Nêu giá trị tu từ của nghệ thuật đối trong hai câu thơ thực bài Thương vợ

Trong những bài kiểm tra làm văn, các bạn có thể gặp dạng đề cơ bản là phân tích bài Thương vợ. Nói phân tích là dạng đề cơ bản vì các bạn học sinh cần triển khai làm rõ bài thơ ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Ở mỗi bài soạn có yêu cầu trên, Kienguru luôn gợi ý cho các bạn hệ thống ý lớn nhỏ và cách lập luận để làm rõ vấn đề. Hôm nay, một lần nữa, page sẽ hỗ trợ các bạn trong việc phân tích một bài thơ độc đáo của Tú Xương. Chúng ta cùng bắt đầu phân tích bài thơ Thương vợ, các bạn nhé!


I. Sơ lược về tác giả, tác phẩm khi phân tích bài Thương vợ

1. Tác giả:

Khi phân tích bài Thương vợ, chúng ta nên dành một vài dòng viết đầu để giới thiệu về tác giả. Như thế, bài viết sẽ trở nên rõ ràng hơn, chặt chẽ hơn. Trần Tế Xương là người con của làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định [nay là thành phố Nam Định].

Người đời thường biết đến Tú Xương về tính cách phóng khoáng, tự do, không chịu gò ép mình vào bất kì một khuôn khổ nào, kể cả những lề lối sáo rỗng của việc thi cử. Chính vì lẽ đó nên ông chỉ đỗ đến bậc tú tài dù học rất giỏi và khăn gói đi thi rất nhiều lần. Đây cũng chính là lí do của danh xưng Tú Xương mà mọi người vẫn gọi ông.


Tú Xương sáng tác phần lớn bằng chữ Nôm với nhiều thể thơ khác nhau như: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát. Trong những tác phẩm của mình, Tú Xương khéo léo lồng vào tiếng cười với nhiều cung bậc, mức độ khác nhau nhưng cùng vì mục đích châm biếm những điều xấu xa, tiêu cực một cách mạnh mẽ và sâu sắc. 

2. Bài thơ Thương vợ:

Một bước khác không kém phần quan trọng khi phân tích bài Thương vợ là phần giới thiệu về tác phẩm. Đây được xem là một trong những sáng tác hay nhất và cảm động nhất của nhà thơ.

Nội dung của bài thơ là sự thể hiện tình cảm biết ơn, yêu thương của ông Tú dành cho người vợ tảo tần sớm tối, chịu thương chịu khó của mình lúc nào cũng là lùi về phía sau vun vén cho gia đình trong suốt khoảng thời gian Trần Tế Xương dùi mài kinh sử, ôm mộng đỗ đạt khoa cử.  

II. Hướng dẫn phân tích bài Thương vợ

1. Hai câu đề:

Việc phân tích bài thơ Thương vợ sẽ được cụ thể hoá thông qua việc phân tích từng cặp câu thơ. Đầu tiên là hai câu đề:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Hai câu thơ này đã khái quát nên hoàn cảnh vất vả của bà Tú và đồng thời cũng chỉ rõ lí do đưa bà vào hoàn cảnh ấy. Cụ thể hơn, bà Tú phải gánh trên vai gánh nặng của gia đình bằng công việc buôn bán của mình. Bà phải làm việc “quanh năm” mà không có một phút giây ngơi nghỉ và công việc ấy, bà phải làm trong một địa thế rất chông chênh - “mom sông” - vốn là phần đất nhỏ nhô ra phía sông. Với một người phụ nữ, đó là một công việc vô cùng vất vả, dù lam lũ nhưng lại không đảm bảo ổn định.

Lí do của việc một người phụ nữ như bà Tú phải tất tả ngược xuôi bươn chải như thế là vì bà cần nuôi tất thảy “năm con” với “một chồng”. Cuộc sống đã đặt bà tú vào một hoàn cảnh éo le khi bà không chỉ phải chăm sóc cho con mà còn phải lo tất tần tật cho chồng và gánh luôn tránh nhiệm của người trụ cột trong gia đình. Khi đặt mình lên bàn cân trong thế đối xứng “năm con” - “một chồng”, ông Tú dường như cũng nhận ra mình là nhân tố khiến cho gánh nặng của người vợ của mình thêm oằn xuống.

Bà Tú chính là hiện thân cho sự đảm đang, chu đáo với chồng con, gia đình của tất cả những người phụ nữ nói chung.

2. Hai câu thực:

Trong hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương đã tái hiện trước mắt người đọc thực cảnh lam lũ của bà tú. 

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Hình ảnh “lặn lội thân cò” gợi nhắc cho người đọc nhớ về một hình ảnh quen thuộc trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông”. Chính hình ảnh ấy đã khái quát lên nỗi vất vả, tần tảo của những người mang cùng thân phận. Thay vì nói trực tiếp đến sự nhọc nhằn của vợ mình và thay vì đặt từ chỉ hoạt động - “lặn lội” ra sau từ chỉ chủ thể - “thân cò”, Trần Tế Xương đã dùng cách nói ẩn dụ và nghệ thuật đảo ngữ, chính điểm này có tác dụng nhấn mạnh hơn sự gian khổ của bà Tú. 


Cũng sử dụng nghệ thuật đảo ngữ như câu thơ trước đó, từ “eo sèo” lại được đặt ở vị trí đầu tiên của câu thứ hai trong cặp câu thực. Bản thân từ đó đã gợi ra cảnh chen lấn, xô đẩy và khi công việc của bà Tú lại diễn ra trong “buổi đò đông” thì lại càng gợi nên sự bất trắc, gian nan gấp bội. Như vậy, cả hai câu thơ đã nói lên thực cảnh làm việc của bà Tú: vừa nhọc nhằn vừa bấp bênh. Nhưng qua đó, ta lại có thể cảm nhận được tình cảm yêu thương tha thiết mà Trần Tế Xương dành cho người vợ của mình. 

3. Hai câu luận:

Hình ảnh bà Tú qua những câu thơ đầu tiên đã hiển hiện những nét đẹp đáng quý và những đức tính tốt đẹp của bà được khẳng định rõ ràng qua hai câu thơ tiếp theo

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Dù vất vả và chắc chắn lắm khi không tránh khỏi mỏi mệt, nhưng bà Tú không hề trách cứ điều gì ở chồng mình. Bà chỉ cho rằng, đó là “duyên” và “nợ”. Ở bà còn có đức hi sinh thầm lặng mà cao cả. Bà nhận về mình những “nắng” những “mưa” của cuộc đời để chồng con mình có cuộc sống tốt nhất có thể. Hai câu thơ sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo đã làm nổi bật lên những đức tính cao quý của một người phụ nữ như bà Tú.

4. Hai câu kết:

Bài phân tích bài Thương vợ sẽ kết lại thông qua việc làm rõ ý nghĩa của hai câu thơ cuối cùng:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Ta thấy trong hai câu thơ sự bất mãn của Trần Tế Xương trước hiện thực. Và một điều đặc biệt là sự bất mãn ấy được Tú Xương thể hiện bằng một tiếng chửi để tố cáo hiện thực quá tàn nhẫn với những thân phận phụ nữ bé mọn nhưng phải chịu nhiều chua chát và cay đắng. Quan trọng hơn là Trần Tế Xương còn ý thức sâu sắc về những điều hạn chế, thậm chí là mang tính tiêu cực của bản thân. Ông biết sự “hờ hững” của mình cũng là một trong những biểu hiện của thói đời làm cho người vợ càng thêm phần vất vả.

Xem thêm

Soạn văn bài Thương Vợ

Cảm nhận về bài thơ Thương Vợ

Kết luận lại, để phân tích bài Thương vợ thì ta cần phải xác định kết cấu của bài viết sẽ phân chia như thế nào và cần có sự phân tích song hành cả nội dung và nghệ thuật cho từng phần. Kienguru hi vọng rằng với những gợi ý nói trên thì các bạn không chỉ làm tốt bài phân tích tác phẩm của Tế Xương mà còn có thể làm dạng đề phân tích thật tốt ở bất kì bài học nào. Chúc các bạn làm được bài phân tích chất lượng.

I. Tác giả

1. Tiểu sử 

- Trần Tế Xương [1870 - 1907] thường gọi là Tú Xương.

- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định [nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định].

- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ [thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát] và một số bài văn tế, phú, câu đối,...

b. Phong cách nghệ thuật

- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.

- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.

Sơ đồ tư duy - Tác giả Trần Tế Xương

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Đề tài

- Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống càng hiếm hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú bao gồm cả thơ, văn tế, câu đối.

- Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gia truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng.

- Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tế Xương viết về bà Tú.

b. Bố cục

- Có thể chia thành: Đề, thực, luận, kết

- Hoặc chia như sau:

+ Sáu câu thơ đầu: Hình ảnh của bà Tú

+ Hai câu thơ cuối: Nỗi lòng của tác giả

2. Tìm hiểu chi tiết

a. Hình ảnh bà Tú

* Hai câu thực:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng” 

- Công việc: buôn bán

- Thời gian: quanh năm=> từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không có một ngày được nghỉ ngơi.

- Địa điểm: mom sông [phần đất ở bờ sông nhô ra phía lòng sông, nơi người làng chài thường hay tụ tập mua bán]=> hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cuộc đời lắm cơ cực, phải vật lộn để kiếm sống.

- “Nuôi đủ năm con với một chồng”: Gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ.

+ Cách đếm con, chồng=> ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, còn người chồng đang phải “ăn lương vợ”

=> Hai câu thực gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tảo tần gắn với việc buôn bán ngược xuôi của bà Tú.

* Hai câu đề:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

- Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tế Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú: thân cò lầm lũi gợi liên tưởng về thân phận vất vả, cực khổ, của bà Tú cũng như những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ

- Ba từ "khi quãng vắng" đã nói lên không gian heo hút, vắng lặng chứa đầy những lo âu, nguy hiểm.

- Câu thơ dùng phép đảo ngữ [đưa từ "lặn lội" lên đầu câu] và dùng từ "thân cò" thay cho từ "con cò" càng làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Không những thế, từ "thân cò" còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận nữa. Lời thơ vì thế, mà cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn.

- Câu thứ tư làm rõ sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

+ Eo sèo: là từ láy tượng thanh ý chỉ sự kì kèo, kêu ca phàn nàn một cách khó chịu=> gợi tả cảnh tranh bán, cãi vã nơi “mặt nước”

+ Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề buôn bán nhỏ.

+ “Buổi đò đông”  hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm "khi quãng vắng".

+ Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được để “nuôi đủ năm con với một chồng” phải lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt trong thời buổi khó khăn.

* Hai câu luận

“Một duyên hai nợ, âu đành phận,

         Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

- Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

+ “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng.

+ “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.

+ Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình.

+ “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.

=> Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.

b. Nỗi lòng của tác giả

- Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

             Có chồng hờ hững cũng như không.”

+ Ý nghĩa của lời chửi là tác giả thầm trách bản thân mình một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng của bản thân mình. Nhưng đó lại là một lẽ thường tình trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Tú Xương dám thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, dám tự nhận khuyết điểm của mình. Từ đó cho thấy ông là một người có nhân cách đẹp.

=> Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi.

c. Giá trị nội dung

- “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.

d. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú.

- Ngôn ngữ thơ bình dị như lời ăn tiếng nói thường ngày.

- Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể [bà Tú với “năm con, một chồng”] vừa khái quát sâu sắc [người phụ nữ ngày xưa].

- Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm

=>  “Thương vợ’” là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình của Tế Xương.

Sơ đồ tư duy - Thương vợ

Nhận định

Một số nhận định về tác giả, tác phẩm

1. “… Có khi tôi đã thấy giật mình cho Tú Xương, khi tôi giả tỉ thơ Tú Xương không có cái khía trữ tình, cái hơi lãng mạn của nó, mà lại chỉ rặt những “Cống hỉ - mét xì- Thôi thôi lạy mợ xanh căng lạy…”. Thật tôi thấy chối tai đấy. Ở ai thế nào tôi không hay, nhưng ở tôi, khi mà Tú Xương cứ hiện thực chỉ có như vậy thôi, cái gốc hiện thực ấy mà không có cái ngọn trữ tình, cái tán lãng mạn ấy, thì Tú Xương cũng tắt gió trong tôi từ lâu rồi và đã bay ra khỏi tôi lúc nào không biết chừng.

       Cho nên ai muốn nói gì đến Tú Xương thì cứ nói ra, tôi đều coi trọng […] nhưng tôi vẫn cho rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đà thơ là ở chân phải và Tú Xương đã băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn trữ tình.”

                                                                                                                  [Nguyễn Tuân]

2.              

“Ông nghè ông thám vô mây khói

Đứng lại văn chương một tú tài.” 

                                             [ Xuân Diệu]  

Loigiaihay.com

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề