Nhà nước đầu tiên của dân tộc ta là ai

.

Cập nhật lúc: 08:24, 24/04/2018 [GMT+7]

Trong lịch sử dựng nước, thời kỳ các vua Hùng với Nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam được hình thành với những đặc trưng của hình thái nhà nước nguyên thủy, đã để lại dấu ấn về nền văn hóa đặc sắc cho dân tộc.

Người dân viếng Đền thờ Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ. Ảnh: T.THÚY

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân [theo truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông] cùng vợ là Âu Cơ [con gái Đế Lai] sinh được 100 người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

* Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN, có lãnh thổ phía đông giáp Nam Hải [tức Biển Đông], Tây tới Ba Thục, Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn Tinh [còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Chiêm Thành]; lãnh thổ chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Còn dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, cho thấy lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể kéo dài tới Quảng Trị.

Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” [Lịch triều hiến chương loại chí].

Trong hội thảo về văn hóa Hùng Vương năm 2011, có học giả Trung Quốc cho rằng Hùng Vương là người… Trung Quốc, bởi người Việt không có họ Hùng. Đây là lập luận “cưỡng từ đoạt lý”. Theo các nhà ngôn ngữ học, “Hùng” xuất phát từ “Kun” của người Mường, từ “Khun” trong tiếng Môn - Khmer và tiếng Thái, nhằm để chỉ tù trưởng hoặc thủ lĩnh. Vua Hùng hay Hùng Vương là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang - bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ thời bấy giờ, cơ sở tiền đề hình thành Nhà nước Văn Lang. Cách biến âm này có thể thấy ở tên gọi của vùng đất Mê Linh vốn có từ gốc là Mling - tên của một loài chim được tôn là vật tổ [totem] của bộ lạc.

Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Nước Văn Lang có 15 bộ [trước là 15 bộ lạc], tổ chức hành chính dưới bộ là các công xã nông thôn [gọi là kẻ, chiềng, chạ] mà đứng đầu là bố chính. Tuy nhiên, nhà vua không áp đặt quản lý ở các đơn vị hành chính cơ sở mà do dân suy cử những người, dòng họ có thế lực, có uy tín. Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.

Về 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi [nhánh/ngành]; mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.

* Những thành tựu rực rỡ

Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên [truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh], sử dụng dụng cụ nông nghiệp [cày, cuốc, mai, thuổng] và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo [gạo nếp và gạo tẻ], dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm [cơm lam], làm bánh [sự tích bánh chưng, bánh giầy]; ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.

Dâng lễ vật, hương hoa ở đền thờ Hùng Vương phường Bình Đa, TP.Biên Hòa.

Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu [sự tích trầu cau], xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long [thuồng luồng] làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.

Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung - tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay. Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời [ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời], thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước [thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…], mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.

Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...

 Trống đồng Đông Sơn hiện đã tìm thấy được ở nhiều nơi, là bằng chứng khắc họa tiêu biểu cho nền văn hóa thời đại Hùng Vương. Trên mặt trống chạm khắc những hình người thổi kèn, diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng, vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công [một loài chim tiêu biểu của vùng nhiệt đới] hoặc đeo mặt nạ.

Sự có mặt của trống đồng Đông Sơn ở một số nước trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng như phát hiện về những lưỡi qua đồng thời Chiến quốc [Trung Quốc] ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn; đồng thời ghi chép trong Thông giám cương mục là năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu [năm 2353 TCN], Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần dài hơn 3 thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau; vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch; năm 1110 TCN Hùng Vương cũng sai sứ qua Trung Quốc, tặng Thành Vương nhà Chu chim trĩ trắng, cho thấy nền móng ngoại giao giữa Nhà nước Văn Lang với các triều đại phong kiến phương Bắc cùng sự giao thương, trao đổi hàng hóa giữa cư dân Văn Lang với các quốc gia quanh vùng.

Thanh Thúy

.

Cập nhật lúc: 08:24, 24/04/2018 [GMT+7]

Trong lịch sử dựng nước, thời kỳ các vua Hùng với Nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam được hình thành với những đặc trưng của hình thái nhà nước nguyên thủy, đã để lại dấu ấn về nền văn hóa đặc sắc cho dân tộc.

Người dân viếng Đền thờ Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ. Ảnh: T.THÚY

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân [theo truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông] cùng vợ là Âu Cơ [con gái Đế Lai] sinh được 100 người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

* Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN, có lãnh thổ phía đông giáp Nam Hải [tức Biển Đông], Tây tới Ba Thục, Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn Tinh [còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Chiêm Thành]; lãnh thổ chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Còn dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, cho thấy lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể kéo dài tới Quảng Trị.

Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” [Lịch triều hiến chương loại chí].

Trong hội thảo về văn hóa Hùng Vương năm 2011, có học giả Trung Quốc cho rằng Hùng Vương là người… Trung Quốc, bởi người Việt không có họ Hùng. Đây là lập luận “cưỡng từ đoạt lý”. Theo các nhà ngôn ngữ học, “Hùng” xuất phát từ “Kun” của người Mường, từ “Khun” trong tiếng Môn - Khmer và tiếng Thái, nhằm để chỉ tù trưởng hoặc thủ lĩnh. Vua Hùng hay Hùng Vương là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang - bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ thời bấy giờ, cơ sở tiền đề hình thành Nhà nước Văn Lang. Cách biến âm này có thể thấy ở tên gọi của vùng đất Mê Linh vốn có từ gốc là Mling - tên của một loài chim được tôn là vật tổ [totem] của bộ lạc.

Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Nước Văn Lang có 15 bộ [trước là 15 bộ lạc], tổ chức hành chính dưới bộ là các công xã nông thôn [gọi là kẻ, chiềng, chạ] mà đứng đầu là bố chính. Tuy nhiên, nhà vua không áp đặt quản lý ở các đơn vị hành chính cơ sở mà do dân suy cử những người, dòng họ có thế lực, có uy tín. Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.

Về 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi [nhánh/ngành]; mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.

* Những thành tựu rực rỡ

Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên [truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh], sử dụng dụng cụ nông nghiệp [cày, cuốc, mai, thuổng] và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo [gạo nếp và gạo tẻ], dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm [cơm lam], làm bánh [sự tích bánh chưng, bánh giầy]; ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.

Dâng lễ vật, hương hoa ở đền thờ Hùng Vương phường Bình Đa, TP.Biên Hòa.

Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu [sự tích trầu cau], xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long [thuồng luồng] làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.

Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung - tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay. Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời [ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời], thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước [thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…], mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.

Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...

 Trống đồng Đông Sơn hiện đã tìm thấy được ở nhiều nơi, là bằng chứng khắc họa tiêu biểu cho nền văn hóa thời đại Hùng Vương. Trên mặt trống chạm khắc những hình người thổi kèn, diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng, vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công [một loài chim tiêu biểu của vùng nhiệt đới] hoặc đeo mặt nạ.

Sự có mặt của trống đồng Đông Sơn ở một số nước trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng như phát hiện về những lưỡi qua đồng thời Chiến quốc [Trung Quốc] ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn; đồng thời ghi chép trong Thông giám cương mục là năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu [năm 2353 TCN], Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần dài hơn 3 thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau; vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch; năm 1110 TCN Hùng Vương cũng sai sứ qua Trung Quốc, tặng Thành Vương nhà Chu chim trĩ trắng, cho thấy nền móng ngoại giao giữa Nhà nước Văn Lang với các triều đại phong kiến phương Bắc cùng sự giao thương, trao đổi hàng hóa giữa cư dân Văn Lang với các quốc gia quanh vùng.

Thanh Thúy

Nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9

Thời điểm ra đời

nhà nước đầu tiên ở Việt Nam

Quan niệm truyền thống cho rằng lúc xuất hiện nhà nước đầu tiên [thời điểm lập quốc] ở Việt Nam cách đây chừng bốn ngàn năm. Song những nghiên cứu quan trọng, các phát hiện mới của ngành khảo cổ, lịch sử và khoa học văn hóa gần đây đã xem xét lại khoảng cách đó, đưa ra kết luận khác hẳn nhưng đầy sức thuyết phục và phù hợp với thực tế khách quan.

Thời điểm bắt đầu lịch sử văn minh của mỗi quốc gia là lúc xuất hiện nhà nước đầu tiên. Với lịch sử Việt Nam, đó là thời các vua Hùng. Tuy nhiên, dân tộc ta bước vào thời kỳ dựng nước chưa được bao lâu thì mất nước. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc [từ năm 179 trước Công nguyên [TCN] đến năm 938], dưới sức mạnh đô hộ và đồng hóa, lịch sử văn hiến của người Việt đã gần như bị xóa mọi dấu vết, không được ghi chép để truyền lại. Cái duy nhất mà kẻ thù ngoại bang không thể xóa được đó là ký ức của nhân dân ta về lịch sử tổ tiên, ông cha mình. Bởi vậy, suốt một thời gian dài, thời kỳ lập quốc của dân tộc Việt Nam chỉ được phản ánh trong huyền thoại, cổ tích, truyền thuyết dân gian. Các huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Thánh Gióng; những sự tích về trầu cau, bánh chưng, bánh dày, dưa hấu… đều liên quan đến phong tục, tập quán, cuộc sống của người Việt xưa, ít nhiều khắc họa hình ảnh của thời kỳ lập quốc. Các “pho sử” đó có sức sống khá mãnh liệt, bền lâu dù không chính xác và không thành văn.

