Bản chất nhà nước chiếm hữu nô lệ

Nhà nước hiện đại được hình thành trải qua quá trình lịch sử dài, trong đó có nhà nước chủ nô. Mời quý độc giả cùng ACC tìm hiểu Nhà nước chủ nô là gì thông qua bài viết dưới đây.

Chủ nô là người sở hữu hoặc chiếm hữu nô lệ bị bắt có quyền thừa kế để tiếp tục sở hữu nô lệ và có thể mua, bán, nợ hoặc chuyển nhượng nô lệ. Ở Hy Lạp cổ đại, La Mã và những nơi khác, CN có hàng trăm hoặc hàng nghìn nô lệ làm nghề thủ công, khai thác mỏ, vận tải, buôn bán và các trại [latifundia]. Chế độ nô lệ vẫn tồn tại ở một số nơi trong thời hiện đại. Đặc biệt là ở Hoa Kỳ [đến năm 1865] và Braxin [đến năm 1888], nhiều CN vẫn sử dụng lao động nô lệ trên các đồn điền chuyên môn hóa.

Xem thêm: Kiểu nhà nước là gì?

Cơ sở kinh tế và tài chính của nhà nước nô lệ là quan hệ sản xuất nô lệ. Mối quan hệ này dựa trên quyền sở hữu của chủ nô không chỉ đối với tư liệu sản xuất mà còn đối với người lao động, tức là nô lệ. Ruộng đất và tư liệu sản xuất phần lớn thuộc sở hữu của chủ nô, giai cấp nô lệ chiếm phần lớn trong xã hội, là lực lượng tạo ra phần lớn của cải vật chất nhưng không có tư liệu sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào chủ nô. Nô lệ cũng được coi là tư liệu sản xuất của giai cấp chủ nô. Kết quả là, nô lệ bị bóc lột tàn bạo và vô số. Tình hình đó khiến xích mích giữa hai giai cấp ngày càng nóng bỏng, không thể hòa giải. Đấu tranh giai cấp diễn ra gay gắt, nhà nước chủ nô là sản phẩm mẫu mực của cuộc đấu tranh đó, chính những điều kiện kinh tế – xã hội đi kèm đã quyết định hành động thực chất của nhà nước chủ nô. Về cơ bản, nhà nước chủ nô biểu hiện tính giai cấp và tính xã hội ở tất cả các kiểu nhà nước.

 Tính giai cấp

+Trong xã hội nô lệ có hai giai cấp cơ bản, đó là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó còn có các dân tộc

+Ở các nhà nước phương Tây, tính chất giai cấp được thể hiện rất sâu sắc và mâu thuẫn. nô lệ đã rất rõ ràng. Bởi vì ở nhà nước này, nô lệ chiếm một bộ phận lớn dân cư của xã hội và có địa vị xã hội vô cùng tồi tệ. Họ đã được coi là tài sản thuộc về chủ sở hữu nô lệ. Chủ nô lệ có quyền tuyệt đối đối với nô lệ của họ, chẳng hạn như bóc lột sức lao động của họ, bán họ, hoặc thậm chí giết họ. Nô lệ đã trở thành hàng hóa và thậm chí còn có một khu vực buôn bán nô lệ, nơi nô lệ được bán làm vật nuôi. Nguồn gốc của chế độ nô lệ ở bang này chủ yếu là từ các cuộc chiến tranh. Vì vậy, các cuộc đấu tranh giai cấp thường xảy ra với mức độ ngày càng gay gắt.

+Ngược lại, ở Nhà nước phương Đông, do nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chính mà là công xã nông thôn, nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ ở nhà nước đó không sâu sắc như ở Nhà nước phương Tây.

+Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến trong thời kỳ giải thể của hệ thống công xã nguyên thủy và chuyển sang xã hội có giai cấp. Công xã nông thôn định kỳ được chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước.

+Hơn nữa, chế độ nô lệ ở Nhà nước phương Đông không thua kém gì ở Nhà nước phương Tây. Nô lệ chủ yếu làm công việc gia đình trong gia đình chủ nô. Họ vẫn có quyền lập gia đình, thậm chí được coi như một thành viên trong gia đình. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp sở hữu nô lệ và giai cấp chủ nô vì thế không sâu sắc như ở phương Tây.

– Tính xã hội

+Nhà nước chủ nô ra đời để quản lý xã hội, thay thế chế độ cộng sản nguyên thủy không còn khả năng quản lý xã hội.

+Nhà nước chủ nô tiến hành một số hoạt động vì sự tồn tại và phát triển chung của toàn xã hội như tổ chức quản lý kinh tế quy mô lớn, quản lý ruộng đất, khai hoang, v.v. chất lượng cuộc sống.

