Liên Xô từng có bao nhiêu tàu sân bay?

Cuối thời kỳ Chiến tranh Lạnh, với tham vọng ngăn chặn hải quân Mỹ tiếp cận bờ biển của mình, Liên Xô đã thực hiện một dự án cực lớn nhằm chế tạo chiếc tàu sân bay lớn nhất mang tên Ulyanovsk.

Nếu được hoàn thành, siêu tàu sân bay Ulyanovsk của Liên Xô sẽ là một con tàu hải quân khổng lồ dài hơn 305 m, trọng tải 85.000 tấn và đủ sức chứa 70 máy bay các loại. Trang bị động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, khi phối hợp với các tàu chiến và tàu ngầm khác, siêu tàu sân bay này sẽ là một công cụ răn đe rất hiệu quả đối với Mỹ, theo National Interest.

Tuy nhiên, tàu sân bay Ulyanovsk lại gần như chỉ còn là một tàn tích của lịch sử bởi Moscow chưa bao giờ hoàn thiện dự án này do vấn đề tài chính. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nga trải qua những năm tháng kinh tế khó ngăn khiến việc đóng những con tàu mới là điều không thể.

Siêu tàu sân bay Ulyanovsk được khởi công vào năm 1988 tại nhà máy đóng tàu  Nikolayev South 444 ở Ukraine. Nhà máy này từng đóng các thiết giáp hạm, tàu sân bay trực thăng lớp Moskva và tàu sân bay lớp Kiev, nhưng không tàu nào có thể sánh được về độ hoành tráng với tàu Ulyanovsk.

Được đặt tên theo nơi sinh của lãnh tụ Vladimir Lenin, chiếc siêu tàu sân bay này được trang bị 4 lò phản ứng hạt nhân KN-3, loại ban đầu được thiết kế cho các tuần dương hạm bọc thép lớp Kirov khổng lồ và tuần dương hạm tên lửa hạng nặng Frunze. Bởi vậy, tàu Ulyanovsk có thể dễ dàng đạt vận tốc gần 56 km/h khi hành trình.

Tàu có thể mang theo ít nhất 44 chiến đấu cơ gồm tiêm kích Su-33 và Mig-29 được cấu hình hoạt động trên tàu sân bay. Tàu được trang bị hai hệ thống phóng hơi nước, cất cánh kiểu nhảy cầu, và 4 bộ cáp giữ giúp các chiến đấu cơ cất/hạ cánh thuận tiện.

Các nhà thiết kế tàu dự tính lắp ba thang máy, mỗi chiếc có thể chở được 50 tấn để di chuyển phi cơ ra vào nhà chứa máy bay trên boong. Ngoài ra, tàu còn được trang bị các trực thăng để tìm kiếm cứu nạn và thực hiện nhiệm vụ tác chiến chống ngầm. Các kỹ sư Liên Xô tính toán tàu sẽ có 3.400 thủy thủ, bằng gần một nửa số thủy thủ trên một tàu sân bay lớp Nimitz của Mỹ, dù vậy đây vẫn là con số đáng kể so với các tàu khác của Liên Xô.

Việc Liên Xô muốn đóng một siêu tàu sân bay là động thái rất đáng chú ý bởi những tàu khổng lồ chưa bao giờ được chú trọng trong lực lượng hải quân nước này.

Có một lý do hợp lý đằng sau việc đóng tàu Ulyanov. James Holmes, giáo sư chiến lược ở Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ, cho rằng Liên Xô muốn sở hữu siêu tàu sân bay để hình thành thế trận phòng thủ "Vành đai Xanh"  gần bờ.

Thế trận "Vành đai Xanh" là sự kết hợp sức mạnh trên bộ, trên biển và trên không để ngăn chặn tàu sân bay và tàu ngầm Mỹ. Nga có thể bảo vệ đất liền đồng thời tạo ra khu vực tuần tra an toàn cho tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo thực hiện các nhiệm vụ răn đe hạt nhân.

