Đình tây đằng được xây dựng vào thời nhà nào?

Đình Tây Đằng [Ba Vì] như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ XVI và là di sản văn hóa độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu hôm nay.

Đình làng Việt - văn hóa cộng đồng

Làng Việt phát triển theo tiến trình lịch sử đất nước. Mỗi làng, tùy theo nét truyền thống văn hóa, vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế - xã hội riêng mà xây dựng ngôi đình với quy mô kích thước và mức độ kỹ - mỹ thuật khác nhau, hướng phong thủy của đình cũng không giống nhau để thờ Thành Hoàng, có thể là nhân thần hoặc thiên thần hay những hình tượng dị biệt được nhân dân tôn kính. Ví dụ làng Liêu Xuyên quê tôi, tương truyền Vua thân chinh đi đánh giặc, khi chiến thuyền vào Lô Giang [con sông có đoạn hình quả bầu], gặp thế giặc mạnh đang đuổi gấp, thuyền chạy đến khúc sông gần làng, nhìn thấy một cây phù dung cổ thụ, Người liền khấn: “Nếu vận nước còn thì xin hãy phù hộ cho ta vượt qua lúc nguy khó này”. Vua vừa khấn xong, bỗng cây phù dung đổ rạp xuống, ngăn kín cả dòng sông. Giặc bất thần bị chặn đứng liền quay lui. Vua thoát hiểm trở về tổ chức lực lượng rồi đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Vua lệnh cho làng xây đình để thờ cúng vị thần phù dung đã cứu Vua giúp nước. Đình còn là nơi tổ chức lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng đồng.

Đình Đoài - kiến trúc và tâm linh

Dân ta thường lưu truyền câu “cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Ta thử tìm hiểu câu nói đó ý nghĩa ra sao mà âm vang đến thế?

Như đã biết, Nam Định - trấn Sơn Nam Hạ - là vùng đất mới, sông ngòi kênh rạch dọc ngang như mắt lưới giống vùng Đồng Tháp Mười, Nam bộ. Từ lâu nhân dân Nam Định đã biết bắc những chiếc cầu kiểu “thượng gia hạ kiều”. Trên mỗi cây cầu, người ta thường làm một mái che để bảo vệ cầu và làm nơi nghỉ cho người qua cầu lúc nắng mưa. Ngay làng Tri Lễ [Thanh Oai] quê hương các cụ nhà tôi cũng có một cây cầu như vậy. Tiếc rằng loại cầu này hiện không còn bao nhiêu nữa.

Ta lại thấy rằng, Bắc Ninh là vùng đất cổ, có nhiều chùa cổ được xây dựng lâu đời mang đậm ý nghĩa tâm linh, bản sắc văn hóa đặc biệt. Những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Dâu [thờ bà Chúa Dâu], xây dựng vào khoảng trước năm 187, vị thiền sư người Ấn đã trụ trì đầu tiên ngôi chùa này - chứng tỏ đạo Phật vào Việt Nam sớm hơn Trung Hoa khoảng trên 300 năm; chùa Tiêu Sơn, nơi Hòa thượng Lý Khánh Văn - em ruột nhà sư Lý Khánh Vạn tức Thiền sư Vạn Hạnh - đã nuôi dạy Lý Công Uẩn nên người và chính Người là đức Vua Lý Thái Tổ; chùa Phật Tích, xây dựng vào thời Lý Thánh Tông [1057], có pho tượng ngọc bích nguyên khối lớn nhất Việt Nam; chùa Giáng Long [nhân dân thường gọi là chùa Hàm Long], xây dựng thời Lê sơ giữa thế kỷ XV - Khái Hưng đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hồn bướm mơ tiên tại ngôi chùa này... Chính những ngôi chùa nổi tiếng như vậy nên người ta ca ngợi “chùa Bắc” là hoàn toàn có cơ sở.

Còn đình - cả nước có nhiều ngôi đình tiêu biểu: đình Bảng [Bắc Ninh], đình Bát Tràng [Hà Nội], đình Tiên Hường, đình Thổ Tang [Vĩnh Phúc], đình Chu Quyến [Hà Nội], đình Thổ Hà, đình Phù Lão [Bắc Giang], đình Hoàng Sơn [Nghệ An] đều được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII. Gs Trần Quốc Vượng từng khẳng định: đình cổ nhất cả nước có 5 ngôi thì Hà Nội chiếm cả 5, riêng huyện Ba Vì đã có đến 3 ngôi. Đình Chèm [Từ Liêm] trên 1.000 năm tuổi, đình Quảng Văn [Cửa Nam] xây dựng thời Lê sơ, nhưng những ngôi đình đó phải đến đời nhà Mạc mới được hoàn thiện. Ở Ba Vì, đình Tây Đằng, đình Thanh Lũng và đình Thụy Phiêu đều được xây dựng vào đầu thế kỷ XVI dưới thời nhà Mạc. Vật liệu xây dựng đình hoàn toàn bằng gỗ mít và gỗ thông đỏ.

