Quan điểm của các nhà xã hội học như a Comte E Durkheim H Spencer thuộc trường phái lý thuyết nào

LỜI NGƯỜI DỊCH. . . . .

Khái niệm Sociology – xã hội học- chỉ ổn định vào thế kỷ 19, được hệ thống hoàn chỉnh thành một môn học hay một bộ phận kiến thức tương đối gần đây. Vào năm 1838, Auguste Comte [1798-1857], nhà toán học và triết gia Pháp, đã nhào nặn ra thuật ngữ ‘sociology’ mô tả ra sự quan sát của ông về những khám phá quy luật xã hội dựa trên phương pháp khảo sát cứ liệu thực tế mà các ngành khoa học tự nhiên từng áp dựng thành công. Người ta có thể truy nguyên khái niệm xã hội học bấc tư tưởng xã hội trong Republic của Plato [428?-347 BC], và thuật ngữ xã hội học mang vết tích thuật ngữ xã hội [sociology] từ những tác phẩm của Thomas Hobbes [1588-1679] và John Locke [1632-1704], hai nhà lý luận chính trị-triết gia Anh. Thomas Hobbes dùng thuật ngữ xã hội trong ‘Leviathan’ viết ở gia đoạn nước Anh đang rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện vì cuộc Cách mạnh Anh hay Cách mạng Thanh giáo [Puritan Revolution] kéo dài từ 1640-1660. Đặc biệt, John Locke đã nhấn mạnh thuật ngữ xã hội và xã hội dân sự [civil society] trong tác phẩm ‘Treaties on Government’, qua đó, lý giài chủ quyền nhà nước thuộc xã hội dân sự, vua hay giới cầm quyền do dân đề cử phải bỏ thái độ tư lợi, vị kỷ khi lãnh trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người dân, và phê phán lý luận Thomas Hobbes về bản chất nhà nước dưới quyền quân vương tối thượng. ...

Bất đồng quan điểm chính trị, nhưng ‘Essay Concerning Human Understanding’ của John Locke - một tác phẩm nổi tiếng đặt nền tảng xây dựng chủ nghĩa kinh nghiệm [experientialism], cho rằng kiến thức tích luỹ nhờ kinh nghiệm - lại gặp gỡ Thomas Hobbes trong việc chủ trương tách rời quốc vụ ra khỏi tôn giáo, không tin thượng đế hay thần linh ưu việt.. Nối tiếp Francis Bacon [1561-1626] ở Anh, René Descartes [1596-1650] ở Pháp, họ ủng hộ những nghiên cứu mở khóa quy luật tự nhiên, đứng chung mặt trận giải phóng tư tưởng khỏi quyền lực Công Giáo La Mã đang cố kết cùng các chính quyền phong kiến Âu Châu kìm hãm các tiến bộ khoa học hậu kỳ Phục Hưng [The Renaissance], thúc đẩy hứng khởi phong trào Ánh Sáng [The Enlightenment] lan rộng với sự xuất hiện hang loạt những nhà khoa học kiêm triét gia danh tiếng: Sir Isaac Newton [1642-1727] ở Anh, Benedict Spinoza [1632-1677] ở Hà Lan, Montesquieu [1689-1755], Voltaire [1694-1778, Jean Jacques Rousseau [1712-1778], Denis Diderot [1713-1784] ở Pháp, David Hume [1711-1776] ở Scotland, Gottfried Wilhelm Leibniz [1646-1716], Christian von Wolff [1679-1754], Immanuel Kant [1724-1804] ở Đức, Giambattista Vico [1668-1744], Cesare Bonesana Beccaria [1738-94] ở Ý, Thomas Jefferson [1743-1826] ở Mỹ… Để yên quan điểm triết học dị đồng giữa họ, điểm nổi bật đáng chú ý là giới trí thức lên tiếng đấu tranh giành quyền tự do tư tưởng, chia sẽ quan điểm tự do nghiên cứu, tìm kiếm phương pháp nhận thức theo khoa học, đề cao nhân bản, cổ vũ mọi người ‘Hãy dám biết! Hãy tự tin sức mạnh lý trí của chính mình!” [Sapere Aude! Have the courage to use your own intelligence]. Những đổi thay văn hoá, biến động chính trị, kinh tế thời kỳ này tác động sâu sắc đến xã hội Âu Mỹ đã làm tiền đề thuận