"Các tàu ngầm hạt nhân này cần ẩn mình trong nhiều tuần khi đạt độ sâu an toàn. Các siêu tàu sân bay của Liên Xô có thể góp phần tạo ra các thành phần tác chiến bề mặt và trên không trong thế trận phòng thủ Vành đai Xanh, xua đuổi các lực lượng đặc nhiệm Mỹ  khỏi các vùng biển Á - Âu", Holmes nói.

Tàu sân bay duy nhất Đô đốc Kuznetsov hiện nay của Nga. Ảnh: Sputnik

Mặt khác, niềm tự hào dân tộc cũng có thể là động cơ thúc đẩy Liên Xô đóng tàu Ulyanovsk. "Mỹ là siêu cường thế giới và lãnh đạo Liên Xô muốn có khí tài tương tự để chứng tỏ họ cũng là siêu cường", Holmes nói.

Tuy nhiên, tàu Ulyanovsk mới chỉ đóng được 20% khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Đến năm 1992, Nga gặp vô vàn khó khăn về kinh tế, không đủ tiền để duy trì các chương trình quân sự tốn kém, và tàu Ulyanovsk bị tháo dỡ bán phế liệu.

Hiện nay, Nga chỉ có một tàu sân bay duy nhất là tàu Đô đốc Kuznetsov nhỏ hơn nhiều được hạ thủy năm 1985. Những trục trặc kỹ thuật đã khiến nó không thể ra khơi mà không đi kèm một chiếc tàu kéo.

Nga dường như đang hồi sinh giấc mơ đóng siêu tàu sân bay với việc bước đầu thiết kế một tàu sân bay mới lớn hơn tàu sân bay lớp Nimitz của Mỹ và có thể mang theo tới 100 máy bay.

"Các nước lớn đều có tàu sân bay, Nga tự coi mình là một cường quốc nên tàu sân bay sẽ là một biểu tượng của sự hồi sinh quốc gia và niềm kiêu hãnh sau khi Liên Xô tan rã", 

Ở thời điểm chiến tranh bắt đầu, các lực lượng hải quân cho rằng tàu sân bay chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ cho thiết giáp hạm, nhưng đến năm 1945, vai trò của chúng đã đảo ngược khi tàu chiến trở thành tàu hộ tống cho các tàu sân bay.

Tàu sân bay Graf Zeppelin của phát xít Đức. Ảnh: Wikipedia

Vào giai đoạn cuối Thế chiến 2, quân Đồng minh có gần 200 tàu sân bay đang hoạt động. Trên Đại Tây Dương, những tàu sân bay này đã giúp đánh bại mối đe dọa của U-boat [tàu ngầm của Đức Quốc xã]. Tại Thái Bình Dương, chúng đóng vai trò thiết yếu đối với chiến dịch “nhảy cóc” hoặc “nhảy đảo” [đưa quân đổ bộ tấn công từng cụm đảo từ tay Nhật Bản].

Trong khi đó hoài bão về tàu sân bay của phe phát xít dường như vẫn lu mờ. Đức và Italy gần như đóng thành công tàu sân bay của riêng các nước này với hy vọng sẽ sớm triển khai trong cuộc chiến trên biển. Nhật Bản đã đóng thành công tàu sân bay ngay từ giai đoạn đầu chiến tranh, nhưng ngay cả tàu sân bay lớn nhất mà nước này từng chế tạo cũng không thể ngăn được sự thất bại của phe phát xít trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến.

Tàu sân bay Graf Zeppelin

Việc đóng tàu sân bay là trọng tâm trong chương trình tái vũ trang lực lượng hải quân trước Thế chiến thứ 2 của Đức. Chương trình này có tên gọi Plan Z. Theo đó, kêu gọi Lực lượng hải quân của Đức Quốc xã phát triển một lực lượng gồm 4 tàu sân bay và 10 thiết giáp hạm. Kế hoạch này sau đó đã được cắt giảm chỉ còn 2 tàu sân bay.

Tàu sân bay đầu tiên của Đức được đóng vào tháng 12/1936 và hạ thủy năm 1938. Con tàu được đặt tên là Graf Zeppelin, dài 262m, boong và thân tàu bọc thép, có lượng giãn nước đầy tải là 34.000 tấn, chứa 1.700 thành viên thủy thủ đoàn và 300 thành viên phi hành đoàn. Graf Zeppelin có tốc độ 65 km/h, trở thành tàu sân bay nhanh nhất từng được chế tạo vào thời điểm đó, khiến cả thế giới run sợ.

