Phi ngôn từ là gì
Kỹ năng giao tiếp phi ngôn từBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.35 KB, 26 trang ) ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM 4.1. Giúp chúng ta truyền đạt tới đối tượng giao tiếp những thông điệp, ý nghĩa khó diễn đạt bằng lời nói trực tiếp............................................................8 4.2. Giúp chúng ta đọc được thái độ và cảm nghĩ của đối tượng giao tiếp.........................................9 4.3. Các thông điệp phi ngôn từ ngẫu nhiên và vô tình có độ tin cậy rất cao...................................10 II. THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC KĨ NĂNG GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ...................................10 III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÁC KĨ NĂNG GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ...............................................12 1. Cận ngôn ngữ:....................................................................................................................................12 2. Ngoại ngôn ngữ:.................................................................................................................................14 2.1.Ngôn ngữ thân thể:........................................................................................................................14 2.2 Ngôn ngữ vật thể:..........................................................................................................................19 2.3 Ngôn ngữ môi trường....................................................................................................................21 IV. KẾT LUẬN..............................................................................................................................................24 MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ở mọi thời đại, mọi xã hội, giao tiếp, ứng xử giữa con người và con người diễn ra liên tục, trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, trong sinh hoạt đời thường cũng như trong công việc. Giao tiếp vừa biểu hiện văn hóa của mỗi người, vừa biểu hiện mức độ văn minh của xã hội. Để không bị tụt lại trong một xã hội phát triển từng giây, từng phút của hiện tại thì đòi hỏi các cơ quan, tổ chức và đặt biệt là các doanh nghiệp phải luôn thích ứng, đổi mới và hoàn thiện về nhiều mặt. Ngày nay khi thế giới dần dần bị thu nhỏ lại, phẳng ra thì sự va chạm giữa các nền văn hóa khác nhau được nhận thấy rõ ràng nhất trong quá trình giao tiếp. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, chắc hẳn đã có lần họ phải cân nhắc trước khi gặp gỡ các đối tác quốc tế: nên giao tiếp theo phong tục của ta hay của họ, cư xử như thế nào cho đúng mực vì ngôn ngữ là rào một cản không nhỏ. Một nghiên cứu của Birdwhistell - người đi tiên phong trong việc nghiên cứu giao tiếp phi ngôn từ, và ban đầu được ông gọi là ý nghĩa cử chỉ. Ông ước tính rằng con người có thể tạo ra và nhận dạng được khoảng 250.000 biểu cảm trên khuôn mặt. Hay một nghiên cứu khác của Allan Pease và Albert Melrabian (Mỹ) thì trong quá trình giao tiếp trực tiếp, lời nói bao gồm ba yếu tố: ngôn ngữ, phi ngôn ngữ (hay còn gọi là ngôn ngữ của cơ thể) và giọng điệu. Ngôn ngữ, lạ thay chỉ góp phần nhỏ nhất 7% trong việc tác động đến người nghe, giọng điệu chiếm tới 38% và yếu tố phi ngôn ngữ lại trở nên quan trọng nhất vì sở hữu được 55%. Từ hai nghiên cứu điển hình trên về giao tiếp phi ngôn từ, chúng ta cũng phần nào hiểu được vai trò, tầm quan trọng, nội dung cũng như những vấn đề xoay quanh giao tiếp phi ngôn từ vô cùng quan trọng và phong phú. Giả sử rằng trong cuộc nói chuyện kéo dài 30 phút, cả hai người có thể biểu hiện hơn 800 thông điệp phi ngôn từ khác nhau. Nếu cả hai người đều không hiểu hoặc không nhận ra những thông điệp này, thì cả hai chỉ dừng lại ở mức độ giao tiếp thấp và cuộc giao tiếp khá là thất bại vì có thể chẳng đi đến mục đích ban đầu. Vì thế, trong bài tiểu luận Kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ này mong rằng sẽ giúp chúng ta làm rõ hơn về giao tiếp phi ngôn từ, cũng như hiểu được tầm quan trọng và có thể áp dụng được một số cách thức giao tiếp phi ngôn từ vào thực tế. NỘI DUNG I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1. Giao tiếp là gì? Hiện nay có nhiều khái niệm giao tiếp khác nhau, ở đề tài này sẽ nói đến một số khai niệm giao tiếp cơ bản như: Giao tiếp là quá trình trao đổi và tiếp xúc giữa con người với môi trường của mình, trong quá trình đó nó sử dụng tất cả các phương thức cảm giác, đa kênh truyền. Giao tiếp là hình thức đặc trung cho mối quan hệ giữa con người với con người, qua đó nãy sinh sự tiếp xúc tâm lý, được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, hiểu biết, rung cảm và tác động qua lại lẫn nhau. Giao tiếp trong quản lý là sự tiếp xúc giữa nhà quản lý với những người khác có liên quan trong hoạt động quản lý nhằm đạt tới mục tiêu quản lý đề ra. Giao tiếp là một nghệ thuật. Giống như bất kỳ năng lực nghệ thuật khác, nó đòi hỏi huấn luyện và kỹ luật. 2. Giao tiếp phi ngôn từ là gì? Giao tiếp phi ngôn từ có nhiều định nghĩa khác nhau từ những góc độ khác nhau. Giao tiếp phi ngôn từ là loại hình giao tiếp không sử dụng ngôn ngữ mà dùng những phương thức khác sử dụng điệu bộ, cử chỉ của cơ thể để truyền đạt thông tin: giọng nói, nhịp điệu, ngữ điệu, cách đi đứng, cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, vẻ mặt, tư thế, trang phục, khoảng cách, vị trí Các công trình nghiên cứu về giao tiếp hiện nay đều khó có thể được coi là đầy đủ nếu không, ở các mức độ khác nhau đề cập đến các bình diện khác nhau của giao tiếp phi ngôn từ. Theo Knapp: Giao tiếp phi ngôn từ hàm chỉ các hành động hoặc các biểu hiện ngoài ngôn từ. Các hành động hoặc các biểu hiện vốn có ý nghĩa được chia sẽ về mặt xã hội đó được gửi đi