Xứ Đoài xưa còn gọi là trấn Sơn Tây hoặc trấn Hưng Hóa. Đình Đoài mang dáng vóc kiến trúc kỳ vĩ, ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Theo cuốn Di tích lịch sử Hà Tây, thì trên địa bàn toàn tỉnh có 820 ngôi đình đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Vùng núi Ba Vì có đền thờ Đức Thánh Tản Viên Sơn, Ngài là Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Ngài dạy dân biết chế ngự thiên nhiên, đắp đê phòng lụt, gieo trồng cấy lúa phát triển sản xuất, đánh giặc ngoại xâm, là Đức Thánh Tổ của nền văn minh lúa nước. Ngài được nhân dân cả nước tôn thờ Đệ Nhất Phúc Thần. Để tỏ lòng thành kính, tri ân Đức Thánh Tản Viên Sơn, các làng ở hầu hết trong huyện Ba Vì cũng như trong vùng đất xứ Đoài xưa đều suy tôn Ngài là Thành Hoàng Làng và lập đình để thờ cúng, trong đó, đình Tây Đằng là tiêu biểu.

Bảo tàng nghệ thuật thế kỷ XVI

Đình Tây Đằng tọa lạc tại thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì [tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội] đã ngót 500 năm tuổi, được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên [1531]. Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần. Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp, hướng Nam dé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì. Đi qua cổng chính ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh khí. Tiếp đến nghi môn gồm bốn cột đồng trụ, hai cột thấp bên trên có hai nghê chầu, hai cột cao, bên trên mỗi đầu cột có bốn chim phượng uốn lượn vút lên như một bông hoa dành dành, thể hiện thế nghiêm thiêng của ngôi đình. Sau nghi môn là sân rộng, nơi tổ chức lễ hội vào dịp xuân về hoặc những ngày cúng tế. Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình. Trước đây, thềm đại đình chỉ cao khoảng 40cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã được nâng thành tam cấp cao 75cm. Sàn đình rộng 360m2, được bố cục kiểu ba gian hai dĩ với 6 hàng cột: hai cột cái, hai cột quân và hai cột con - đó cũng là nét đặc trưng của những ngôi đình cổ. Tất cả cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng bông đòng đòng và được ngồi trên chân tảng đá ong. Tất cả cột quân và cột con đều có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”. Gian chính giữa đình là sàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Sàn thờ quanh năm đóng cửa, trừ những ngày lễ hội. Nhưng đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm. Các gian hai bên còn lại được bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng. Kết cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ nơi vùng sơn cước.


Đình Tây Đằng Ảnh: Hiếu Trần

Khác biệt của đình Tây Đằng so với phần lớn các ngôi đình khác là không có ván thưng xung quanh, nhờ đó công trình trở nên thông thoáng hơn và bền vững với thời gian. Do đình thấp, người Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo, mặc dù không có quá giang: việc liên kết cột cái với cột quân là chếnh bằng, trên chếnh bằng là chồng rường tạo độ dốc cho mái, bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái; chỉ có câu đầu liên kết cột cái, tiếp đến là chếnh bằng nối cột cái với cột quân; hệ thống xà thượng giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau, cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc hơn. Bí quyết của cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở chỗ dùng mộng thắt đuôi én, ngàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột con choãi chân thang ra ngoài. Đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả sau khi đã tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, công trình hoàn toàn không suy chuyển gì, vẫn vững vàng cùng năm tháng.

Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không chi tiết nào giống nhau từ họa tiết kẻ liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong... đều có hoa văn đẹp, mỗi hoa văn một kiểu. Các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: họa tiết nông dân trồng cấy lúa của vùng đồng bằng Bắc bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải, đua thuyền của Nam bộ, chơi đàn tính tẩu của đồng bào Tày, Nùng, voi chầu của vùng Tây Nguyên, ngựa hí của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú và hàng chục nữ thần cưỡi mây bay lượn trên bầu trời, các nữ thần được bố trí trên những đầu duôi khắp bốn phía sát mái ngôi đình. Hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn và “Bà Banh” mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân xứ Chăm pa.

 Năm 2005, Bộ Văn hóa đã chủ trì việc trùng tu đình Tây Đằng. Cột gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố giữ lại nguyên bản. Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo tồn nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu bảo đảm kỹ thuật tốt, bảo đảm độ vững chãi của ngôi đình. Tiếc rằng, toàn bộ cột được thay thế chỉ giữ lại được phần thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng đã biến mất nên phần nào xa cách người xưa.