Từ khi giành được độc lập quốc gia, ý thức tự tôn và nhu cầu nhận thức về nguồn gốc dân tộc đã kích thích, thúc đẩy các nhà sử học nước ta đi sâu tìm hiểu lịch sử thời đại Hùng Vương. Đến thời Trần [1226-1400], những huyền thoại, sự tích, truyền thuyết - vốn chỉ lưu truyền trong dân gian - lần đầu được sưu tầm, tập hợp, biên khảo và ghi chép lại trong các tài liệu thành văn, mà đáng chú ý nhất là bộ sách Việt điện u linh [của Lý Tế Xuyên] và Lĩnh Nam chích quái [của Trần Thế Pháp]. Sang thế kỷ 15, nhà sử học nổi tiếng Ngô Sĩ Liên đã - một cách chính thức và có hệ thống - đưa những tư liệu dân gian ấy vào bộ chính sử quy mô lớn do ông và các sử thần triều Lê biên soạn. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư này, Ngô Sĩ Liên dành riêng một kỷ, đặt tên là Kỷ Hồng Bàng, để trình bày những truyền thuyết mà ông thu thập được với diễn biến theo thứ tự thời gian: Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - 18 đời Hùng Vương. Ngô Sĩ Liên cũng là người đầu tiên nêu ra những niên đại tuyệt đối cho thời kỳ lập quốc đó. Theo ông thì Kinh Dương Vương - ông nội của vua Hùng thứ nhất - lên ngôi vào đời Phục Hy bên Trung Quốc [cụ thể là năm 2879 TCN]; còn vua Hùng cuối cùng [thứ 18] chấm dứt sự trị vì của mình vào năm Chu Noãn Vương thứ 57 [tức năm 258 TCN].

Những mốc thời gian trên được nhiều người cho là chuẩn xác, là cơ sở để khẳng định cách đây chừng bốn nghìn năm, dân tộc ta đã bước vào thời kỳ lập quốc [các cụm từ “bốn nghìn năm lịch sử”, “bốn nghìn năm văn hiến”, “bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước”… rất hay gặp trong sách báo và cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam]. Thế nhưng, cũng không ít người nghi ngờ một cách hoàn toàn có lý rằng vua chúa không thể có tuổi thọ của thần thánh, vậy mà trong suốt 2621 năm [2879 - 258 = 2621], chỉ có 20 đời vua [Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 vua Hùng] nối tiếp nhau, trung bình mỗi vua trị vì… 131 năm! Hơn nữa, những điều Ngô Sĩ Liên đưa vào chính sử đều là huyền thoại và truyền thuyết. Huyền thoại, cổ tích, truyền thuyết mang tính lịch sử, nhưng không phải là thực tế lịch sử. Do đó, không chỉ dựa vào truyền thuyết nói chung để ấn định niên đại tuyệt đối cho các sự kiện lịch sử. Ngô Sĩ Liên trình bày về Kỷ Hồng Bàng với nhiều sự việc, nhiều mốc thời gian khá rõ ràng, nhưng lại không đưa được những chứng cớ xác đáng, có sức thuyết phục để chứng minh. Ngay bản thân ông, sau khi nêu xong những vấn đề trên, cũng đành viết: “Hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi”!

Về mặt lý luận, nhà nước thường chỉ ra đời khi cơ sở kinh tế đã phát triển, tạo tiền đề cho những chuyển biến xã hội tới mức có sự phân hóa về địa vị và quyền lực. Thực tế cho thấy, hầu hết các nhà nước đầu tiên trên thế giới đều xuất hiện vào giai đoạn phát triển nhất của thời đại đồ đồng hoặc đầu thời đại đồ sắt. Ngày nay, qua các phát hiện khảo cổ, khoa học lịch sử Việt Nam đã thiết lập được tương đối hoàn chỉnh sơ đồ diễn biến văn hóa vật chất của dân tộc ta, từ sơ kỳ thời đại đồ đồng đến sơ kỳ thời đại đồ sắt, với các giai đoạn phát triển cơ bản theo thứ tự: Văn hóa Phùng Nguyên - Văn hóa Đồng Đậu - Văn hóa Gò Mun - Văn hóa Đông Sơn.