Tàu sân bay Graf Zeppelin có 2 máy phóng ở phần đầu, sử dụng khí nén để phóng máy bay. Các máy phóng có thể phóng hơn 10 máy bay trong vòng 6 phút. Với 2 máy phóng hoạt động song song, Graf Zeppelin có thể phóng và hạ cánh máy bay cùng một lúc. Phi đội của Graf Zeppelin gồm 20 máy bay thả ngư lôi 167, 10 máy bay Bf109 và 13 máy bay ném bom bổ nhào Ju-87 Stuka.

Graf Zeppelin cũng được trang bị vũ khí mạnh mẽ. Nó có 16 khẩu pháo 150mm bố trí trên 8 tháp pháo nòng đôi để phòng thủ chống hạm và 12 khẩu pháo 105mm bố trí trên 6 tháp pháo nòng đôi có nhiệm vụ phòng không, ngoài ra còn có hơn 40 pháo phòng không có cỡ nòng nhỏ hơn.

Graf Zeppelin đã được hoàn thiện tới 80% khi chiến tranh Thế giới thứ 2 bắt đầu nổ ra năm 1939, nhưng nó chưa từng được triển khai trong các trận đánh. Các nhu cầu trên bộ và trên không của Đức đã nhanh chóng vượt qua các nhu cầu của hải quân. Đức cho rằng chi phí đóng Graf Zeppelin quá tốn kém, trong khi còn nhiều khoản ưu tiên đầu tư khác. Việc đóng tàu Graf Zeppelin đã bị gián đoạn liên tục khi Hải quân Đức nhận lệnh tập trung chế tạo tàu ngầm U-boat.

Chiếc tàu sân bay này đã trải qua hai năm cuối cùng của nó với chuyến đi ngắn ngủi giữa các cảng Baltic. Đức đã đánh chìm con tàu này ở Stettin vào tháng 3/1945. Liên Xô sau đó trục vớt Graf Zeppelin để làm mục tiêu cho các cuộc thử nghiệm vũ khí và đánh chìm nó vào năm 1947. Graf Zeppelin được một tàu khảo sát dầu khí của Ba Lan phát hiện lại vào năm 2006.

Tàu sân bay Aquila và Sparviero

Italy cũng từng có ý tưởng đóng tàu sân bay trước Thế chiến 2, nhưng sau đó gạt bỏ ý tưởng này và tập trung vào việc đóng thiết giáp hạm, tuần dương hạm để chống lại sức mạnh của Hải quân Pháp – lực lượng mà Italy cho là mối đe dọa tức thời nhất.

Tàu sân bay Aquila. Ảnh: Wikipedia

Cuộc tấn công của Anh vào các con tàu của Italy tại Taranto tháng 11/1940 đã cho thấy tầm quan trọng của hàng không hải quân. Thủ tướng Benito Mussolini lúc đó đã yêu cầu chuyển đổi tàu viễn dương Roma thành tàu sân bay chuyên dụng vào tháng 1/1941. Thất bại thảm hại của Italy trong trận đánh ở Cape Matapan hai tháng sau lại càng khiến Mussolini nhận thức rõ về giá trị của tàu sân bay. Italy đã chính thức khởi động việc đóng tàu sân bay vào tháng 11/1941.

Aquila [có nghĩa là "Đại bàng" theo tiếng Italy] là một tàu sân bay được chuyển đổi từ tàu tàu viễn dương Roma. Con tàu dài 235m, có lượng giãn nước đầy tải là 27.000 tấn. Phi đội của nó gồm 36 máy bay tiêm kích – ném bom Reggiane 2001, được phóng bằng hệ thống máy phóng tương tự như Graf Zeppelin. Aquila được trang bị 8 khẩu pháo 135mm lưỡng dụng và 126 khẩu pháo phòng không 20mm.

Đến tháng 9/1943, việc đóng tàu Aquila đã hoàn thành gần 90% và đang trong quá trình thử nghiệm động cơ. Con tàu dự kiến được hoàn thiện vào tháng 12/1943 và sẽ triển khai vào mùa Hè năm 1944. Tuy nhiên, Aquila chưa từng được đưa vào hoạt động.