một cách có chủ đích hoặc được diễn giải như là có chủ đích và được gửi đi hoặc tiếp nhận một cách có ý thức. [] Giao tiếp phi ngôn từ là một thuật ngữ để miêu tả tất cả các sự kiện giao tiếp vượt lên trên ngôn từ khẩu ngữ và bút ngữ. Ở một góc độ khác, các nhà nghiên cứu hiện nay nhìn chung đều thống nhất rằng giao tiếp phi ngôn từ bao gồm các hiện tố hữu thức và vô thức, chủ định và vô tình, và đó cũng là một trong những lý do gây ra các trục trặc trong giao tiếp phi ngôn từ không chỉ giao văn hóa mà thậm chí cả nội văn hóa. Lenine và Adelman cho rằng: Giao tiếp phi ngôn từ là ngôn ngữ im lặng (silent language), bao gồm việc sử dụng cử chỉ, diện hiện [biểu hiện trên khuôn mặt NQ], nhãn giao [tiếp xúc ánh mắt NQ], và khoảng cách đối thoại. Dwyer lại có cách nhìn khái quát hơn, và với ví dụ đi kèm đã nhận thức rõ hơn về các bình diện khác nhau của giao tiếp phi ngôn từ. Theo tác giả Giao tiếp phi ngôn từ bao gồm toàn bộ các bộ phận của thông điệp không được mã hóa bằng từ ngữ. Ví dụ: giọng nói, diện hiện hoặc cử chỉ và chuyển động. Một khái niệm về giao tiếp phi ngôn từ được sử dụng phổ biến và mang tính bao quát, tổng hợp các khái niệm ví dụ trên như sau: Giao tiếp phi ngôn từ là toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp không thuộc mã ngôn từ (verbal code) , có nghĩa là không được mã hóa bằng từ ngữ, những có thể thuộc về cả hai kênh (channels) ngôn thanh (vocal) và phi ngôn thanh (non-vocal). Nó bao gồm các yếu tố cận ngôn (phi ngôn từ - ngôn thanh) như tốc độ, cường độ, ngữ lưu và các yếu tố ngoại ngôn (phi ngôn từ - phi ngôn thanh) thuộc ngôn ngữ thân thể như: cử chỉ, dáng điệu, diện hiện, thuộc ngôn ngữ vật thể như: áo quần, trang sức, và thuộc ngôn ngữ môi trường như khoảng cách đối thoại, địa điểm giao tiếp 3. Phân loại giao tiếp phi ngôn từ 3.1. Phân loại theo các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp phi ngôn từ: Nếu xét toàn bộ tình huống giao tiếp với tuyến trung tâm giao tiếp là các yếu tố nội ngôn và đường biên giao tiếp là toàn bộ các yếu tố cảnh huống gián tiếp tham gia vào quá trình giao tiếp, chúng ta có các yếu tố cấu thành sơ đồ như sau: a) Cận ngôn ngữ: Bao gồm các yếu tố đặc tính ngôn thanh, các yếu tố xen ngôn thanh. b) Ngoại ngôn ngữ: Bao gồm: - Ngôn ngữ thân thể: Khuôn mặt, cử chỉ, thể chất, tư thế, chuyển động thân thể, hành vi động chạm - Ngôn ngữ vật thể: Trang phục, trang sức, phụ kiện, quà tặng, nước hoa - Ngôn ngữ môi trường: Địa điểm, khoảng cách giao tiếp, màu sắc, thời gian, ánh sáng, văn hóa Sơ đồ phân loại các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp phi ngôn từ: Giao tiếp phi ngôn từ Cận ngôn - Các đặc tính ngôn thanh - Các yếu tố xen ngôn thanh Ngoại ngôn Ngôn ngữ Ngôn ngữ Ngôn ngữ thân thể vật thể môi trường Khuôn mặt, cử chỉ, thể chất, tư thế, chuyển động thân thể, hành vi động chạm Trang phục, trang sức, phụ kiện, quà tặng, nước hoa Địa điểm, khoảng cách giao tiếp, màu sắc, thời gian ánh sang, văn hóa 3.2. Phân loại theo nguồn gốc giao tiếp: a) Giao tiếp phi ngôn từ cá nhân: Giao tiếp phi ngôn từ cá nhân gồm các loại hành vi phi ngôn từ khác nhau mà chỉ duy nhất một người có được. Ý nghĩa của hành vi đó cũng là duy nhất đối với người gửi thông điệp. Ví dụ: Giả sử người A có thể vừa đọc sách, vừa nói chuyện lại vừa xem tivi, trong khi người B lại chỉ có thể làm một việc duy nhất hoặc là đọc sách, hoặc là xem tivi mà thôi. b) Giao tiếp phi ngôn từ văn hóa: Giao tiếp phi ngôn từ văn hóa là đặc tính của một nhóm người, một xã hội, hay một nên văn hóa. Được tiếp thu thông qua quan sát những thành viên khác thuộc cùng một nhóm, cùng một xã hội hay cùng một văn hóa. Ví dụ: Trong văn hóa công sở ở Việt Nam những người phụ nữ thích trò chuyện và chơi thành một nhóm với nhau, đồng thời khoảng cách giao tiếp thường là khoảng cách gần và thân mật. Còn văn hóa công sở ở phương Tây thì những người phụ nữ lại có xu hướng giao tiếp thân mật với người khác phái hơn. Giao tiếp phi ngôn từ văn hóa mang tính đặc thù cho mỗi nền văn hóa, vì mỗi nền văn hóa đều có giá trị riêng của nó. Vì thế, có thể một hành vi được coi là phù hợp với nền văn hóa này lại không phù hợp và mang ý nghĩa tiêu cực khi được sử dụng ở nền văn hóa khác. Ví dụ: Trong văn hóa ăn uống của người Hàn Quốc thì một trong những điều tối kị là không được bưng bát cơm lên miệng, người Hàn Quốc cho rằng bưng bát cơm lên như vậy là thô tục, bất lịch sự, và có vẻ phàm ăn tục uống. Trong khi đó điều này đối với người Việt thì không có sự tối kì và xem đó là chuyện bình thường. c) Giao tiếp phi ngôn từ phổ niệm: Giao tiếp phi ngôn từ phổ niệm là loại hành vi có ở mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Nó biểu hiện cái trạng thái tình cảm khác nhau như vui, buồn, tức giận Ví dụ: Khi buồn người ta thường trầm mặc và khóc, khi vui người ta thường cười d) Giao tiếp phi ngôn từ phi quan yếu: Giao tiếp phi ngôn từ quan phi yếu thường là những hành vi thuần túy mang tính sinh học như ngáp, hắt hơi, ho Mặc dù chúng cũng là tín hiệu theo cách mà chúng được phát ra (mà phần lớn là không chủ ý) và có thể được diễn giải bởi người nhận nhưng không ai muốn coi chúng là phần mở rộng của ngôn ngữ. Nếu chúng xuất hiện không chủ ý trong khi nói như một biểu hiện của phản ứng sinh học thì hiếm khi chúng tạo ra nhiễu trong kênh truyền dẫn. Ví dụ: Người ốm vừa nói chuyện vừa ho và đã ho nhiều ngày thì việc đó là điều đương nhiên và không tạo ra sự hiểu lầm (ví dụ như tín hiệu đuổi khách). Nếu theo tập tục và chủ ý của người tham gia giao tiếp mà chúng được tạo ra như tín hiệu của sự bất thường thì chúng hoạt động không phụ thuộc và ngoài ngôn ngữ. Ví dụ: Khi lại gần một số người đang trao đổi việc gì đó có vẻ bí mật mà ta không muốn nghe lỏm họ thì ta thường giả vờ ho để cảnh báo là đang có người lại gần. 4. Tầm quan trọng của giao tiếp phi ngôn từ Giao tiếp