+So với bang phía Tây, bang phía Đông thể hiện tính xã hội nhiều hơn. Ở Nhà nước phương Đông, do nhu cầu của cả cộng đồng xã hội, nhân dân tổ chức quản lý nước, chống ngoại xâm, quản lý đất đai và các hoạt động xã hội khác nhằm duy trì cuộc sống chung của cộng đồng.

+Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, yếu tố tư hữu dần được hình thành, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội ngày càng gay gắt, khi đó nhà nước mất dần ý nghĩa ban đầu.

Tóm lại, sự ra đời và lớn mạnh của nhà nước chủ nô là một bước tiến dài trong lịch sử các dân tộc trên trái đất, tạo tiền đề cho sự lớn mạnh về kinh tế, tài chính và văn hoá của các xã hội truyền thống.

Nhà nước chiếm hữu nô lệ bao gồm các công dụng bên trong và bên ngoài chủ yếu sau:

– Chức năng củng cố và bảo vệ chế độ tài sản

Đây là chức năng thể hiện bản chất của nhà nước chủ nô. Vì giai cấp chiếm hữu nô lệ có quyền sở hữu tuyệt đối về tư liệu sản xuất và sức sản xuất của nô lệ.
Ngoài ra, Nhà nước chiếm hữu chủ nô còn đưa ra nhiều biện pháp trừng trị nghiêm khắc những hành vi xâm phạm tài sản của chủ nô.

– Chức năng quân sự đàn áp chống lại sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp lao động khác

Xuất phát từ mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp chủ nô và giai cấp chủ nô mà nhà nước chủ nô đã triển khai các cuộc đàn áp dã man bằng quân sự đối với các cuộc nổi dậy, phản kháng của nô lệ và công nhân.

– Chức năng đàn áp tư tưởng

Ngoài việc áp bức nô lệ thông qua các giải pháp quân sự chiến lược, giai cấp nô lệ còn sử dụng đàn áp hệ tư tưởng. Nói cách khác, giai cấp sở hữu nô lệ đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của giai cấp chủ nô và sử dụng tôn giáo cho các mục đích áp bức. Thông qua nhà nước, giai cấp sở hữu nô lệ đã xây dựng hệ tư tưởng tôn giáo của riêng mình nhằm duy trì sự thống trị về mặt tư tưởng và duy trì sự bất bình đẳng trong xã hội đối với sự áp bức và bóc lột.

– Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược

Sự tồn vong của nhà nước chủ nô gắn liền với chính sách nô lệ. Nhà nước chủ nô, phần lớn, không giới hạn số lượng nô lệ sở hữu của mỗi chủ nô. Kể từ đó, để tăng số lượng nô lệ trong vương quốc của mình, chiến tranh là một trong những phương tiện vận chuyển mà hầu hết các quốc gia nô lệ sử dụng cho mục đích thôn tính và cướp bóc, kéo dài đến chủ quyền lãnh thổ của mình. Nhưng chiến tranh cũng dẫn đến xích mích giữa chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, quan hệ giữa các bang vẫn trong tình trạng căng thẳng.

– Chức năng bảo vệ Tổ quốc

Cùng với chức năng xâm lược, nhà nước chủ nô còn chú trọng đến công tác bảo vệ Tổ quốc với mục đích chống ngoại xâm. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nhà nước chủ nô đã triển khai cách sử dụng này bằng cách tổ chức triển khai lực lượng quân đội, xây dựng thành trì, pháo đài thần công, v.v.

– Khi nhà nước chủ nô mới ra đời, bộ máy nhà nước vẫn kế thừa, in đậm dấu ấn cách mạng của hệ thống chuyên quyền thị tộc. Việc tổ chức và triển khai bộ máy nhà nước còn mang tính tự phát, người của bộ máy nhà nước thường đảm nhận mọi công việc.

Cùng với sự lớn mạnh của nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước ngày càng trở nên phổ biến. tổ chức thực hiện có nề nếp, chuyên nghiệp hơn. Nhà nước được chia thành các đơn vị chức năng, hành chính, lãnh thổ và tổ chức triển khai máy móc theo cấp, tạo thành mạng lưới các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

– Đối với nhà nước ở phương Tây, tổ chức nhà nước khá hoàn chỉnh, bộ máy nhà nước đã được phân chia thành các cơ quan nhà nước có tổ chức và hoạt động dân chủ. Điểm nổi bật của nhà nước phương Tây là sự phân chia rạch ròi giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ như nhà nước Athen, nhà nước La Mã và nhà nước Spartan.

– Đối với Nhà nước phương Đông, bộ máy tổ chức đơn giản hơn so với Nhà nước phương Tây. Vua có toàn quyền thực hiện quyền lực nhà nước. Các quan lại từ trung ương đến địa phương đều là những người phục vụ vua và giúp vua. Ai Cập, Lưỡng Hà và Ấn Độ là những điển hình của các Quốc gia phương Đông.