lợi cho Auguste Comte và các nhà tư tưởng thế kỷ 19-20. Lớn lên trong cuộc cách mạng Pháp [1789-1799], Auguste Comte tích cực hưởng ứng các trào lưu cách mạng khoa học, công nghiệp, chính trị, ông quan tâm nhiều đến hình thái tổ chức chính trị, đạo đức tôn giáo, tái lập trật tự xã hội. Nếu như Sir Isaac Newton quan sát các hiện tượng tự nhiên kết hợp việc áp dụng chặt chẽ các pháp nghiên cứu, bao gồm phương pháp suy diễn [deductive method], phân tích [analysis], thực nghiệm [experimental], để thành lập thuyết cơ học nhiên thể [celestial machines], giới thiệu luật hấp dẫn và chuyển đông [Laws og Gravitation and Motion], một thành quả khoe học có tính kế thừa thuyết nhật tâm [the Theory of the Heliocentric or Sun-Centerred] của Nicolaus Copernicus [1473-1543] lẫn định luật Kepler hay luật hành tinh chuyển động [Laws of Planetary Motion] của Johnannes Kepler [1571-1630], thì Auguste Comte chủ trọng quan sát sự tiến bộ của những khoe học liên ngành khác nhau dẫn đến sự khám phá luật tam cấp [Law of Three Stages] chi phối tiến trình phát triển xã hội loài người. Trong tác phẩm Course of Positive Philosophy [1830-1842], ông phân tích rằng xã hội loài người trải qua ba cấp độ phản ảnh trong mỗi ngành khoa học hay trí thức:1. Cấp độ thần học hay hư cấu [the theological or fictitious state] quy thuận ý trời, thiên mệnh, tất cả tùy thuộc ước muốn thần linh, Thượng Đế, đấng Sáng Tạo.v.v.2. Cấp độ siêu hình hay trừu tượng [the metaphysical or abstract state] gắn liền các phạm trù triết học. 3. Cấp độ mang tính khoa học hay xác thực [the scientific or positive state] cần sự kiểm chứng nguyên do.Quy luật tam cấp chịu ảnh hưởng cách phân chia xã hội loài người trong thuyết lịch sử tuần hoàn [cyclical theory of history] do Giambattista Vico suy luận khi viết ‘Scienza Nuova’. Theo Giambattista Vico, xã hội loài người trải qua ba gian đoạn từ tình trạng dã man đến văn minh, rồi trở lại tình trạng dã mang: [1] Thời đại thần linh [the Ages of Gods], giai đoạn khởi lên tôn giái, gia đình… [2] Thời đại hiệp sĩ [the Ages of Heroes], giai đoạn tầng lớp quý tộc chiếm mọi ưu thế, quyền lợi [3] Thời đại con người [the Ages of Men], giai đoạn dân chúng đấu tranh và đạt bình đảng, dần dần xã hội loài người bắt đầu phân rã, thoái hóa. Vico không để lý trí nô dịch tác quyền tôn giáo nên trả lời độc lập về lịch sử xã hội loài người, nhận định dưới ngòi bút sử gia và mang tính tiên liệu sự việc, nhưng những thuật ngữ ông mắc vào từng gian đoạn chưa đủ sức chuyển tải nội dung ông muốn đề cập. Dù vậy, khái niệm lịch sử tuần hoàn [cyclical history] giải thích được tình trạng thịch suy của các nền văn minh trên thế giới, riêng cách phân chia lịch sử xã hội loài người thành ba giai đoạn gợi ý cho Auguste Comte rút ra quy luật tam cấp có tính khái quát cao, đồng thời nhấn mạnh giải pháp giải quyết các vấn đề xã hội. Auguste Comte tin rằng mỗi cấp độ đều tương quan với diễn biến chính trị được phản ảnh qua các khái niệm như quyền thiên vương, thiên tử [the divine right of kinh], hiệp ước xã hội [social contract], con người bình đẳng [equality of persons].v.v., trên hết, sự tiếp cận xã hội học hay phương pháp giải quyết mang tính khoa học [a scientific or sociological approach] là chìa khóa giúp tổ chức