Ngữ văn 9 bài hoàng lê nhất thống chí năm 2024

Soạn Văn 9: Hoàng Lê nhất thống chí [Hồi thứ mười bốn] thuộc môn Ngữ văn lớp 9, học kì 1 do Ngô gia văn phái sáng tác. Soạn bài mẫu môn Ngữ văn lớp 9 bài Hoàng Lê nhất thống chí giúp các bạn dễ dàng trả lời câu hỏi trong SGK, từ đó có sự chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi tới lớp. Sau đây mời các bạn tham khảo chi tiết.

Bố cục

- Phần 1 [từ đầu ... năm Mậu Thân [1788]]: Nhận tin cấp báo, Nguyễn Huệ lên ngôi, cầm quân ra Bắc.

- Phần 2 [tiếp ... rồi kéo vào thành]: Cuộc hành quân thần tốc và những chiến thắng vẻ vang.

- Phần 3 [còn lại]: Thảm họa của bè lũ bán nước.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 [trang 72 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1]:

Đại ý của bài văn: Hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công đại phá thần tốc quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận vua tôi Lê Chiêu Thống.

Câu 2 [trang 72 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1]:

- Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ:

+ Mạnh mẽ, quyết đoán [sau khi lên ngôi liền xuất chinh], có kiến thức, am hiểu lịch sử, bình dị, gần gũi [mở cuộc duyệt binh, phủ dụ tướng sĩ].

+ Có tài năng quân sự: Hành quân thần tốc, có phán đoán tài tình, mưu kế kì diệu.

+ Sáng suốt trong việc dùng người, nhìn xa trông rộng: Hiểu rõ bản chất Sở, Lân và kế lui quân của Ngô Thì Nhậm, định sẵn mưu lược, tính kế lâu dài.

+ Thấu tình đạt lí: Tha tội cho tướng Lân, Sở dù họ thua trận, đánh giặc vì đại nghĩa.

- Nguồn cảm hứng chi phối ngòi bút tác giả: Tư tưởng trung quân của Nho giáo trong tác giả với nhà Lê. Cùng đó là sức mạnh của phong trào Tây Sơn và người anh hùng áo vải bên cạnh vua quan hèn hạ.

Câu 3 [trang 72 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1]:

* Số phận thảm bại của nhà Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống:

- Quân tướng nhà Thanh:

+ Sầm Nghi Đống thắt cổ chết, Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp chuồn trước qua cầu phao”.

+ Binh lính thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối; tan tác chạy tranh nhau sang sông, rơi xuống nước làm sông tắc nghẽn.

- Vui tôi nhà Lê: Trở thành kẻ phản động “cõng rắn cắn gà nhà”; cướp thuyền bỏ chạy, mấy ngày không ăn mệt lử, cuống quýt, than thở, oán giận, chảy nước mắt.

Câu 4 [trang 72 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1]:

Nghệ thuật trần thuật của đoạn trích: Không ghi chép sự kiện một cách gấp gáp qua từng mốc thời gian, còn miêu tả cụ thể hành động, lời nói. Miêu tả được thế đối lập giữa hai đội quân: Xộc xệch, nhát gan với xông xáo, dũng mãnh, có tổ chức.

Luyện tập

[Trang 72 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1]:

Dựa theo tác phẩm, hãy viết một đoạn văn ...

Đoạn văn ngắn:

Sau khi lên ngôi vua, vào tối 30 Tết vua Quang Trung đã lập tức lên đường ra Bắc. Quân ra đến sông Gián làm tan vỡ nghĩa binh trấn thủ. Nửa đêm mồng 3 tháng giêng, nghĩa quân bao vây Hà Hồi. Mờ sáng mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi đánh bại quân Thanh làm nên chiến thắng oanh liệt.

----

Ngoài Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí [Hồi thứ mười bốn] ngắn gọn, mời các bạn tham khảo thêm Ngữ văn lớp 9, Văn mẫu 9, Soạn văn 9... mà VnDoc đã tổng hợp và đăng tải để học tốt Văn 9 hơn.

- Ngô gia văn phái: nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây [nay là Thành phố Hà Nội].

Có hai tác giả chính:

- Ngô Thì Chí [1753 - 1788], làm quan thời Lê Chiêu Thống.

- Ngô Thì Du [1772 - 1840], làm quan dưới triều nhà Nguyễn.

  1. Tác phẩm

- Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm bằng chữ Hán thuộc thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo kiểu chương hồi.

- Chủ đề: Ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn và vua Quang Trung. Đồng thời, tác phẩm miêu tả sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh cùng bọn bán nước.

2. Nội dung

  1. Hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ

- Quang Trung là một đấng minh quân, hết lòng yêu nước, thương dân: nghe tin giặc đến ông giận lắm bèn họp với các tướng sĩ, đích thân đánh giặc. Nguyễn Huệ viết lời dụ quân sĩ, tố cáo hành vi xâm lược của người phương Bắc, khẳng định chủ quyền, độc lập tự chủ, tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân ta.

- Nguyễn Huệ là người có trí tuệ sáng suốt và có tầm nhìn xa trông rộng: Ông lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung. Ông đã nhìn nhận, phân tích và đánh giá tình hình giữa quân địch và quân ta để đưa ra phương hướng chiến lược cho quân ta. Mới khởi binh đánh giặc, nhưng Quang Trung đã có quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới sau thời bình.