phi ngôn từ có vai trò rất quan trọng trong quá trình giao tiếp. Nghiên cứu về giao tiếp phi ngôn ngữ trở nên bùng nổ vào giữa những năm 1960 với một lượng lớn nhà nghiên cứu và các nhà tâm lý học. Điển hình như Argyle và Dean, họ đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa giao tiếp bằng mắt và khoảng cách khi đối thoại. Ralph V. Exline thì đưa ra các hình mẫu của kiểu nhìn trong khi nghe và nói. Eckhard Hess tạo ra hàng loạt những nghiên cứu liên quan đến sự giãn nở của đồng tử và được xuất bản trong cuốn Khoa học Hoa Kỳ... Công trình nghiên cứu của A. Pease nhằm khẳng định tầm quan trọng và tính độc lập của loại giao tiếp này trong cả môi trường nội văn hóa và giao văn hóa. Ông cho rằng Điều kì diệu là hình như con người không ý thức được rằng dáng điệu, chuyển động và cử chỉ của mình có thể kể ra một câu chuyện trong khi tiếng nói của anh ta có thể kể ra một câu chuyện khác. Birdwhistell cho rằng một người (Mĩ) trung bình một ngày thường chỉ sửng dụng ngôn từ trong khoản từ 10 đến 11 phút và một phát ngôn trung bình có độ dài hơn hẳn 2,5s. Ông cũng nhận ra rằng thành tố trong các cuộc thoại trực diện chỉ chiếm gần 35% trong khi hơn 65% thuộc về thành tố phi ngôn từ. Theo Lavine và Adelman (1993), trong giao tiếp thông thường, 93% nội dung là do giọng điệu và các biểu hiện trên nét mặt quyết định; chỉ có 7% thông điệp được chuyển tải bằng ngôn từ. Beisler et al. cũng khẳng định: Không thể bàn luận về giao tiếp khẩu ngữ mà không xét đến giao tiếp phi ngôn từ vì chỉ có khoảng một phần ba thông điệp trong một tình huống người người là được truyền tải bởi nguồn thuần túy. Ta vốn ít tin vào ngôn ngữ thuần túy. Mario Pei (1971) cho biết con người ta có thể tạo ra được khoảng 700.000 kí hiệu thân thể khác nhau, một số lượng kí hiệu tương ứng với số lượng từ của một ngôn ngữ rất phát triển. Một số tác giả nêu ra ba lý do để biện giải cho tầm quan trọng của giao tiếp phi ngôn từ: - Thứ nhất, người ta dễ dàng ghi nhớ cái người ta nhìn thấy hơn là cái người ta nghe thấy. - Thứ hai, giao tiếp phi ngôn từ xuất hiện nhiều hơn giao tiếp ngôn từ. - Thứ ba, người ta có thể dễ dàng lừa dối bằng giao tiếp ngôn từ, nhưng rất khó lừa dối bằng giao tiếp ngôn từ. Trong hoạt động giao tiếp trực tiếp, ngôn ngữ không bằng lời có ý nghĩa hết sức quan trọng vì ngôn từ chỉ chiếm một phần truyền đạt và những điều không nói ra đôi khi lại quan trọng hơn những điều nói ra. Chính yếu tố này góp phần tạo ra nghĩa cho ngôn ngữ. Hầu như mọi người đều tin nói như thế nào nhiều hơn nói cái gì. Điều đó có nghĩa dáng vẻ của chúng ta khi nói quan trọng hơn những gì chúng ta nói. 4. Vai trò của giao tiếp phi ngôn từ 4.1. Giúp chúng ta truyền đạt tới đối tượng giao tiếp những thông điệp, ý nghĩa khó diễn đạt bằng lời nói trực tiếp. Khi nói đến nghệ thuật giao tiếp nơi công sở, chúng ta thường nghĩ đến vấn đề ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói hằng ngày. Tuy nhiên, ngôn ngữ cơ thể bao gồm các cử chỉ, động tác thể hiện qua ánh mắt, nụ cười, hành động của bàn taytưởng đơn giản nhưng lại có tác dụng rất hiệu quả. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đống ý rằng lời nói chủ yếu dùng để truyền tải thông tin còn ngôn ngữ cơ thể dùng để trao đổi thái độ giữa người với người và trong một số trường hợp nó dùng để thay cho lời nói. Các loại hành vi phi ngôn từ thay thế cho lời nói trực tiếp rất đa dạng. Có loại mang tính phổ quát và phi biểu cảm cao. Nhưng cũng có loại mang tính phổ quát và phi biểu cảm rõ rệt. Có loại mang tính phổ quát thấp nhưng lại có tính biểu cảm cao. Dù sao, cũng cần lưu ý rằng trong các cộng đồng ngôn ngữ văn hóa khác nhau, vai trò này được sử dụng ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào các giá trị, quan niệm và phong cách giao tiếp. Ví dụ: Khi cô giáo hỏi Bạn lớp trưởng đi đâu rồi?, ở cộng đồng văn hóa Âu, Mĩ nếu không nói gì và chỉ tay sang phòng bên cạnh thì hành vi này được tiếp nhận một cách bình thường. Nhưng trong cộng đồng ngôn ngữ Việt thì hành vi này được xem là thiếu lễ phép và khó được chấp nhận. Giao tiếp phi ngôn từ là một phần không thể thiếu trong hoạt động giao tiếp của mỗi người. Với các nhà lãnh đạo, quản lý thì giao tiếp phi ngôn từ lại được đặc biệt biết chú ý, mỗi một cử chỉ, động tác đều thu hút ánh nhìn từ cấp dưới và trở thành đặc trưng của nhà lãnh đạo, quản lý đó. Ví dụ: Giáo sư David McNeill từ Đại học Michigan, Mỹ, người nghiên cứu về cử chỉ tay, nhận thấy rằng những diễn giả tự tin, có kỷ luật và chặt chẽ thường dùng đến tay nhiều hơn bình thường khi phát biểu. Cử chỉ tay dứt khoát phản ánh tính mạch lạc về suy nghĩ của người phát biểu đồng thời khiến khán giả cảm thấy tin tưởng hơn vào sự dẫn dắt của họ. Tổng thống Obama, như bao người diễn thuyết xuất sắc khác, sử dụng cử chỉ để nhấn mạnh gần như trong từng câu nói. Với mỗi người, tâm điểm của sự chú ý mà chúng ta cần ý thức đó là những cử chỉ, hành động của chúng ta dù có chủ ý hay không đều truyền đi một thông điệp nào đó, đến với những người xung quanh, cho dù đó chỉ là một cái vẫy tay, liếc mắt nhìn ngang hay mím miệng trong khi giao tiếp đều đó cũng đủ để nói lên mình thích ai, có đồng ý với vấn đề hay không, đang bối rối hay thiếu tự tin như thế nào. 4.2. Giúp chúng ta đọc được thái độ và cảm nghĩ của đối tượng giao tiếp. Ngôn ngữ cơ thể là sự phản ánh cảm xúc của một người ra bên ngoài. Mỗi một điệu bộ hoặc động thái điều có thể cho thấy cảm xúc của một người vào thời điểm đó. Ví dụ: Phần lớn những vẻ mặt của con người là chung cho mọi nền văn hóa và không phụ thuộc vào việc học hỏi (Ekman, 1969). Một số biểu cảm hoặc thái độ tiêu cực của vẻ mặt được cá nhân kiềm chế và kiểm soát đáng kể đến nổi biểu hiện tự nhiên của chúng bị cản trở. Tuy vậy, rất khó kiềm chế một vài biểu hiện như sự co giãn đồng tử khi kích động, đổ mồ hôi trán khi lo lắng, những vẻ mặt thoáng qua của những cảm súc bị kìm nén (Haggard và Isaacs, 1966). Để đọc được ngôn ngữ cơ thể của người khác thì phải hiểu được trang thái cảm xúc của người đó trong khi lắng nghe cũng như để ý đến hoàn cảnh phát ngôn. Cách này giúp chúng ta tách bạch được sự thật với giả tưởng, thực tế với tưởng tượng. Sigmund Freund (1959) khẳng định: không một hữu tử (con người - NQ) nào có thể giữ được bí mật cho riêng mình. Nếu cặp môi của anh ta im lặng, anh ta sẽ trò chuyện bằng các đầu ngón tay của mình. Sự phản bội (việc không giữ được bí mật NQ) toát ra khỏi con người anh ta từ mọi lỗ chân lông. Thông thường trong giao tiếp mặt đối mặt, hành vi phi ngôn từ thường được con người sử dụng. Để hiểu được thái độ và cảm nghĩ của đối tượng giao tiếp chúng ta cần chú ý hơn những hành vi phi ngôn từ đó. Ví dụ: Một người nói Tôi buồn quá nếu không sử dụng các yếu tố cận ngôn thì chúng ta ko cảm nhận được cảm nghĩ và thái độ của họ. Nếu họ sử dụng các yếu tố cận ngôn như: giọng nói, rầu rĩ; ngôn ngữ thân thể như người chồm về phía trước, hai tay giang ra, mắt nhìn xuống thì chúng ta sẽ cảm nhận được nổi buồn của họ, thái độ tuyệt vọng. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giao tiếp của mình, chúng ta cần nắm được những thói quen, những quy tắc trong việc sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn từ để không chỉ hiểu được ý đồ của người khác, mà còn có thể diễn được ý đồ của mình một cách đa dạng, phong phú. Người giao tiếp giỏi chính là người biết khéo léo nhuẫn nhuyễn ngôn ngữ có âm thanh với ngôn ngữ không có âm thanh trong giao tiếp. 4.3. Các thông điệp phi ngôn từ ngẫu nhiên và vô tình có độ tin cậy rất cao. Thực tế trong các cộng đồng ngôn ngữ - văn hóa khác nhau, kể cả các cộng đồng có tần suất hoạt động giao tiếp phi ngôn từ cao như ở các nước Mĩ Latin, đã cho thấy việc dạy dỗ về hành vi giao tiếp chủ yếu hướng tới giao tiếp ngôn từ. Hơn nữa, xét về mặt tâm lí hành vi, con người hiện đại thường lưu tâm hơn đến các yếu tố ngôn từ khi giao tiếp với người khác. Do vây, như một lẽ tự nhiên, khi phải che đậy một sự thật, người ta thường chú ý hơn đến việc sử dụng ngôn từ để thực hiện mục đích này. Trong những trường hợp như vậy, những yếu tố phi ngôn từ, đặc biệt là các hành vi cử cử chỉ, thường ít và khó được khống chế một cách hợp lý nên sự thật dễ bị để lộ. Vì thế, chúng thường giúp ta thấy rõ hơn bản chất của điều được người nói che giấu một cách có ý thức thông qua yếu tố ngôn từ. II. THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC KĨ NĂNG GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ Chuyên gia tâm lý Trần Hải Vân, Trung tâm tư vấn Bạn và Tôi, bày tỏ: Không gì chán bằng nghe một diễn giả nói suốt cả tiếng đồng hồ mà gần như không có một động tác biểu lộ của cơ thể. Do đó, trong giao tiếp, hay thuyết trình cần khéo léo kết hợp lời nói với giao tiếp phi ngôn ngữ. Thực tế, tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ngày này họ đã ngày càng chú trọng hơn trong việc rèn luyện, trao dồi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động quản lý của mình, nhất là kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ. Các lớp học giao tiếp phi ngôn từ ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, việc sử dụng giao tiếp phi ngôn từ diễn ra liên tực trong hoạt động hằng ngày ngay cả khi không giao tiếp, nên có những hành vi phi ngôn từ bản thân người tạo ra hành vi cũng không thể kiểm soát được. Có cả khi bản thân người tạo ra hành vi phi ngôn từ đó không hiểu ý nghĩa của những cử chỉ đó có nghĩa như thế nào, hoặc nhầm lẫn trong việc áp dụng các hành vi phi ngôn từ ở mỗi cộng đồng văn hóa khác nhau Sau đây là một ví dụ về việc không hiểu ý nghĩa của hành vi ngôn từ của đối tượng giao tiếp và của bản thân người giao tiếp đã gây trở ngại đến công việc: Một lần, trong một cuộc họp thân mật tại phòng khách sạn của vị chủ tịch tập đoàn một công ty đa quốc gia, với sự có mặt của nhiều đồng nghiệp các nước Đông Nam Á, một nữ doanh nhân trẻ có gương mặt dễ nhìn và trang phục sang trọng đã lôi cuốn thiện cảm của mọi người trong phòng họp ngay giây phút đầu tiên. Khi ngài chủ tịch phát biểu thì mọi người giật mình vì tiếng chuông điện thoại phát ra từ túi xách của nữ doanh nhân nọ. Ngay lập tức mọi ánh mắt đổ dồn nhìn về phía chị ta và như hiểu được rằng mình đang được mọi người chú ý, nữ doanh nhân này bắt đầu cuộc đàm thoại bằng giọng nói hết sức ngọt ngào, trong trẻo với âm thanh vừa đủ nghe cho cả mọi người. Sau đó, ngồi trong phòng họp mà dường như gương mặt của chị lúc nào cũng bận rộn, miệng luôn nhai nhóp nhép kẹo cao su. Đôi lúc chị ta nhìn cô phiên dịch không mấy hài lòng, thỉnh thoảng còn chỉnh sửa từ ngữ dịch chưa được chính xác với vẻ bực bội ra mặt. Lâu lâu chị bỗng vươn vai, ưỡn ngực rồi ngáp một cách tự nhiên trước sự bỡ ngỡ của nhiều nguời. [kenhtuyensinh.vn] Có thể thấy rằng ngay cả người làm lãnh đạo, quản lý cũng có thể mắc sai lầm trong việc sử dụng kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ, hoặc không hiểu ý nghĩa của các loại giao tiếp phi ngôn từ là rất đáng lo ngại. Nhất là như hiện nay, tầm quan trọng trong việc hội nhập, kinh doanh quốc tế được chú trọng hơn bao giờ hết thì việc không tìm hiểu, học hỏi về các giao tiếp phi ngôn từ sẽ giảm thiểu được vấn đề không thu được kết quả sau quá trình giao tiếp cũng như đưa cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp của mình được hội nhập. III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÁC KĨ NĂNG GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ 1. Cận ngôn ngữ: Có nhiều khái niệm, cách nhìn nhận khác nhau về cận ngôn ngữ. Theo tác giả Dwyer thì: Cận ngôn ngữ như là một bộ phận gắn kết với ngôn ngữ, nhưng không tham gia vào hệ thống ngôn từ. Cận ngôn ngữ bao gồm các phẩm chất, giọng nói và các ngôn thanh hóa ảnh hưởng đến