chính trị xây dựng một xã hội dân chủ bền vững. Ở điển này, Comte đồng hóa phương pháp giải quyết các vấn đề xã hội với phương pháp mang tính khoa học, không căn bản trên sự ức đoán [metaphysical speculation], mà phải căn cứ trên tri thức xác chứng cứ liệu thực [positive anf factual knowledge], sử dụng các phương pháp khoa học giải quyết vấn đề con người, cải tạo điều kiện xã hội; những lý luận nhấn mạnh cấp độ khoa học hay xác thực của ông trở thảnh nền tảng xây dựng chủ nghĩa thực chứng [positivism]. Cấp độ xác thực cũng được Comte lồng vào đạo đức tôn giáo, xem phương pháp giải quyết các vấn đề cã hội hay phương pháp manh tính khoa học là giá trị đạo đức tối cần mang lợi ích cho xã hội loài người, tạo sự ổn định xã hội, đó là giá trị đạo đức của tôn giáo thờ phụng con người. Phương pháp giải quyết mang tính khoa học có thể áp dụng với mọi khiá cạch của xã hội khác nhau, bằng cách quan sát các hiện tượng trong đời sống xã hội loài người và thành lập lỳ thuyết về những gì đã được quan sát, sau đó, dùng phương pháp khoa học kiểm chứng lý thuyết đến mức nhận thức xác thực vấn đề và kết luận không còn gì bàn cãi them [indisputable conclusion]. Phạm vi nghiên cứu xã hội bao quát và liên hệ nhiều lãnh vực, do vậy, Comte đã đặc hệ thống kiến thức xã hội học [science of sociology] lên vị trí hang đàu trong các ngành khoa học, choàng phủ khoa học xã hội [social science], khoa học nhân văn [human sciences or science of humanities], khoa học tự nhiên [physical science]. Về sau, khoảng hậu bán thế kỷ 19, nhà xã hội học Pháp Mile Durkheim [1858-1917] tiếp thu những tư tưởng xã hội học của Comte và nhiều người khác để giảng dạy tại đại học Bordeaux và Paris.Sống cùng thời Comte, những triết gia tên tuổi như Claude Henri de Rouvroy Clérel de Tocqueville [1805-1859] ở Pháp, Karl Max [1818-1883], Friedrich Engels [1820-1895] ở Đức, John Stuart Mill [1806-1873], Herbert Spencer [1820-1903] ở Anh v.v. đã tích cực đề xuất những học thuyết xã hội. Saint-Simon trong tác phẩm Industrial System cho rằng sự công nghiệp hóa [industrialization] sẽ cải thiện toàn bộ xã hội, ngoại trừ nghèo đói lẫn nguy cơ chiến tranh với điều kiện là tổ chức xã hội ohải chuyển giao cho giới khoa học và các kỹ thuật viên. Đơn giản để hiểu tại sao trí thức Tây Âu ủng hộ thuyết Saint-Simonism, vì nó hình thành trên cơ sở ông từng trực tiếp tham gia cuộc cách mạng Mỹ và nhìn thấy những thành tựu công nghiệp vượt bậc ở quốc gia non trẻ này dưới kỳ tổng thống Thomas Jefferson [1743-1826], cũng là một nhà khoa học, triết gia lừng danh. Saint-Simonism trở thành nền tảng xây dựng chủ nghĩa xã hội [socialism] ảnh hưởng đến nhiều nhà tư tưởng Pháp thế hệ Comte, Émile Durkheim, và các nhà tư tưởng Đức là Karl Max, Friedrich Engels, Max Weber…Có thể quy học thuyết xã hội đề cao sự công nghiệp hóa vào thuyết đơn tử [single-factor theory] - nhấn mạnh yếu tố duy nhất làm thay đổi trật tự xã hội – như Karl Marx, Friedrich Engels nhấn mạnh các mối quan hệ kinh tết là yếu tố quyết định mọi chuyển biến xã hội, tuy nhiên, tư tưởng xã hội của hai ông hướng chủ nghĩa xã hội sang ngã rẽ khác. Bước ngoặc quan trọng là năm 1848, Marx với sự cộng tác của Friedrich Engels đã công bố The Communist Manifesto [Tuyên Ngôn Cộng Sản], nội