập trung về chợ Đu [Thiệu Chính] để tham gia cuộc mít tinh. Không quản mưa to, gió lớn, lực lượng tự vệ ở các làng, tổng đã có mặt đưa đón, bảo vệ đoàn biểu tình. Đồng chí Hoàng Văn Quế [tức Quý] thay mặt ban tổ chức cuộc mít tinh diễn thuyết. Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu, đến chợ Đu thì giải tán. Tri phủ Thiệu Hóa đưa lính về đàn áp, nhưng quần chúng và tự vệ đã chặt cây chặn đường không cho ô tô đi vào, nên không bắt được ai.

Cuối năm 1939, chính quyền thực dân phong kiến tiến hành tập trung lực lượng đàn áp khủng bố quyết liệt phong trào cách mạng trong tỉnh. Hầu hết các đồng chí Tỉnh ủy và lãnh đạo chủ chốt các huyện bị bắt. Toàn tỉnh có hơn 100 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng rơi vào tay quân thù. Người trước bị bắt, người sau tiếp tục đứng lên. Những cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng chưa bị bắt tổ chức đấu tranh chống khủng bố, chuyển phong trào cách mạng Thanh Hóa sang thời kỳ mới.

Cao trào cách mạng 1936 - 1939 do Đảng bộ Thanh Hóa trực tiếp tổ chức lãnh đạo là cao trào cách mạng có quy mô rộng lớn mà trước đó chưa từng diễn ra trên địa bàn Thanh Hóa.

Đảng bộ Thanh Hóa - nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển của cao trào cách mạng trong tỉnh ra đời vào ngày 29-7-1930 nhưng bị quân thù liên tục tiến hành khủng bố trắng, phải thành lập đi thành lập lại nhiều lần và mãi đến cuối năm 1937 mới liên lạc được với Trung ương Đảng. Nhưng với sự năng động sáng tạo, Đảng bộ Thanh Hóa đã căn cứ vào báo chí công khai của Đảng sớm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: Tạm gác khẩu hiệu đánh đổ chính quyền thực dân phong kiến, tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi, tập hợp mọi lực lượng đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa đế quốc và nguy cơ chiến tranh thế giới.

Những năm 1935 - 1937, Đảng bộ đã sáng tạo ra Hội Tương tế ái hữu, ủy ban vận động cách mạng và các tổ chức biến tướng để tập hợp đoàn kết toàn dân vào trận tuyến đấu tranh. Những năm 1938 - 1939, có sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Đảng bộ đã nhanh chóng xây dựng các tổ chức dân chủ, huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh lên cao trào rộng lớn.

Vừa xây dựng phát triển lực lượng, vừa tổ chức đấu tranh, Đảng bộ và quần chúng cách mạng đã sáng tạo ra nhiều hìnhthức, phương pháp sâu sắc sát hợp làm cho chủ trương, đường lối của Đảng trở thành hiện thực sinh động, đưa phong trào đấu tranh từ thấp lên cao, từ quy mô làng xã tiến lên quy mô toàn tỉnh, từ đấu tranh giành các mục tiêu kinh tế tiến tới các mục tiêu chính trị - xã hội.

Trong đấu tranh cách mạng, Đảng bộ đã xây dựng được lực lượng chính trị rộng lớn, hùng hậu, được giác ngộ cách mạng sâu sắc, được tổ chức chặt chẽ. Đảng bộ trưởng thành trên các phương diện: Chính trị, tư tưởng, tổ chức. Cao trào cách mạng 1936 - 1939 thực sự trở thành cuộc tổng diễn tập cách mạng trên địa bàn Thanh Hóa.

Tuy vậy, phong trào cách mạng phát triển không đều, chủ yếu tập trung phát triển ở khu vực đồng bằng và ven biển, các huyện miền núi cơ sở cách mạng non yếu, phong trào đấu tranh chậm phát triển, công tác phát triển Đảng chưa có điều kiện thực hiện. Tính đến năm 1939 toàn tỉnh có 9 chi bộ nhưng mới có 50 đảng viên [so với thời kỳ 1930 - 1931 ít hơn 7 đảng viên]. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo và đảng viên xem nặng hoạt động công khai, xem nhẹ hoạt động bí mật, khi tình hình thay đổi, phần lớn cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng bị lộ, bị địch khủng bố.

Mặc dù còn những khuyết điểm nhưng cao trào cách mạng 1936 - 1939 đã tạo ra những điều kiện cơ bản chuyển sang thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Nguồn Cổng TTĐT Tỉnh ủy


[1],[2] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập 1 [1930 - 1954]. NXB Sự thật. HN 1984. Tr 321.

[1] Đồng chí Lê Hồng Phong lúc này là UV Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản khóa VII.

[1] Lịch sử Thanh Hóa tập 5. Trang 101 ghi là Lê Khắc Đông.

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Video liên quan

Chủ Đề