Dù là quốc gia đông hay tây, trong bộ máy của các quốc gia nô lệ, quân đội, cảnh sát và hệ thống tư pháp là lực lượng chính.

– Quân đội được xây dựng nhằm mục đích chinh phục và bảo vệ chủ quyền. Các chỉ huy quân sự nhận được danh hiệu và đặc quyền. Vai trò của quân đội ngày càng trở nên quan trọng khi các cuộc đấu tranh của giai cấp chiếm hữu nô lệ ngày càng lớn và chiến tranh giữa các quốc gia trở nên thường xuyên hơn.

– Cảnh sát được thành lập để duy trì trật tự xã hội của những người nô lệ trong nước.

– Tòa án của mỗi quốc gia nô lệ có những đặc điểm riêng. Các quốc gia phương Tây đã thiết lập một hệ thống quyền lực tư pháp và hành chính, hoặc một hệ thống chuyên biệt xét xử bởi các thẩm phán được bầu chọn định kỳ. Ở nhà nước phía đông, quyền tư pháp tối cao nằm trong tay nhà vua, và quyền lực này được giao cho một tổ chức chịu trách nhiệm trực tiếp với nhà vua.

Trên đây là bài viết cung cấp thông tin về Nhà nước chủ nô là gì mà ACC muốn gửi gắm tới các bạn. Hy vọng bài viết sẽ hữu ích với quý bạn đọc. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý khách hàng còn thắc mắc hay quan tâm và có nhu cầu được tư vấn về vấn đề trên, vui lòng liên hệ với ACC nhé!

Nhà nước chủ nô là gì? Bản chất của nhà nước chủ nô? Chức năng của nhà nước chủ nô? Các hình thức của nhà nước chủ nô?

Chế độ nô lệ được thiết lập như một thể chế hợp pháp ở mỗi trong số Mười ba thuộc địa, bắt đầu từ năm 1619 trở đi với sự xuất hiện của những người Phi nô lệ “hai mươi và lẻ” ở Virginia. Mặc dù các dân tộc bản địa cũng bị bán làm nô lệ, nhưng phần lớn dân số bị làm nô lệ bao gồm người châu Phi được đưa đến châu Mỹ qua con đường buôn bán nô lệ Đại Tây Dương. Do tỷ lệ mắc các bệnh nhiệt đới thấp hơn và được điều trị tốt hơn, dân số nô lệ ở các thuộc địa có tuổi thọ cao hơn ở Tây Ấn và Nam Mỹ, dẫn đến sự gia tăng dân số nhanh chóng trong những thập kỷ trước Cách mạng Hoa Kỳ.

Các phong trào chính trị và xã hội có tổ chức nhằm chấm dứt chế độ nô lệ bắt đầu vào giữa thế kỷ 18. Tình cảm của Cách mạng Mỹ và lời hứa về sự bình đẳng được gợi lên trong Tuyên ngôn Độc lập trái ngược với tình trạng của hầu hết người da đen, dù là tự do hoặc bị nô lệ, trong các thuộc địa. Vậy Nhà nước chủ nô là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức của Nhà nước chủ nô được nhận định ra sao?

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Nhà nước chủ nô là gì?

Nhà nước Ai Cập cổ đại được nhận định là Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên.

Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng hoá mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường.

Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội.

Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten [Hy Lạp] còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Một nhà nước chủ nô là một nhà nước mà chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ nội địa hoặc trong nước là hợp pháp, trong khi một nhà nước tự do là một nhà nước mà họ không hợp pháp. Trong khoảng thời gian từ năm 1812 đến năm 1850, các quốc gia chủ nô được coi là bắt buộc về mặt chính trị rằng số lượng các bang tự do không được vượt quá số lượng các bang nô lệ, vì vậy các bang mới được chấp nhận theo các cặp không có nô lệ. Tuy nhiên, có một số nô lệ ở hầu hết các nước tự do cho đến thời điểm điều tra dân số năm 1840, và Đạo luật Nô lệ chạy trốn năm 1850 đã quy định cụ thể rằng nô lệ không trở nên tự do bằng cách vào một quốc gia tự do.

Mặc dù người Mỹ bản địa có chế độ chủ nô quy mô nhỏ, chế độ chủ nô ở nơi sẽ trở thành Hoa Kỳ đã được thiết lập như một phần của quá trình thuộc địa hóa châu Âu. Đến thế kỷ 18, chế độ chủ nô là hợp pháp trên toàn bộ 13 thuộc địa, sau đó các thuộc địa nổi dậy bắt đầu bãi bỏ tập tục này. Pennsylvania đã bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1780, và khoảng một nửa số bang bãi bỏ chế độ nô lệ vào cuối Chiến tranh Cách mạng hoặc trong những thập kỷ đầu tiên của đất nước mới, mặc dù điều này thường không có nghĩa là những nô lệ hiện có được tự do. Mặc dù không phải là một trong Mười ba Thuộc địa, Vermont tuyên bố độc lập khỏi Anh vào năm 1777 và đồng thời hạn chế chế độ nô lệ, trước khi được công nhận là một bang vào năm 1791.