- Quang Trung có tài dùng người: Ông quyết đoán nhưng không độc đoán, nghe lời góp ý của quần thần, hỏi ý kiến của hiền sĩ trong thiên hạ. Nhà vua thấy rõ ưu điểm và nhược điểm của tướng sĩ dưới quyền để sử dụng một cách phù hợp, thưởng, phạt nghiêm minh.

- Quang Trung là một dũng tướng tài ba: Ông tổ chức một cuộc hành binh thần tốc, chưa đầy một tuần đã tiến từ Phú Xuân đến Tam Điệp, vừa đi vừa chiêu binh. Xuất phát ngày 30 Tết đến mùng 5 Tết đã giải phóng Thăng Long vừa hành quân vừa đánh giặc vừa thu hồi giang sơn, tổng chiến dịch chỉ trọng trong 10 ngày. Nhà vua sử dụng những chiến thuật đánh giặc khắc nhau để phù hợp với từng đồn giặc.

- Hình ảnh vua Quang Trung lẫm liệt cưỡi voi thúc độc quân sĩ với tấm áo bào màu đỏ đã khắc họa hình tượng người anh hùng mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, tài điều binh khiển tướng, là người tổ chức và là linh hồn của cuộc chiến.

  1. Sự thảm bại của luc bán nước và lũ cướp nước

- Sự thất hại thảm bại của binh tướng nhà Thanh: Tôn Sĩ Nghị thì thắt cổ tự vẫn. Tướng dưới thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên”,… Quân sĩ chân tay run lẩy bẩy xin hàng, bỏ chạy dẫm đạp lên nhau mà chết,…

- Số phậm bi thảm của lũ bán nước: Lê Chiêu Thống phải chịu nỗi sỉ nhục của kẻ bán nước cầu vinh, phải chịu cảnh vong quốc.

II. Soạn bài

Bài 1.

- Đại ý: Qua sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh, tác giả tái hiện chân thực hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ với mưu trí tuyệt vời; đồng thời, tác giả cũng phản ánh rõ sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.

- Bố cục:

+ Phần 1 [từ đầu cho đến “tháng chạp năm Mậu Thân 1788”]: Quân Thanh xâm lược Thăng Long, Quang Trung lên ngôi hoàng đế và hạ lệnh xuất quân đánh giặc Thanh.

+ Phần 2 [tiếp đến “kéo vào thành”]: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.

+ Phần 3 [phần còn lại]: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.

Bài 2.

- Hình ảnh vua Quang Trung trong đoạn trích:

+ Quang Trung là một người có lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Do vậy, khi nghe tin quân Thanh đến Thăng Long, Quang Trung đã thân chinh cất quân ra Bắc dẹp giặc xâm lược.

+ Quang Trung là một người có tính cách quyết đoán, có cái nhìn chiến lược sáng suốt. Đồng thời, ông cũng là một người biết lắng nghe ý kiến của tướng sĩ.

+ Quang Trung là một vị tướng tài ba, có tài điều khiển binh lính, trù hoạch quân mưu, hiểu địch hiểu ta. Đặc biệt, ông cũng là một người tự tin, có tầm nhìn xa trông rộng khi hứa chắc chắn với binh lính: “hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng”…

- Nguồn cảm hứng chi phối ngòi bút của các tác giả là nguồn cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc. Chính vì vậy, các tác giả đã viết rất hay, rất thật về người anh hùng Nguyễn Huệ.

Bài 3.

- Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh được tác giả miêu tả cụ thể, sinh động:

+ Ở trận Hà Hồi, khi bị vây kín, “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết”.

+ Ở trận Ngọc Hồi, trong cách đánh giáp lá cà của quân Nam, “quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết,…, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”.

+ “Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết”.

+ Trên đường chạy về Thăng Long, quân Thanh bị “quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”.

+ “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”…

- Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống:

+ Cầu đứt, vua phải cướp thuyền của dân để chèo sang bờ bắc chạy theo Tôn Sĩ Nghị, “luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử”.

+ Khi quân Tây Sơn đuổi đến nơi, vua tôi Lê Chiêu Thống lại cuống quýt chạy theo đường tắt trong núi mà đến cửa ải để “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

- Lối văn trần thuật của tác giả: ca ngợi chiến công chói lọi của vua Quang Trung, lên án bộ mặt xâm lược của quân tướng nhà Thanh và bộ mặt phản nước, hại dân của vua tôi Lê Chiêu Thống.

- Ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy [của quân tướng nhà Thanh và của vua tôi Lê Chiêu Thống] có sự khác nhau:

+ Cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh là cuộc tháo chạy của bọn giặc xâm lược. Đứng trên lập trường dân tộc, các tác giả đã lên án hành động của chúng.

+ Đối với cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống, tuy cũng miêu tả đúng sự thật số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống nhưng trong cách miêu tả, các tác giả vẫn có chút ngậm ngùi của những quần thần cũ đối với vua Lê được ẩn chứa trong những chi tiết như người thổ hào bất giác rơi lệ, mời vua vào trại thết gà chiêu đãi,…

Chủ Đề