Đình Tây Đằng là sản phẩm đặc biệt độc đáo, đầy ắp di vật quý giá cả vật thể lẫn phi vật thể của ông cha để lại. Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc tài hoa, sống động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ XVI và là di sản văn hóa độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu hôm nay.

Kts Nguyễn Địch Long

Đình Tây Đằng là một ngôi đình làng ở thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, nằm cách trung tâm TP. Hà Nội khoảng 50 km về phía Tây, ngôi đình Tây Đằng xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI gồm ngôi đình tả và hữu mạc, sân đình, công trình, hồ bán nguyệt.

Toàn cảnh đình Tây Đằng.

Công trình đình Tây Đằng kiến trúc độc đáo hình chữ nhật, gồm 5 gian [3 gian chính, 2 gian chái]. Vật liệu xây dựng ban đầu hoàn toàn bằng gỗ mít, sau này trong quá trình tu bổ có dùng một số gỗ lim Trường Sơn – loại gỗ hứng nhiều nắng gió biển tạo nền thớ xoắn chắc chắn.

Đình 48 cột gỗ lớn nhỏ, 8 cột hàng ngang và 6 cột hàng dọc, cột lớn nhất đường kính tới 80 cm. Các cột này tạo bệ đỡ hệ thống mái lợp ngói có các đầu đao cong trang trí hình rồng, phượng, lân, rùa bằng đất nung. Vì kèo 4 hàng cột bằng gỗ mít – loại gỗ hằng trăm năm không bị rỗng lõi.

Đình gồm 5 gian với 6 hàng cột và 8 cột cái, 16 cột quân và 22 cột hiên.

Ở các ngôi đình khác có bưng ván hoặc xây tường xung quanh, riêng Đình Tây Đằng chỉ có hệ thống cột giàn mái, bốn phía để trống không có tường vách ngăn tạo ra không gian thoáng đãng, tràn đầy ánh sáng làm nổi bật các hoa văn độc đáo. Các chi tiết chạm khắc trên các phần gỗ theo nhiều đề tài khác nhau.

Đình Tây Đằng quay hướng Tây Nam, phía trước đình có hồ nước, cột biển. Hai bên có hai dãy tả vu, hữu vu, một nửa có hai tầng mái. Cổng đình gồm 5 cây cột. Trên đỉnh cột trang trí hình lân.

Chi tiết chạm khắc “chèo thuyền ngắm cảnh” trên vì kèo đình Tây Đằng.

Đình Tây Đằng lợp lớp ngói ta, các đầu đao đều uốn cong và gắn long, ly, quy, phượng bằng đất nung màu gắn trâu, xà, đàn, kèo, còn, đều có chạm khắc. Trong đình, hầu như không có mảng trống nào trên gỗ là không có chạm khắc trang trí. Đình Tây Đằng với những giá trị kiến trúc chạm khắc đặc sắc, độc đáo được coi như một bảo tàng nghệ thuật dân gian của thế kỷ XVI. Nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ, trang trí còn lưu lại trên các cột kèo, xà đấu, ván lọng, lá gió… Toàn bộ hơn 1.300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình Tây Đằng không hề trùng nhau một chi tiết nào và được bố trí hài hòa, không mang tính đối xứng như các chi tiết kiến trúc ở những ngôi đình khác.

Chiếc giếng đá ong cổ đường kính 3 m, sâu 8,5 m nằm bên trái đình Tây Đằng.

Nét độc đáo của đình Tây Đằng được thể hiện qua các bức chạm khắc đậm chất dân gian trên từng cấu kiện kiến trúc, đề tài về hoạt động của con người, làng xã Việt Nam thế kỷ XVI, phản ánh tư duy trí tuệ người Việt cổ về cuộc sống, lao động.

Khám thờ thần Tản Viên – Sơn Tinh được ông Trương Đanh Xước thường xuyên nhang khói.

Đình Tây Đằng thờ Tản Viên Sơn thánh [Sơn Tinh – Anh hùng theo truyền thuyết chế ngự được thiên nhiên dữ dội, được nhân dân suy tôn bậc Thánh. Hằng năm, đình Tây Đằng thu hút nhân dân trong nước và du khách quốc tế tới thăm, tìm hiểu, nghiên cứu về những giá trị lịch sử, văn hóa của ngôi đình cổ tráng trăm năm.

Đầu bảy được chạm khắc hình đầu rồng toát lên vẻ uy nghi vốn thường thấy ở đình chùa.

Đình Tây Đằng là một trong số ngôi đình cổ nhất Việt Nam với gần 500 năm tuổi. Một số hình rồng ở đình có phong cách thời Trần [1407 – 1413], các hoa văn dấu ấn thời cuối Lê Sơ [1428 – 1527].

Video liên quan

Chủ Đề