Cách viết tên khoa học của vi sinh vật
Viết tên khoa học các sinh vật như thế nào?
Hiện nay, việc viết tên khoa học các loài thực vật, động vật cũng là vấn đề cần trao đổi. Trong một số tài liệu tiếng Việt và nhất là trên diễn đàn báo chí, nhiều trường hợp đã không nhất quán cách viết.
Thật ra, cách viết cũng đã được qui định khá chặt chẽ trong các bộ luật quốc tế về gọi tên thực vật, động vật, vi sinh vật (ICBN, ICZN, ICNB). Mục đích của qui định là tránh sự nhầm lẫn cho người đọc. Theo đó:
1. Danh pháp loài cần được viết đầy đủ cả hai từ, khi cần thiết phải viết tắt, chỉ được viết tắt từ thứ nhất (tên chi), nhưng với điều kiện là trong văn bản đã nêu tên loài đó ít nhất là một lần để chữ viết tắt đó không gây nhầm lẫn với tên một chi khác, còn từ thứ hai (tính ngữ) không bao giờ viết tắt cả. Trong thực tế, nhiều tài liệu mở đầu bằng “E. coli“, người đọc đôi khi cũng hiểu đó là một trực trùng đường ruột, nhưng lắm trường hợp không rõ chữ “E.” là viết tắt tên chi nào?
2. Trong tài liệu in offset, thường nội dung văn bản được in đứng (regular). Để tránh sự nhầm lẫn giữa tên loài và tên tác giả và các từ ngữ thuộc nội dung văn bản, người ta in nghiêng tên loài, còn tên tác giả thì in đứng. Nhất là ở tên các loài động vật, các nhà phân loại học động vật thường viết nguyên tên tác giả đi kèm tên loài, chứ không viết tắt như ở danh pháp loài thực vật, nếu không có chế độ in nghiêng và in đứng rạch ròi thì rất dễ nhầm lẫn. Cũng để tránh nhầm lẫn có một số nhà động vật học đã để tên tác giả trong ngoặc đơn. Trường hợp này ý nghĩa của ngoặc đơn khác với ý nghĩa của ngoặc đơn trong danh pháp loài thực vật đã nêu ở bài viết danh pháp loài. Nếu có trường hợp đặc biệt, nội dung văn bản được in nghiêng thì tên loài phải in đứng. Hoặc ở những dòng chú thích ảnh, người ta thường in chữ nghiêng, nếu có kèm tên khoa học loài thì nó phải được in đứng. Trường hợp viết tay hay đánh máy chữ, người viết không thể thay đổi kiểu chữ, máy chữ cũng chỉ có một kiểu chữ đứng thì tên loài được gạch chân.
3. Tên tác giả trích dẫn kèm theo tên khoa học của loài thực vật được viết tắt theo nguyên tắc ngắn nhất có thể, ngoại trừ tên đó đã quá ngắn. Điều này hiện nay cũng ít được các tác giả Việt Nam quan tâm, nhất là ở các tài liệu không chuyên về phân loại học. Đôi khi, người ta cứ bê nguyên của một tài liệu nào đó vào tài liệu của mình, đến nỗi trong cùng một chương, cùng một tác giả lại được viết theo hai cách khác nhau, chẳng hạn như “L.” và “Linn.”. Đó là tên của nhà phân loại học nổi tiếng thế giới – người đã đề ra cách viết tên đôi bằng tiếng Latin cho các loài từ năm 1753 – ông C. V. Linnaeus (thường được người Việt phiên âm từ tên tiếng Pháp là Lin-nê), đã được một vài tác giả Việt Nam khi thì viết tắt “L.”, khi thì viết tắt “Linn.”, trong lúc các bộ luật quốc tế vẫn theo luật ưu tiên và viết “L.”
Như vậy, xem ra có một vài vấn đề vốn được qui tắc hóa bằng luật thì lại được một số người sử dụng một cách phi luật lệ, chẳng khác nào tình trạng vi phạm luật giao thông khó khắc phục trên đường phố các tỉnh thành Việt Nam như hiện nay.