dung nhấn mạnh yếu tố kinh tế quyết định những hình thái xã hội và quá trình tiến hóa của tất cả xã hội đang tồn tại qua đấu tranh giai cấp, sự đấu tranh giữa kẻ bị áp ức; nó làm cơ sở cho ý thức hệ của Đảng Xã Hội Bolshevik, tiền thân Đảng Cộng Sản, phát động phong trào cách mạng do Lenin [1870-1924] lãnh đạo trước và sau thế chiến I, trở thành dòng tư tưởng xã hội chính thống trong lĩnh vực học thuật, nghiên cứu xã hội học tại Nga, các quốc gia Cộng Sản.Trong khi đó, ở Anh, trìết gia Herbert Spencer [1820-1903] lần lược công bố hai tác phẩm Social Statics [1850] và Principles of Psychology [1855] để xuất thuyết tiến hóa xã hội dựa trên quy luật sinh tồn hay ‘khôn nhờ dại chịu’ [the survival of the fittest], ông giải thích xã hội loài người phát triển dần dần từ hình thái thấp đến cao hơn, những hình thái thích nghi được trong môi trường cụ thể nhất định sẽ chiếm ưu thế và tồn tại lâu dài. Quá trình tiến hóa cã hội không tách rời tính cạnh tranh sinh tồi giữa các nhóm xã hội, chính sự cạnh tranh đánh lùi những yếu kém xã hội, làm giảm thiểu nghèo đói, thúc đẩy kinh tế thịnh vượng và sự tư do cá nhân. Thoạt đầu, quan điểm xã hội của Herbert Spencer phản ánh sự quan sát và tư biện về lịch sử loài người; cho đến năm 1858, dòng tư tưởng này liên kết với thuyết tiến hóa bên ngành sinh vật, khi nhà tự nhiên học Charles Robert Darwin [1809-1882] xuất bản công trình nghiên cứu sinh vật on the Origin pf Species [hay the Preservation of Favored Races in the Struggle for Life]. Trong lúc tập trung phân tích nguồn gốc thực vật và động vật, Darwin hiện minh rằng hình thái sinh vật đa dạng đang tồn tại là kết qủa của các tế bào, sắc tố cạnh tranh sinh tồn, chúng lay tạo hoặc loại trừ lẫn nhau một cách tự nhiên, đồng thởi hợp thể những tế bào, sắc tố khả năng thích nghi với điều kiện sống đử sức nhân giống thành số đông. Tương tợ, loài người cũng cùng điểm xuất phàt như những loài động vật cấp thấp, gần nhất, bước tiến thành người hiện đại mang ấm tích vượn người, một kết luận gây ra nhiều tranh luận. Ông xem sự chuyển hoá trong thế giới hữu cơ là một hoá trình sàng lọc tự nhiên [natural selection], không do Đấng Sáng Tạo, không cần nhân tạo, và công khai tiếp nhận nguyên lý ‘khôn nhờ dại chịu’ của Herbert Spencer như một thành ngữ diễn đạt tương đối chuẩn thuyết thiên nhiên sàng lọc [theory of natural selection] kèm theo quy ước nhân cách hóa tính năng cạnh tranh giữa các loài vô tri giác. Cả hai càng tỏ ra tương đắc tư tưởng khi Darwin đem thuyết thiên nhiên sàng lọc hay khôn nhờ dại chịu vào tác phẩm The Decent of Man [1871] truy nguyên nguồn gốc loài người, giải thích sự tiến hóa xã hội giống như sự tiến hóa sinh vật, còn Herbert Spencer viết Principles of Biology [1864-1867], The Man versus the State [1884], ủng hộ những khám phá Darwin và tiếp tục củng cố thuyết tiến hóa xã hội qua các tác phẩm A System of Synthetic Philosophy [1860], Principles of Sociology [1867-1896]… Sự kết hợp thuyết tiến hóa xã hội và thuyết tiến hóa sinh vật thường được biết dưới tên Darwin, như học thuyết Darwin hoặc thuyết xã hội của Darwon [Social Darwinism], do tầm vóc quốc tế của công trình nghiên cứu sinh vật liên quan nguồn gốc và sự tiến hóa xã hội loài người toàn cầu.Hầu hết học thuyết xã hội