2. Bản chất của nhà nước chủ nô:

Nhà nước chủ nô cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội:

– Thứ nhất, trong nhà nước chủ nô thì tính giai cấp trong nhà nước chủ nô được xác định là công cụ bạo lực để duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối lưu lệ và các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô với nô lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác.

+ Chế độ nô lệ phương tây cổ điển hay còn gọi là chế độ nô lệ Hy – La Được đặc trưng bởi tính điển hình của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Nô lệ được xác định là chiếm một số lượng đông đảo trong xã hội khi ở trong loại hình nhà nước chủ nô này. Và nô lệ được biets đến là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội mà thực chất là cho chủ nô. Sự bóc lột của chủ nô đối với nô lệ là phổ biến và điển hình.

+ Chế độ nô lệ phương Đông cổ đại hay còn được nhắc đến đó chính là chế độ nô lệ gia trưởng ở trong thời kỳ này là loại hình xã hội còn duy trì nhiều tàn dư của chế độ công xã thị tộc.

-Thứ hai, trong nhà nước chủ nô thì tính xã hội ở các nhà nước chủ nô khác nhau và ở các mức độ khác nhau đã tiến hành những hoạt động mang tính xã hội như: hoạt động làm thuỷ lợi ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Đông

3. Chức năng của nhà nước chủ nô:

Chức năng của nhà nước chủ nô bao gồm chức năng đối nội và đối ngoại.

– Các chức năng đối nội cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:

+ Một là, không thể nào có thể bỏ qua được chức năng củng cố và bảo vệ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ là một trong những chức năng đặc trưng, cơ bản nhất của nhà nước chủ nô, thể hiện rõ nét bản chất giai cấp của nhà nước chủ nô.

+ Hai là, chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác không chỉ giai cấp nô lệ chịu sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của giai cấp chủ nô mà các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng chịu sự áp bức và bóc lột không kém phần tàn bạo từ phía giai cấp chủ nô.

+ Ba là, chức năng đàn áp về mặt tư tưởng các nhà nước chủ nô đều sử dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu cho sự nô dịch về mặt tư tư tưởng. Bên cạnh việc sử dụng bạo lực quân sự để đàn áp giai cấp nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nhà nước chủ nô còn thực hiện sự nô dịch về mặt tư tưởng đối với nô lệ và nhân dân lao động.

– Các chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:

+ Một là, chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược là một trong những chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô. Điều kiện cho sự tồn tại của nhà nước chủ nô gắn liền với chế độ nô lệ, vì thế các nhà nước chủ nô hết sức coi trọng hoạt động tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ và tăng cường số nô lệ của quốc gia. Chế độ nô lệ càng phát triển thì chiến tranh càng tàn khốc.

+ Hai là, chức năng phòng thủ chống xâm lược, nhà nước chủ nô trong một chừng mực nhất định ngoài các chức năng đã nêu ở trên , tuỳ vào thời điểm cụ thể đã tiến hành những công việc chung bắt nguồn từ sự tồn tại của xã hội như: xây dựng các công trình công cộng, đường sá, tổ chức đắp đê chống lụt…,

4. Các hình thức của nhà nước chủ nô:

– Hình thức chính thể nhà nước chủ nô

Mặc dù các nhà nước chủ nô đều có những chức năng cơ bản giống nhau, nhưng do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là khác nhau nên trong nhà nước chủ nô có nhiều hình thức chính thể khác nhau. Lịch sử phát triển của nhà nước chủ nô gắn với các hình thức chính thể: quân chủ, cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc.

+ Chính thể quân chủ chuyên chế phổ biến trọng các nhà nước phương đông cổ đại.

+ Chính thể cộng hoà dân chủ tồn tại ở nhà nước chủ nô Aten vào thế kỷ thứ V – IV trước công nguyên.

+ Chính thể cộng hoà quý tộc chủ nô tồn tại ở nhà nước Spác và La Mã.

– Hình thức cấu trúc nhà nước chủ nô

Tất cả các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc nhà nước đơn nhất.

– Về chế độ chính trị của nhà nước chủ nô

Ở các nước phương Đông chủ yếu tồn tại chế độ độc tài chuyên chế. Ở các nước phương Tây, chế độ chính trị đã mang tính dân chủ, tuy nhiên về bản chất đó chỉ là chế độ dân chủ chủ nô. Về cơ bản, nền dân chủ được thiết lập ở những quốc gia này vẫn là chế độ quân phiệt, độc tài với đại đa số nhân dân lao động.

Video liên quan

Chủ Đề