Tên Việt Nam Cu rốc đầu vàng Golden-throated Barbet Tên Khoa Học Megalaima franklinii Tên Việt Nam Gõ kiến vàng lớn Tên Khoa Học Chrysocolaptes lucidus Tên Việt Nam Chim manh Vân Nam Tên Khoa Học Anthus hodgsoni Tên Việt Nam Phường chèo lớn (Hồng Tước) Tên Khoa Học Coracina macei Tên Việt Nam Chim Uyên Ương (Hồng Tước Nhỏ Dalat) Tên Khoa Học Campephagidae tên Việt Nam Chim Ngũ Sắc (Silver-eared Mesia) Tên Khoa Học Leiothrix argentauris Tên Việt Nam Mi lang biang Tên Khoa Học Crocias langbianis King, Tên Việt Nam Khướu mào bụng trắng Tên Khoa Học Yuhina zantholeuca Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Bạc má họng đen ( Black-throated Tit ) Tên Khoa Học Aegithalos concinnus Tên Việt Nam Bạc má bụng vàng Tên Khoa Học Parus monticolus Tên Việt Nam Bạc má rừng hay bạc má mày vàng Tên Khoa Học Sylviparus modestus Tên Việt Nam Trèo cây huyệt h
KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott, Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn, Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh, bộ Alismatales Trạch tả Mô tả: Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: + Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta var. antiquorum trồng khô. Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc: Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng: Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t
Cây hoa ngót nghẻo hay móng hổ chứa chất kịch độc khiến người trúng phải đại tiểu tiện ra máu, trụy tim mạch, suy hô hấp và tử vong. Ngót nghẻo có tên khoa học là Gloriosa superba thuộc họ hoa Bả chó (Colchicaceae) có nhiều tên gọi khác nhau như hoa Loa kèn lửa (flame lily), hoa Móng hổ (tiger claw). Ở Việt Nam, ngoài tên gọi Ngót nghẻo loài hoa này còn được biết đến với các tên như Ngoắt nghẻo, Ngọt nghẹo, Huệ lồng đèn..v.v. Cây phân bố rộng ở các vùng nhiệt đới và miền nam châu Phi, các vùng nhiệt đới châu Á. Tại Việt Nam, Ngót nghẻo sống nhiều ở miền Trung, Tây Nguyên, thường mọc hoang dã ở rừng ngập mặn ven biển và các bìa rừng núi cao. Loài hoa này có thể sống được cả những nơi đất nghèo dinh dưỡng nhất chẳng hạn như các cồn cát. Ngót nghẻo có thân cây cao tới 4 mét, hoa to sặc sỡ với 6 cánh đỏ tươi hoặc đôi khi cũng có màu cam, vàng nhạt, dài nhọn như móng hổ. Quả cây có thể dài tới 12 cm chứa các hạt màu đỏ. Tất cả các thành phần của cây Ngót nghẻo đều chứa chất độc có thể gi Nhiều người thường gặp các vấn đề khó khăn khi tiếp cận với khoa học nói chung và khoa học thực vật nói riêng. Trong một phạm vi hạn hẹp, BVN xin hỗ trợ các bạn đọc, đặc biệt là học sinh, sinh viên ở các lĩnh vực liên quan đến tên khoa học của thực vật qua bài viết dưới đây. Cách gọi tên cây
Ngành và phân ngành Lớp và phân lớp Bộ và phân bộ Họ và phân họ Tông và phân tông Chi và phân chi Tổ và phân tổ Loạt và phân loạt Loài và phân loài Thứ và phân thứ hoặc giống trồng Dạng và phân dạng
Quy tắc chung
Thuật ngữ cho các bậc phân loại từ Ngành đến Tông
Ví dụ:
Các bậc dưới chi Thuật ngữ
Quy tắc riêng về tên cây Viết tên cây
Ví dụ: Plantagor major, Alisma plantago-aquatica.
Ví dụ: Setaria palmifolia var. rubra; Agapanthus inapertus ssp. pendulus Tên tác giả
Ví dụ: L. (chỉ Carl Linnaeus); DC. (chỉ De Candolle); Guill. (chỉ Guillemin); Guillaum. (chỉ Guillaumin)
Ví dụ: Rauvolfia chaudocensis Pierre ex Pitard, loài này cùng được Pierre và Pitard cùng công bố (ex: cùng) hợp pháp độc lập. Calanthe argenteo-striata C. Z. Tang et S. J. Cheng, Loài này được C. Z. Tang và S. J. Cheng cùng công bố trong một bài báo (et: và) hợp pháp
Ví dụ: cây Nhọc trái khớp, trước đây Diels đặt tên là Polyalthia plagioneura Diels, sau này Nguyễn Tiến Bân chuyển sang chi Enicosanthellum nên tên loài hiện tại viết là Enicosanthellum plagioneura (Diels) Ban Tên đồng nghĩa và luật ưu tiên
Ví dụ: Neptunia oleracea Lour. do Lourerio đặt ra năm 1790, sau đó, Willdenow căn cứ vào một mẫu lộn xộn Mimosa natans L.f. để đặt tên loài này thành một loài khác là Desmanthus natans (L.f.) Willd. vào năm1825. Vậy ta phải viết Neptunia oleracea Lour. (Desmanthus natans (L.f.) Willd.) |