thếkỷ 19 chủ yếu xoay quanh kịch sử đấu tranh làm thay đổi trật tự xã hội, hoặc đặt nặng luật cứ sinh vật học, hoặc kết hợp cả hai. Dầu nhiều nhà tư tưởng xã hội thời kỳ này không tự nhận mình là nhà xã hội học, những học thuyết và tác phẩm của học góm phần xây dựng nên bộ môn xã hội học. Người có công khai sinh xã hội học như một bộ môn chính thức trong học đường là giáo sư Émile Durkheim. Ông tách xã hội học ra khỏi tâm lý học xã hội, mạnh dạn thành lập trường phái xã hội học khẩn định hiện thực xã hội – bao gồm các quan hệ tập thể, các cơ quan xã hội - tồn tại độc lập có thể tác động tâm lý và hành vi cá nhân. Tư tưởng xã hội của Émile Durkheim được lý giải rõ trong The Rules of Sociological Method [1895]. Để chứng minh việc nắm bắt cứ liệu thực tế thuyết phục hơn lối nhận định trừu tượng, ông tiến hành điều tra hang ngàn trường hợp tự tử, thống kê tỷ lệ tự tử tăng giảm tại các xã hội cụ thể đèu phải xuất từ các vấn đề xã hội, thái độ tập thể liên hệ tâm lý khủng hoảng của nạn nhân. Phương pháp lập bảng thống kê cho các lãnh vực cụ thể trong xã hội hiện thực nhằm tieu chuẩn hoá những điều tra xã hội vẫn được chuộng dụng phổ biến đến ngày nay.Những nhả tư tưởng xã hội trong thế kỷ 20 tiếp tục phát triển chiều kích nghiên cứu xã hội học. Ở Đức, các nhà xã hội học phần nào chịu ảnh hưởng tư tưởng xã hội kiểu mẫu Anh và Pháp như thuyết đơn tử nhấn mạnh công nghiệp hóa của Saint-Simon, thuyết tiến hóa của Auguste Comte, Herbert Spencer, Darwin, nhưng xã hội học chỉ thật sự được giới thiệu trong học đường xứ này vào thập niên đầu thế kỷ 20 sau khi bổ sung quan điểm xã hội của Georg Simmel [1858-1918], Max Weber [1864-1920…, những nhà xã hội học người Đức nổi tiếng thế hệ sau Karl Marx, Friedrich Engels. Giáo sư Georg Simmel có đóng góp quan trọng vào xã hội học nhờ công trình nghiên cứu kinh nghiệm con người trong quá trình hội nhập xã hội. Còn Max Weber đề nghị những lý thuyết xã hội học nên mang tính khái quát [generalizations]. Ông sang tạo phương pháp nghiên cứu khái quát bằng cắch tập hợp tất cả điểm đặc trưng của nhóm người đại diện đôi tượng nghiên cứu, rồi tạo thành một mô hình lý tưởng tiêu biểu cho toàn bộ đối tượng khá tương đồng mà nhà sã hội học do không gian trở ngại và thời gian làm việc giới hạn không thể thu nhập hết dữ liệu, từ đó rút ra sác xuất chung đáng tin cậy.Hệ thống kiến thúc xã hộihọc luôn khai mở vì hiện thực xã hội loài ngừng vận động làm nảy sinh hoặc lòi ra nhiều vấn đề kích não các xã hội học, do đó, khuynh hướng nghiên cứu, giảng dạy xã hội học tại mỗi quốc gia tùy thuật tư tưởng xã hội mà nó chịu ảnh hưởng. Chẳng hạn, xã hội học ở Mỹ buổi đầu tập trung nghiên cứu chuyên sâu các hiện tượng xã hội như hôn nhân gia đình, tội phạm, di cư - nhập cư…, sự tiếp cẩn xã hội học châu Âu dần dần giúp các nhà tư tưởng xã hội Mỹ mở rộng quan điểm và phương pháp nghiên cứu xã hội. Triết gia George Herbert Mead [1863-1931], giáo sư có thẩm quyền về tâm lý học và xã hội học tại đại học Chicago, đã hấp thụ thuyết tiến hóa, những lý thuyết liên quan kinh nghiệm xã hội và hành vi xã hội từng được các nhà tư tưởng Âu châu bàn đến, ông kết hợp chúng với kiến thức tâm lý học để nghiên cứu sự tương tác biểu tri [symbolic interactionism], giữa các hành vi cá nhân, tập thể trong quan hệ xã hội. Bằng phương pháp quan sát và mô tả, George Herbert Mead lý giải rằng tự thân [the self] và tâm trí [mind, intelligence] phát sinh tự nhiên trong cùng quá trình hoạt động xã hội. Tự thân của sinh vật khởi lên ý thức cái tôi [the self-conscious] khi có quan hệ tương tác với hoàn cảnh nào đó, như trong tình huống giao tiếp với sinmh vật khác, khi đó, những biểu tri [symbols] gồm điệu bộ, cử chỉ thân thể, ngôn ngữ âm giọng xảy ra chẳng khác máy móc hoạt động vì hợp đủ điều kiện. Ông xem tâm trí là một sản phẩm xã hội do mỗi cá thể sinmh vật tạo ra nhầm làm công cụ giải quyết vấn đề. Quan điểm và khuynh hướng nghiên cứu xã hội của George Herbert Mead trình bày trong những bài báo, nguyên cảo và những bài giảng dạy cho sinh viên được sưu tập in thành các tác phẩm The Philosophy of the Present [1932], Mind, Self, and Society from the Standpoint of a Social Behaviorist [1934], The Philosophy of the Act [1938], sau khi ông qua đời.Một nhà xã hội học nỗi tiếng khác là Talcott Parsons [1902-1979], giáo sư xã hội học tại đại học Harvard. Năm 1927, Talcott Parsons xuất bản The Structure of Social Action giới thiệu những tư tưởng xã hội châu Âu vào học đường Mỹ, đồng thời, đề xuất thuyết cơ cấu xã hội [the mechanism of society] và những nguyên lý cấu tạo nên cấu trúc xã hội. Những lý luận nỗi bật của Talcott Parsons như cấu trúc xã hội chi phối toàn bộ xã hội, hành vi con người tùy thuộc nhiều đến vai trò và địa vị xã hội… được xem như là dòng tư tưởng chủ đạo hình thành chủ nghĩa cấu trúc [structuralism] trong xã hội học. Vào giữa thế ký 20, Talcott Parsons lại tiếp nhận thêm thuyết chức năng [functionalism] lồng vào các tác phẩm The Social System [1951], Socialogical Theory and Modern Society [1967]. Thuyết chức năng vốn được tác phẩm The Division of Labour [1893], của nhà xã hội học Pháp Émile Durkheim, đề cập khi bàn đến hai nhân duyên hợp nhất xã hội, tức là tính thống nhất cơ học [mechanical solidarity] và tín thống nhất hữu cơ [organic solidarity]. Giáo sư Durkheim cho rằng tính thống nhất cơ học xảy ra trên cơ sở con người cùng chia sẻ hay đồng thuận các giá trị tinh thần – như niềm tin tôn giáo, di sản vật thế, phi vật thể .v.v. - tự sản sinh chức năng liên kết từng cá nhân thành một tập thể, một xã hội hợp nhất. Còn tính thống nhất hữu cơ là kết qủa từ sự phân công lao động trong xã hội khiến con người sống phụ thuộc lẫn nhau. Những nhà xã hội học ủng hộ thuyết chức năng diễn giải xã hội khẳng khác gì một sinh vật có đời sống riêng của nó, cá nhân, gia đình, cơ quan xã hội tổn hại với nhu cầu quan hệ tương tác tốt đẹp sẽ giúp cho xã hội vận hành năng động, hiệu quả. Các tệ nạn phạm pháp, hành vi phi đạo đức của cá nhân có thể gây phản ứng dây chuyền làm nguy hại toàn đời sống xã hội. Sự kết hợp thuyết chức năng với những lý luận của Talcott Parsons về cơ cấu vận hành xã hội đã tạo nên khuynh hướng xã hội học nghiên cứu chức năng cấu thành [structural-functionalism] được giới xã hội học Âu Mỹ đương thời đánh giá cao.Xét lịch sử hình thành xã hội học, chúng tôi thử phân chia ba giai đoạn đáng chú ý:1. Giai đoạn cách mạng tri thức [intellectual revolution], bắt đầu từ thế kỷ 16 cuối thời Phục Hưng [The Renaissance] - một phong trào