Theo kết quả xác định niên đại bằng phương pháp cacbon phóng xạ [C14], Văn hóa Phùng Nguyên - thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng - tồn tại cách đây chừng bốn nghìn năm. Như vậy, nếu theo quan niệm phổ biến lâu nay, thì thời điểm nhà nước đầu tiên xuất hiện trên miền đất nước ta [thời điểm lập quốc] tương ứng với niên đại của Văn hóa Phùng Nguyên. Thế nhưng, trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền Văn hóa này, ngoài ít mẩu xỉ đồng, chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá vẫn còn phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Các nhà sử học đều thống nhất kết luận rằng xã hội thời Văn hóa Phùng Nguyên chưa vượt khỏi hình thái công xã nguyên thủy và do đó, không thể khẳng định trước đây bốn nghìn năm dân tộc ta đã bước vào thời đại văn minh, đã có nhà nước!

Tiếp sau Văn hóa Phùng Nguyên là các giai đoạn phát triển Văn hóa Đồng Đậu và Gò Mun. Dù số lượng, chất lượng của công cụ bằng đồng có xu hướng ngày càng tăng, nhưng cũng chưa thấy chứng cớ rõ rệt nào về sự phân hóa xã hội - động lực cần thiết cho sự xuất hiện của nhà nước.

Sang thời Văn hóa Đông Sơn, con người đã thành thạo kỹ thuật đúc đồng và bắt đầu biết chế tạo công cụ từ quặng sắt. Họ đã có thể làm ra những đồ dùng tinh xảo, đòi hỏi trình độ mỹ thuật và kỹ thuật cao [như trống đồng, thạp đồng, ấm đồng…]. Nền kinh tế khá phát triển. Nhiều tài liệu, hiện vật khảo cổ cho thấy sự phân hóa giai cấp cũng đã rõ rệt. Ví dụ, trong di chỉ mộ táng Việt Khê [Hải Phòng] - được xác định có niên đại tuyệt đối là 2462 ± 100 năm [tính đến năm 1997], thuộc thời Văn hóa Đông Sơn - các nhà khảo cổ phát hiện 4 ngôi mộ chôn quan tài hình thuyền. Ba ngôi trong số đó hoàn toàn không có hiện vật chôn kèm; còn ngôi thứ tư lại chôn theo tới 107 hiện vật với 73 hiện vật bằng đồng [có cả những đồ dùng sang trọng như khay, ấm, thạp, thố, bình, âu…]. Sự khác biệt giữa các ngôi mộ thể hiện sự phân biệt sâu sắc về địa vị, vai trò, tài sản… của chủ nhân chúng khi còn sống.

Các nhà sử học ngày càng thống nhất, chung quan điểm khi cho rằng nhà nước đầu tiên trên miền đất nước ta chỉ có thể xuất hiện vào thời Văn hóa Đông Sơn - giai đoạn phát triển đỉnh cao của thời đại đồ đồng và giai đoạn đầu của thời kỳ đồ sắt. Quan điểm này được cộng đồng khoa học quốc tế thừa nhận - chẳng hạn, trong nhiều công trình lịch sử, xã hội học của các tác giả nước ngoài, đã dùng từ “văn minh” [civilization] thay vì “văn hóa” [culture] khi bàn về Văn hoá Đông Sơn của Việt Nam. Do vậy, chỉ có thể dùng niên đại của Văn hóa Đông Sơn làm giới hạn đầu cho thời kỳ lập quốc của dân tộc ta, cách đây chừng 27 thế kỷ. Nó cũng phù hợp với ghi chép của Việt sử lược - bộ sử khuyết danh nhưng có độ chính xác cao, được biên soạn sớm nhất ở nước ta - theo đó “…Đến thời Trang Vương nhà Chu [696-681 TCN], ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô tại Phong Châu, phong tục thuần phác, chính sự dùng lối kết nút, truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”.

Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp [đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, tổ chức bộ máy nhà nước] năm 1992, Quốc hội Việt Nam đã tiếp nhận quan điểm trên của các nhà sử học để thay cụm từ “Trải qua bốn nghìn năm lịch sử…” ghi trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980 bằng cụm từ “Trải qua mấy ngàn năm lịch sử…” trong Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 vẫn duy trì sự thay đổi đó. Viết như thế vừa tôn trọng thực tế lịch sử khách quan, vừa chính xác lại vừa tạo điều kiện cho những khẳng định mới, phát hiện mới của khoa học. Chúng ta có quyền và rất nên tự hào về lịch sử lâu đời của dân tộc, nhưng cần tự hào đúng những gì mình có. Hơn nữa, với niên biểu lập quốc cách đây hơn 25 thế kỷ, Việt Nam vẫn là một trong những nước nảy nở nền văn minh sớm trên thế giới./. 

                                                                                                                SƠN HÀ                                                                  

Video liên quan

Chủ Đề