việc một cái gì đó được nói ra như thế nào chứ không phải là cái gì được nói ra. Theo tác giả Beiler (1997): Cận ngôn ngữ liên quan đến cách thức các từ ngữ được phát ra thì đúng hơn là các từ ngữ nào được sử dụng. Cận ngôn ngữ đề cập đến cách thức diễn tả trạng thái tình cảm. Một số trạng thái tình cảm có thể được truyền tải một cách dễ dàng ví dụ: sự sợ hãi, sự cáu giận, sự sốt ruột, sự thờ ơ, sự khinh bỉ và sự đau khổ. Các hiện tố ngôn thành đi kèm lời nói đóng góp rất nhiều vào các trạng thái tình cảm được giao tiếp. Như vậy, có thể hiểu rằng cận ngôn ngữ là tất cả những yếu tố ngôn thanh phi ngôn từ được sử dụng cùng với ngôn từ trong giao tiếp, để thể hiện thái độ, tình cảm của người nói. Cận ngôn ngữ bao gồm: a) Các đặc tính ngôn thanh: Bao gồm cao độ, cường độ, tốc độ, phẩm chất ngôn thanh (giọng điệu, thanh cốt, chất giọng của lời nói). Đặc tính ngôn thanh vừa mang tính văn hóa, vừa thể hiện văn minh, vừa mang tính tình huống và vừa mang tính cá nhân (đặc điểm thể chất cũng như đặc điểm tâm lý của con người). Âm thanh trong Nhân tướng học đóng một vai trò quan trọng trong việc đoán thọ, yếu, hiền, ngu, quí, tiện. Vì họ quan niệm rằng nguồn gốc nguyên thủy của âm thanh là khí. Tướng mạo học cho rằng lời nói là tiếng của tâm, qua lời nói có thể thấy được bản chất của con người: Nói năng gay gắt là người chính trực, người ít nói thì tính điềm đạm, người nói thẳng là trung thực, người nói khiêm tốn là người khiêm cung, người nói năng xa xôi kì lạ là người hay chấp nhặt b) Các yếu tố xen ngôn thanh: Là những âm thanh can thiệp vào chuỗi lời nói như à, ừ, ờ, ờm Chúng được coi là những yếu tố ngắt lời. Chúng thường được xem như là kết quả của một trạng thái tình cảm (sự lo lắng, vui mừng, giận dữ, xúc động); một thói quen mang tính cá nhân; một hàm ý xin đợi một chút. Người ta thường sử dụng yếu tố xen ngôn thanh để biểu hiện sự: thiếu tự tin, thiếu tin tưởng, khi phân vân, không chắc chắn, miễn cưỡng, do dự. Vì thế, nếu quan sát tinh tế một chút chúng ta sẽ có thể hiểu được nhận thức, cảm xúc của đối tượng giao tiếp thông qua các yếu tố ngôn thanh mà họ sử dụng. Tuy nhiên, nếu sử dụng quá nhiều và lặp lại sẽ tạo thành những thói quen không có lợi trong giao tiếp, tạo ấn tượng tiêu cực, gây phản cảm cho đối tác. c) Các loại thanh lưu: Thanh lưu là hình ảnh dòng ngôn thanh được quá ra khi nói. Mỗi người đều có một giọng nói chủ đạo, một loại sắc diện và một loại hình tướng chính yếu để tạo ra cái riêng. Với nam giới sẽ có phẩm chất ngôn thanh như: trong - ấm, trong thanh, khan đụcbiểu hiện một tính cách quyết đoán, từng trải Nhiều nghiên cứu cho thấy thanh lưu và phẩm chất của ngôn thanh chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố như bẩm sinh, di truyền, sức khỏe d) Im lặng Trong quá trình giao tiếp, biểu đạt tình cảm, im lặng luôn có một vai trò vô cùng đặc biệt. Im lặng đúng lúc, đúng nơi luôn mang lại hiệu quả rất cao trong giao tiếp mà chúng ta không thể dùng lời lẽ nào thay thế. Ví dụ: Im lặng biểu hiện niềm hạnh phúc; Im lặng thể hiện sự phản đối. Tuy nhiên, trong các cộng đồng ngôn ngữ - văn hóa khác nhau im lặng được diễn giải theo những cách khác nhau: Theo cách diễn giải của người Tây Âu, Bắc Mĩ thông thường im lặng là sự biểu hiện của sự thiếu nhiệt tình, sự ngượng ngùng, sự bất đồng, sự thù địch Còn người Đông Nam Á thì cho rằng im lặng là thể hiện của tính bề trên, sự đồng ý, sự hòa hợp, sự tôn trọng, sự ngượng ngùng. Thông qua một số câu tục ngữ sau để có thể hiểu ở mỗi dân tộc có một cách hiểu về sự im lặng là khác nhau: - Tục ngữ Việt: Không biết thì dựa cột mà nghe. - Tục ngữ Anh: + Im lặng nhiều khi là cách chỉ trích nghiêm khác nhất (Chaless Buxton) + Nói ít thôi về những gì ta biết, im lặng hoàn toàn về những gì ta không biết (Sadi Carnot) - Tục ngữ Châu Phi: Im lặng cũng là lời nói 2. Ngoại ngôn ngữ: 2.1.Ngôn ngữ thân thể: Khi nói đến giao tiếp phi ngôn từ, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến ngôn ngữ thân thể. Richards et al định nghĩa ngôn ngữ thân thể một cách đơn giản như sau : việc sử dụng các hiện diện, các chuyển dộng thân thể để giao tiếp một cách có ý nghĩa từ người này sang người khác. Có nhiều cách phân loại ngôn ngữ thân thể như: theo chức năng; theo nguồn gốc; theo bộ phận. Trong bài tiểu luận này em sẽ đề cập đến ngôn ngữ thân thể theo bộ phận của cơ thể. Theo đó, ngôn ngữ thân thể được chia thành: Nhãn giao; hiện diện; tư thế. 2.1.1 Nhãn giao (tiếp xúc ánh mắt) Ánh mắt có sức truyền đặt kỳ diệu và đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn của mỗi người. Trong khả năng biểu cảm của khuôn mặt thì ánh mắt có tác dụng quan trọng nhất và chiếm vị trí chủ yếu. Mắt có khả năng biểu thị tình cảm, tâm trạng và truyền đạt chủ yếu bằng ánh mắt. Chính vì tầm quan trọng và mức độ tinh tế của đôi mắt mà nhiều nhà nghiên cứu giao tiếp phi ngôn từ thường xếp nhãn giao thành một loại riêng, mà không xét như một phần biểu hiện trên khuôn mặt, mặc dù vị trí của đôi mắt nằm trên khuôn mặt. Đôi mắt có khả năng tạo ra các tín hiệu rõ ràng và chính xác nhất bởi vì chúng là tiêu điểm của toàn bộ cơ thể con người và mắt có khả năng hoạt động độc lập hoàn toàn. Với các điều kiện về ánh sang sẵn có, hai đồng tử co vò hoặc giãn ra khi thái độ hay tâm trạng của một người thay đổi từ tiêu cực qua tích cực hoặc ngược lại. Như vậy, khi thái độ, tình cảm, trạng thái tâm lý của con người thay đổi, đồng tử của mắt cũng sẽ co hoặc giản ra để thể hiện các biến đổi tiêu cực hoặc tích cực của thái độ, tâm trạng, tình cảm đó. Theo nhiều nghiên cứu Âu Mĩ, nếu loại bỏ các giá trị văn hóa gắn kết với nhẵn giao, việc tiếp xúc với ánh mắt liên tục và trực tiếp dễ tạo ra sự tin tưởng ở đối tác hơn. Người Nga, Anh, Mĩ, Úc thường đề cao nhãn giao trong giao tiếp trực diện. Họ cho rằng không nên tin vào người không nhìn vào mắt bạn. Vì thế, khi