nghiên cứu, giáo dục văn minh Hy Lạp-La Mã cổ đại thúc đẩy việc cải tổ xã hội Thiên Chúa vào hậu kỳ trung cổ [the Late Middle Age] nhưng, theo Voltaire, phong trào này đã giải phóng cái tôi con người khỏi thần quyền, giũ bỏ thái độ mê tín, những sai trái trong xã hội Thiên Chúa, báo hiệu sử cáo chung quyền lực của Công Giáo La Mã – kéo dài ở phong trào Ánh Sáng ở thế kỷ 17-18. Sự nghiệp vả tinh thần khác khao tụ do tư tưởng, tự do nghiên cứu của những khoa học gia, triết gia gian đoạn cách mạng tri thức đã mang lại nghiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội phương Tây, bao gồm lãnh vực học thuật truyền thống như triết học, tâm lý học, hóa học, vũ trụ học, nhân chủng học… lại làm nền tảng chung cho nhiều bộ môn mới ra đời như vật lý học, xã hội học, sinh học, kể cả tin học.2. Giai đoạn định hình xã hội học. Thế kỷ 19 ghi nhận sự ra đời thuật ngữ xã hội học, từng bước xây dựng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. Vào 1830-1842, nhà tư tưởng Pháp Auguste Comte lần lược xuất bản tác phẩm Course of Positive Philosophy giới thiệu quy luật xạ hội, khai sinh luật ngữ xã hội học vàn nhấn mạnh tri thức thực chứng [positivism], một khái niệm rất gần gũi mục tiêu nghiên cứu xã hội học. Bộ sách 6 quyển của ông được dịch sang Anh ngữ năm 1953; dần dần thuật ngữ xã hội học càng được sủ dụng phủ biến. Ta cũng thấy suốt thế kỷ 19, nhiều nhà tư tưởng quan tâm lịch sử - xã hội nổ lực để xuất học thuyết xã hội học dựa trên phương pháp nghiên cứu khả dĩ tìm ra những nguyên nhân, yếu tố tác động đến đời sống xã hội. Tất cả dữ liệu có sẳn chỉ cần được liên kết lại là lập tức tạo nên một bộ phận tri thức rõ rệt. Émile Durkheim và Max Weber đã đảm nghiệm nghĩa vụ đó.3. Giai đoạn ứng dụng xã hội học. Nên hiểu biết khái niệm ứng dụng tôi muốn ám chỉ ba việc; [a]. Ứng dụng giảng dạy: Hệ thống hóa bộ phận tri thức xã hội học đem giảng dạy nơi học đường; [b]. Ứng dụng đời sống thực tiễn: Vận dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học giải quyết các vấn dề xã hội; [c]. Thu nhận những lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học mới phát sinh. Giai đoạn này tính từ thập niên 80-90 cuối thế kỷ 19. Vì xã hội học được khám phá gắn liền đời sống xã hội loài người, nó sẵn sang cập thời kết nạp hoặc chủ động tìm ra những lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội bắt kịp nhu cầu hiện thực đời sống xã hội. Giữa những nhà tư tưởng xã hội, Durkheim và Weber nổi bật hơn tất cả, tư tưởng - tức lý thuyết – và phương pháp nghiên cứu xã hội của họ tiếp tục của họ sống bền với thời gian. Người Ta không quên cặp bài trùng Marx – Engles với những tác phẩm của họ là cơ sở lý luận chính trị cho các Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản tại nhiều quốc gia. Nhất là sau thế chiến II [1939-1945] đến cuối thập niên 80 đến thế kỷ 20, giai đoạn chiến tranh lạnh [cold war] phân lập khốn dân chủ - tư sản và khối cộng sản, các nhà xã hội học đặc biệt quan tâm xem xét tư tưởng Marx- ngels, tư tưởng xã hội của hai ông đăng quang ngôi ưu việt, độc quyền truyền bá, điều phối mọi hoạt động giáo dục, kinh tế, chính sách đối nội đối ngoại… Hào quang Marx-Engels một thời oanh oanh liệt liệt tàn lụn dần theo sự phân rã khối cộng sản Đông Âu và