Sau khi Italy ký hiệp định đầu hàng trước quân Đồng minh vào ngày 8/9/1943, mọi công việc bị tạm dừng. Đức đã đánh chiếm thành phố cảng Genoa - nơi Italy đặt con tàu này. Lo ngại phát xít Đức có thể tiếp tục hoàn thiện Aquila hoặc dùng nó để chặn một tuyến đường thủy quan trọng, quân Đồng minh đã không kích con tàu này vào tháng 6/1944 nhưng chỉ gây ra thiệt hại nhỏ. Vào tháng 4/1945, chính phủ Italy cố gắng đánh chìm con tàu nhưng không thành. Cuối cùng, con tàu đã bị quân Đức đánh chìm tại cảng Genoa trong quá trình rút lui.

Ở thời điểm đó, Italy cũng đang thực hiện dự án đóng tàu sân bay Sparviero được hoán cải từ một tàu viễn dương khác ở Genoa. Con tàu dài khoảng 231m, lượng giãn nước khoảng 30.000 tấn và chở được khoảng 40 máy bay. Nhưng việc đóng con tàu này cũng chưa hoàn thiện.

Tàu sân bay lớn nhất Thế chiến 2

Trong khi Đức và Italy gặp nhiều khó khăn trong việc đưa tàu sân bay của 2 nước vào hoạt động thì Nhật Bản lại hoàn toàn trái ngược.

Tàu sân bay Shinano. Ảnh: Wikipedia

Ở giai đoạn đầu của Thế chiến 2, Hải quân Đế quốc Nhật Bản có 10 tàu sân bay đang hoạt động với đội ngũ thủy thủ và phi công giàu kinh nghiệm. Khả năng chế tạo tàu sân bay của Nhật Bản ở thời điểm đó được đánh giá là vượt trội so với nhiều quốc gia khác. Nhưng khi chiến tranh kéo dài, ngành công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản không thể khắc phục những tổn thất mà nước này phải chịu, đặc biệt là tổn thất về tàu sân bay, vốn cần đầu tư nhiều thời gian và nguồn lực.

Nhật Bản đã cố gắng bù đắp thiệt hại bằng cách chuyển đổi tàu chiến và tàu thương mại thành tàu sân bay, nhưng mọi việc dường như diễn ra quá muộn và hầu như không mang lại hiệu quả.

Nhật Bản bắt đầu đóng tàu Shinano – thiết giáp hạm lớp Yamato thứ 3, được cho là thiết giáp hạm lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử. Nhưng việc đóng con tàu này đã bị dừng lại vào năm 1942 khi Nhật Bản quyết định chuyển nó thành tàu sân bay. Shinano đã được đưa vào hoạt động với vai trò là tàu sân bay mới vào tháng 11/1944. Con tàu dài 265m, có lượng giãn nước 70.000 tấn. Shinano có thủy thủ đoàn hơn 2.000 người, với phi đội riêng gồm 47 máy bay và có chỗ chứa thêm hàng chục chiếc khác để tiếp tế cho các tàu sân bay khác của Nhật Bản, cho phép chúng ở lại trên biển lâu hơn.

Tối 28/11/1944, con tàu bắt đầu hành trình đi từ Yokosuka đến Kure để hoàn thành quá trình trang bị. Sau đó nó có nhiệm vụ vận chuyển 50 máy bay cảm tử [kamikaze] trang bị tên lửa Yokosuka MXY7 Ohka và các loại vũ khí khác đến Okinawa và Philippines. Tuy nhiên, vào sáng sớm ngày 29/11, Shinano đã bị trúng 4 quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm USS Archerfish. Chỉ vài giờ sau, con tàu cùng với hơn 1.400 thủy thủ đoàn đã bị chìm. IJN Shinano là một trong những chiến hạm đoản mệnh nhất thế giới khi bị đánh chìm chỉ 10 ngày sau khi hạ thủy. Nó cũng là tàu chiến lớn nhất từng bị tàu ngầm đánh chìm./.

Chủ Đề