giao tiếp với đối tác mang văn hóa phương Tây thì việc nhìn thẳng vào đối tác giao tiếp được coi là một hành vi tích cực để tỏ ra cởi mở, thẳng thắn, thích thú và tạo sự tin tưởng đối với họ. Ngược lại, nếu ta tránh tiếp xúc ánh mắt sẽ bị qui kết là biểu hiện của sự chán chường, không trung thực và không hợp tác. Tuy nhiên, trong các nền văn hóa khác nhau, nhãn giao cũng được nhìn nhận và qui kết các giá trị khác nhau. Trong khi nhãn giao được coi là tích cực trong mọi tình huống giao tiếp ở các nước phương Tây thì ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước phương Đông khác, nhãn giao chỉ được coi là tích cực trong một số tình huống đặc thù với những đối tượng đặc thù. Ví dụ: Các quốc gia như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, việc nhìn trừng hay nhìn thẳng vào một ai đó một lúc lâu được coi là bất lịch sự và mang tính thách thức. Việc nháy mắt với một ai đó được người châu Âu diễn giải là hàm chỉ họ có điều bí mật cần chia sẽ; nhưng ở Hồng Kông đó lại là hành vi không lịch sự. Trong giao tiếp xã hội hay trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thường có hiện tượng trao đổi ánh mắt nhìn với người khác, những ánh mắt này thường có ý nghĩa đặc biệt: có thể biểu thị sự yêu, ghét, uy quyền Vì thế chúng ta cần dựa vào tùy người, tùy hoàn cảnh khác nhau mà có cách biểu thị ánh mắt cụ thể khác nhau. 2.1.2 Hiện diện a) Nét mặt Nét mặt đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong giao tiếp, mặc dù chúng ta không ý thức và kiểm soát được chúng. Nét mặt là yếu tố biểu hiện cảm xúc của con người một cách rõ rệt, cơ bản nhất. Biểu hiện trên nét mặt không bỏ qua sót một ai, mặc dù sống trong những nền văn hóa khác nhau, con người biểu hiện trạng thái tâm lý trên nét mặt tương tự nhau. Các biểu hiện trên khuôn mặt vô cùng phong phú và đa dạng. Các biểu hiện tình cảm như vui buồn; hạnh phúc đau khổ Các biểu hiện thái độ như tôn trọng khinh bỉ; dứt khoát do dự Các biểu hiện tâm lí như lo lắng thờ ơ; hồi hộp bình thản đều được thể hiện ở các mức độ khác nhau, thông qua các hiện tố phi ngôn từ trên khuôn mặt. Các nhà tâm lý học ngày nay cho rằng trong tình huống bất ngờ, phản ứng nét mặt lúc đó là biểu hiện trung thực nhất của tâm tính. b) Đầu Trong các cộng đồng văn hóa khác nhau, người ta thường sử dụng nhiều nhất là gật đầu và lắc đầu nhằm chuyển tải thông điệp đồng ý, không đồng ý, đúng sai hay đồng tình, cho phép Việc gật đầu hay lắc đầu cũng không có sự thống nhất giữa các cộng đồng văn hóa khác nhau. Nhiều cộng đồng coi gật đầu là sự đồng ý thì các cộng đồng khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Bungari lại gán cho ý nghĩa ngược lại. Vị trí và chuyển động khác nhau của cái đầu cũng có thể chuyển tải thông điệp biểu cảm và thông tin khác nhau. Ví dụ: - Để đầu thẳng đứng biểu hiện sự khảng khái, thành thật, công khai - Nghiêng đầu sang một bên có thể hàm chỉ sự làm duyên, sự thích thú - Cúi đầu thường được diễn giải là là biểu hiện của sự than phục, tuyệt vọng Ngoài ra, đầu thường kết hợp với tay để thể hiện một số cử chỉ với ý nghĩa như: - Vỗ tay vào trán nhằm thể hiện sự đánh thức trí nhớ - Gãi gáy cho thấy sự lúng túng - Gãi cổ hoặc gãi nhân trung thường biểu lộ sự không chắc chắn c) Miệng, môi, lưỡi (nụ cười trong giao tiếp) Trong những bộ phận cơ thể thì khả năng biểu cảm của miệng chỉ đứng sau ánh mắt. Cười là hoạt động chủ yếu của cơ miệng. Miệng cũng là phần trên khuôn mặt có khả năng thẻ hiện tình cảm một cách rõ ràng nhất. Khuôn miệng sinh động và ngôn ngữ biểu đạt đa dạng không kém gì so với đôi mắt. Trong giao tiếp liên nhân cách, cười còn được gọi là cử chỉ tối hậu bởi nó mang tính phổ biến, bẩm sinh và tính người. Một nụ cười chỉ trong khoảnh khắc nhưng làm ta nhớ suốt đời. Tuy nhiên, tần suất sử dụng, liều lượng sử dụng, đối tượng hướng tới, tình huống, hoàn cảnh trong đó tiếng cười tỏ ra hợp lý hay lạc điệu lại mang tính đặc thù văn hóa. Trong cuốn Phong cách đa văn hóa tác giải Wiley (1996) mô tả rằng có những tình huống, hoàn cảnh mà thành viên của một số cộng đồng không cười như: - Người Nhật Bản thường không mĩm cười khi chụp ảnh trong các dịp trang trọng, chính thức. - Trong văn hóa Hàn Quốc, người hay cười được cho là người nông cạn, hời hợt. Theo thống kê của các chuyên gia, khuôn mặt con người có hơn 30 loại cơ để thể hiện tình cảm và có thể thể hiện được khoảng 25 loại cảm xúc không giống nhau. Từ nụ cười của con người có thể phân ra thành rất nhiều kiểu cười như cười ha hả lớn tiếng, cười nhếch mép, cười thầm, cười quê kệch Tốt nhất là những người cười hả hả một cách tự nhiên, không miễn cưỡng không cố nén. Người có loại cười này, mọi phương diện đều phát triển đồng đều, đức hạnh, cao thượng, đối với người khác có lễ, đàng hoàng, không nịnh trên nạt dưới, rất dễ gần gữi với mọi người xung quanh. Nụ cười trong giao tiếp là hành động trên khuôn mặt có sức hấp dẫn nhất. Dù ở nơi làm việc hay bất cứ nơi đâu, chỉ cần bạn nở một nụ cười đúng lúc, đúng cách có thể sẽ làm mọi việc trở nên thuận lợi, như ý. Trong giao tiếp, nụ cười là nhân tố quan trọng thể hiện sự thân thiện, khát vọng, ước vọng một tình hữu nghĩ tốt đẹp. Nụ cười như một tín hiệu phát ra cho thấy sự khoan dung, tín nhiệm và thông hiểu lẫn nhau. d) Lông mày Cũng như bất cứ yếu tố phi ngôn từ nào, bản thân lông mày nhướng lên hạ xuống đều mang ý nghĩa nhất định. Trông những tình huống, hoàn cảnh khác nhau, chuyển động của lông mày có thể chuyển tải những thông điệp sau đây: - Nhướn lông mày lên có thể biểu hiện: Ngạc nhiên; thách thức; dọa nạt; chưa hiểu, chưa rõ một điều gì đó muốn nhắc lại; khẳng định một một điều gì đó cho việc nói đúng. - Hạ lông mày xuống có khả năng thể hiện: Sự mệt mỏi; sự chán chường; sự chấp nhận; sự suy nghĩ mông lung. - Nhún lông mày lại có khả năng thể hiện: Sự chói mắt; sự tập trung thị lực; sự không hài lòng, khó chịu; sự cáu giận, doạt nạt. 2.1.3 Tư thế Tư thế là một bộ phận rất quan trọng trong ngôn ngữ thân thể, là vị trí của toàn bộ thân thể và cách phối hợp tay, chân, đầu Được sử dụng để truyền tải các thông tin khác nhau về vị trí thân thế, quan hệ, nhận thức, thái độ, động cơ, tình cảm, trạng thái tâm lý, tuổi tác giới tính, tình trạng sức khỏe của con người. Theo Allan Pease, tư thế có một tầm quan trọng đặc biệt trong giao tiếp trực tiếp: Bạn có thể sử dụng một cách có ý thức tư thế này hay tư thế khác, nhưng thường thì nó xảy ra một cách tự nhiên. Cũng như với phần lớn các hành vi dựa trên văn hóa, việc không tuân thủ các qui tắc bất thành văn sẽ làm rối loạn mọi sự và có thể coi là thói xấu. Khi bước vào lãnh thổ của người khác, như văn phòng hoặc ở nhà, người thuộc văn hóa Phương Tây chỉ ngồi xuống khi được mời, trừ khi chủ nhà và khách là những người thân thiết. Điều này ngược lại với người Samoa, theo đó đầu của họ phải luôn thấp hơn đầu của người có địa vị cao hơn (chủ nhà, thầy giáo, giám đốc) Do vây, người Samoa thường ngồi xuống khi có thể. Một số tác giả khác cũng nhận định rằng nếu như các yếu tố phi ngôn từ tạo ra 93% ý nghĩa xã hội của giao tiếp thì tư thế cũng chiếm tới 1/3 tỉ lệ này. Một số tư thế đặc trưng và ý nghĩa của các tư thế như sau: - Nhún vai: Biểu hiện của sự khinh thường hay không quan tâm đến người nói. - Hai chân bắt chéo: Tư thế này thường gây ra cảm giác không nghiêm túc, không vững. - Hai tay hoặc một tay chống hông: Tư thế này thường chứa hàm ý phớt lờ, ngạo mạn, vô lễ. - Đứng dựa cửa, dựa tường: Gây cảm giác ủ rủ, chán nản. Nhìn chung, tư thế của con người bị ảnh hưởng bởi những yếu tố cơ bản sau: Tuổi tác, giới tính, khí chất, tính cách, trình độ nhận thức, trạng thái tâm lý, tình cảm cần thể hiện Giống như nhãn giao, hiện diện, việc sử dụng tư thế cũng mang tính đặc thù văn hóa, được thể hiện chủ yếu trong liều lượng và cách thức biểu hiện trong các tình huống khác nhau. Ví dụ: Các tư thế ngồi trong lớp học quá tự do, thoái mái của giáo viên, học sinh, sinh viên Mỹ khó được chấp nhận trong văn hóa nhà trường ở Việt Nam. Vì thế, việc sử dụng các tư thế khác nhau cần lưu ý về việc mình sử dụng ở cộng đồng văn hóa nào mà có cách điều chỉnh phù hợp nhất. 2.2 Ngôn ngữ vật thể: Ngôn ngữ vật thể hay còn gọi là hình thức bên ngoài, Dwyer khẳng định định rằng những vật thể được sử dụng để truyền tải các thông điệp phi ngôn từ về từ niệm, hình ảnh, trạng thái tình cảm, hay phong cách. Ví dụ: nước hoa, quần áo, son môi, kính mắt và kiểu tóc để lộ phong cách của người sử dụng. Khi nghiên cứu về ngôn ngữ vật thể, các nhà nghiên cứu đều cho rằng ngoài ngôn ngữ cơ thể thì ngôn ngữ vật thể cũng ảnh hưởng lớn đến phản ứng của người khác đối với người đó, nhất là trong lần gặp mặt đầu tiên. Theo đó, nếu hình thức bên ngoài làm cho ta cảm thấy hài lòng, cũng tạo cho chính bản thân ta cảm giác thoải mái, tự tin hơn khi giao tiếp với người khác. Các thành tố ngôn ngữ vật thể được cấu tạo từ các thành tố sau: quần áo, trang sức/phụ kiện, trang điểm, nước hoa, quà tặng, hoa 2.2.1 Quần áo Có thể nói rằng quần áo là dấu hiệu nhận biết và là một kênh giao tiếp hữu hiệu nhất. Quần áo thể hiện nhận thức, tính cách, khí chất, khiếu thẩm mĩ, trạng thái tâm lý, địa điểm cần đến, tuổi tác, nghê nghiệp, giới tính của một con người. Trong cuộc sống giao tiếp ngày nay, quần áo được coi là làn da thứ hai của mỗi người, vì vậy việc mặc quần áo như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh là hết sức quan trọng. Trang tử, một triết gia vĩ đại thời cổ đại của Trung Quốc có câu các mỹ kì mỹ (mỗi cái đẹp đều có cái đẹp riêng). Câu này chỉ ra rằng mỗi người đều theo đuổi cái đẹp riêng mình nhưng phải phù hợp với tiêu chuẩn giá trị thẩm mĩ thông thường của cái đẹp. Trong việc lựa chọn quần áo như thế nào cho phù hợp người ta thường dựa theo nguyên tắc TPP. Trong đó T, P, P lần lượt là ba chữ viết tắt chữ cái đầu của ba chữ tiếng Anh là T thời gian (Time), P địa điểm (Place), P mục đích (Purpose). Do đó, cần tùy vào tình huống cụ thể nhất mà lưu ý lựa chọn kiểu quần áo cho phù hợp. 2.2.2 Trang sức/ phụ kiện Trang sức/ phụ kiện khi phối hợp với quần áo sẽ tạo ra cho đối tác giao tiếp những ấn tượng nhất định về người sử dụng chúng như: gu thẩm mĩ (có hay không); tính cách (cầu kỳ hay giản dị, tinh tế hay thô thiển); Đồ trang sức/ phụ kiện bao gồm những vật đi kèm với quần áo để tạo ra phong cách phục sức của mỗi người như: nhẫn, hoa tai, vòng, dây chuyển, đồng hồ, thắt lung, mắt kinh Thực tiễn cho thấy rằng, với kinh nghiệm tinh tế và nhạy cảm cao, nhiều người đã sử dụng chúng một cách hiệu quả, để lại cho đối tác giao tiếp một ấn tượng đẹp, khó quên. Tuy nhiên, nếu sử dụng chúng không đúng chổ, không phù hợp, có thể gây ra những hậu quả tiêu cực, gây phản cảm cho đối tác giao tiếp. Khi lựa chọn trang sức/ phụ kiện đi kèm cần tuân theo những nguyên tắc sau: - Nên lựa chọn theo quy tắc ít là đẹp: Trên người không nên có quá 3 đồ trang sức. Ngoài khuyên tai, tốt nhất nên đeo thêm không quá một đồ trang sức nữa trên người phối hợp thành một bộ. - Khi đeo đồ trang sức nên sử dụng những bộ đồ đồng chất. - Đồ trang sức đeo trên người cũng phải phù hợp với hoàn cảnh thời tiết bên ngoài. Những đồ trang sức có màu vàng hay màu sẫm thì thích hợp đeo vào mùa lạnh. Những đồ trang sức màu bạc hay màu sắc rực rỡ thì thích hợp đeo khi thời tiết ấm hơn. 2.2.3 Nước hoa Cũng như đồ trang sức, việc sử dụng nước hoa nhằm tạo ra các thông điệp, ấn tượng với đối tác giao tiếp. Mùi nước hoa cũng nói lên rất nhiều về bản thân người sử dụng chúng như: tính cách, trình độ hiểu biết, gu thẩm mĩ, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp Tùy vào việc tạo ấn tượng về hình ảnh và chgo những đối tượng khác nhau mà người giao tiếp cần sử dụng các hương nước hoa khác nhau. 2.2.4 Quà tặng Trong chính bản thân quàn tặng là một hành vi tích cực, và vì thế dễ tạo ra thông điêp tích cực cho người nhận. Quà tặng thực hiện chức năng khôi phục, duy trì phát triển các quan hệ liên nhân cách, nhằm bày tỏ tình cảm, sự quan tâm, sự tôn trọng, lòng biết ơn của người tặng quà với người được tặng. Quà tặng thường chia làm bốn loại: - Quà biểu cảm là loại quà mà ta thành tâm tặng một người nhằm biểu lộ tình cảm của mình với người đó. - Quà nhân dịp là loại quà mà ta tặng ai đó nhân dịp gì đó. - Quà chiến lượt là loại quà được ta tặng cho một người nào đó với mục đích tạo ra ấn tượng tích cực, một hình ảnh tốt đẹp về bản thân ta hoặc hy vọng sẽ được cái gì đó mang tính đáp lễ. - Quà tặng hàm ẩn là loại quà tặng với mục đích duy nhất là ràng buộc người được trao tặng vào một nghĩa vụ nào đó. Quà tặng có nhiều chức năng tốt đẹp như đã trình bày ở trên tuy nhiên cách thức tặng quà là một vấn đề hết sức tế nhị trong giao tiếp. Nên người tặng cần lưu ý về cách thức tặng quà và lựa chọn món quà phù hợp trong từng hoàn cảnh, từng văn hóa và mục đích giao tiếp cụ thể. 2.3 Ngôn ngữ môi trường Môi trường có thể ảnh hưởng đến kết quả giao tiếp. Do đó, một môi trường không phù hợp có thể tạo ra tiếng ồn gây nên các cản trở giao tiếp và can thiệp vào quá trình giao tiếp. Việc sắp xếp cẩn thận nơi giao tiếp có thể thõa mãn được nhu cầu về sự an toàn, sự riêng tư giúp cho việc giao tiếp hiệu quả hơn và tinh thần trở nên tốt hơn. Các yếu tố môi trường như ánh sang, màu sắc, nhiệt độ, bàn ghế, cây cảnh, âm thanh, tác phẩm nghệ thuật, tạp chí. Đều tạo ảnh hưởng đến cảm giác con người trong giao tiếp. Ngôn ngữ môi trường được tạo thành từ các thành tố sau: địa điểm, thời gian, không gian, ánh sang 2.3.1 Địa điểm Trong giao tiếp, địa điểm sẽ gợi cho đối tác về đề tài, cách thức, phong cách giao tiếp Vì thế, nếu địa điểm không phù hợp cho sự kiện, mục đích giao tiếp, sẽ gây phản cảm cho đối tác giao tiếp. Vị trí chổ ngồi cũng ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp. Thông thường có 4 cách sắp xếp vị trí chổ ngồi: - Hai đối tác ngồi hai cạnh bàn cách góc bàn: Thường sử dụng với mục đích trò chuyện vui vẻ, thân mật. - Hai đối tác ngồi cạnh nhau trên một cạnh của cái bàn: Vị trí này phù hợp với các trường hợp trong đó đối tác là những người đồng tâm, đồng hướng và có quan hệ tích cực. - Hai đối tác ngồi đối diện nhau qua một cái bàn: Tư thế này tạo ra không khí thẳng thắn, cạnh tranh hoặc tự vệ. - Hai đối tác ngồi ở góc xa của cạnh đối diện cái bàn: Dùng trong giao tiếp với mục đích xã giao bình thường. Khi bất đồng quan điểm sẽ chuyển sang ngồi đối diện. 2.3.2 Thời gian Có hai cách hiểu về thời gian: Thứ nhất là thời gian giao tiếp xảy ra (thời gian giao tiếp); thứ hai là việc sử dụng thời gian trong những tình huống giao tiếp nhất định (sử dụng thời gian). Thời gian giao tiếp và việc sử dụng thời gian có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả giao tiếp. Tuy nhiên chúng lại bị phụ thuộc vào các yếu tố khác như: đề tài giao tiếp, trạng thái tâm lý, thái độ, tình cảm, biểu hiện của chủ thể giao và đối thể giao tiếp. 2.3.3 Sử dụng không gian Trong giao tiếp ở mọi nền văn hóa, thông qua việc sử dụng không gian, chủ thể của hoạt động giao tiếp muốn diễn tả mức độ thân thiện cũng như sự tin cậy của mình đối với đối thể giao tiếp. Khoảng cách không gian cũng có thể được sử dụng để làm tăng hiệu quả của hành động ngôn từ. Theo Allan Pease, phạm vi của không gian giao tiếp được chia như sau: - Không gian mật thiết: 15cm đến 45cm. Chỉ những người rất gần gữi mới sử dụng không nhau này giao tiếp với nhau. - Không gian riêng tư: 45cm đến 1,2m. Đây là khoảng cách lý tưởng cần được tôn trọng trong đời sống xã hội. - Không gian xã hội: 1,2m đến 3,5m. Đó là khoảng cách tách hai người mới biết nhau hoặc hoàn toàn chưa biết nhau. - Không gian công cộng: ngoài 3,5m. Đây là khoảng cách thoải mái của một người đang nói chuyện với một nhóm người hay đang diễn thuyết, thuyết trình. IV. KẾT LUẬN Giao tiếp phi ngôn ngữ sẽ trở thành điểm mạnh với ấn tượng đầu tiên trong những trường hợp thông thường giống như thu hút đối tượng hay trong phỏng vấn việc làm: thời gian tạo ra ấn tượng trung bình là trong 4 giây đầu tiên khi tiếp xúc. Lần đầu tiếp xúc hoặc tương tác với một người khác ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến nhận thức của một người Giao tiếp phi ngôn từ lâu đã trở thành một trong những kỹ năng giao tiếp quan trọng giúp đạt đến sự thành công trong giao tiếp mà không phải ai cũng nhận ra và ý thức được điều đó. Vì thế, ngay từ bây giờ để không bị lạc hậu trong giao tiếp, mỗi người chúng ta đều cần phải học và nâng cao các kỹ năng giao tiếp nhất là kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tâm lý giao tiếp PGS.TS Lê Thị Hoa. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Chuẩn mực giao tiếp thời hội nhập Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý. NXB Lao động & Xã hội. 3. Tâm lý học giao tiếp TS. Nguyễn Văn Đồng. NXB Chính trị - Hành chính. 4. Giao tiếp phi ngôn từ - Nguyễn Quang. Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội. 5. Bài tiểu luận môn Kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ 6. Ekman, Paul Giải mã những biểu hiện cảm xúc trên khuồn mặt. Từ điển bách khoa, Hà Nội 2013 https://text.123doc.org/document/3296091-tieu-luan-mon-ki-nang-giao-tiep-phingon-ngu.htm 7. Bách khoa toàn thư về giao tiếp phi ngôn ngữ https://vi.wikipedia.org/wiki/Giao_ti%E1%BA%BFp_phi_ng%C3%B4n_ng %E1%BB%AF 8. Vai trò của giao tiếp phi ngôn ngữ trong nghệ thuật giao tiếp. https://kenhtuyensinh.vn/vai-tro-cua-giao-tiep-phi-ngon-ngu-trong-nghe-thuatgiao-tiep 9. Bài tiểu luận Phi ngôn ngữ trong giao tiếp Trường đại học Kinh tế, khoa Quản trị kinh doanh. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-phi-ngon-ngu-trong-giao-tiep-21146/ |