sự sụp đổ nhà nước Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Sô Viết [the USSR] năm 1991. Dù các nhả xã hội học chịu ảnh ý thức hệ nào đó - hoặc dân chủ - tư sản hoặc cộng sản – và dùng tất cả học thuyết xã hội có tương đồng hay di biệt, tất cả dung hợp trong xã hội học là cho bộ phận tri thức xã hội học trở nên đa sắc thái. Xã hội học đương đại thật sự phát triển về lý thuyết lẫn phương pháp nghiên cứu, đạt tiếng nói độc lập, thậm chí các nhà xã hội học còn được mọi người tin cậy giao phó trách nhiệm tháo gỡ các vấn đề xã hội đang tồn tại.Về lý thuyết, xã hội học chủ hướng tìm hiểu mối quan hệ tương tác các phương diện khác nhau của đời sống đang diễn ra rộng khắp xã hội. Dưới mắt nhà xã hội học, các phương diện đời sống đều có mối quan hệ tương tác, do đó, mọi ngành khoa học đều liên hệ đến xã hội học. Nói dễ hiểu, xã hội học là một lãnh vực tổng hợp [synthesizing field] quy tụ những gì tìm thấy từ cách ngành khoa học, nhất là các lãnh vực khoa học xã hội. Những khái niệm về phạm vi và phận sự xã hội học như thế nhìn chung nhất quán và vẫn được chấp nhận phổ biến, tuy nhiên, chúng chỉ là một phần trong toàn bộ lý thuyết chung cho các lãnh vực liên ngành và chuyên ngành thuộc xã hội học. Lãnh vực liên ngành xã hội học lâu đời nhất và quan trọng nhất là tâm lỳ học xã hội. Nó thực sự xem như một môn học độc lập, thu hút nhiều người từ cả hai xã hội học và tâm lý học. Trong lúc các nhà tâm lý học quan tâm đến các tác động của những lãnh vực này trên cá nhân riêng lẽ, thì các nhả xã hội học quan tâm đến chuẩn mực, giá trị xã hội, vai trò xã hội, các cơ quan xã hội, cơ cấu tổ chức các tập đoàn. Những nhà tâm lý học mà mở đường nghiên cứu mối tương tác trong các nhóm nhỏ; sự phân bố niềm tin và thái độ sống trong dân cư; gia đình, học đường, đồng bạn, và những trung gian hội nhập xã hội khác ảnh hưởng tiến trình hình thành phân cách. Những ý niệm phân tâm học phát nguồn từ Sigmond Freud và các nhà phân tâm về sau giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong lãnh vực tâm lý học xã hội.Vào những năm gầy đây, xã hội học so sánh lịch sử rõ rang phát triển mạnh, chịu nảh hưởng sâu nặng quan điểm của cả hai Marx và Weber. Nhiều nhà sử học đã vay mượn khái niệm xã hội học; cùng lúc, những nhà xã hội học cũng thực hiện những nghiên cứu qui mô về so sánh lịch sử [historical comparative]. Những rào cản xã hội học và lịch sử đã sụp đổ, đặc biệt là những lãnh vực lịch sử xã hội, đổi thay nhân khẩu, sự phát triển kinh tế và chính trị, và xã hội học về những cuộc cách mạng xã hội, các phong trào phản kháng.Hầu như tất cả hoạt động của con người không tác rời khỏi xã hội nên đối tượng chuyên môn hang đầu khác của xã hội học là bàn về cấu trúc của xã hội trong quan hệ con người, bao việc giảng dạy và nghiên cứu các mặt xã hội khác nhau như chính trị, mộ máy điều hành nhà nước, luật pháp, tôn giáo, giáo dục, quân đội, nghề nghiệp, công nghiệp, xã hội, ngôn ngữ [ngôn ngữ học xã hội], y học, thông tin truyền thông, và thể thao. Mỗi lãnh vực khác nhau hoàn toàn, phát triển thành chuyên ngành và lôi cuốn nhiều người chuyên môi hóa ngành họ theo đuổi. Xưa nhất trong bộ môn xã hội học là những lãnh vực tập trung trên hiện tượng xã hội, những lãnh vực chưa có các bộ môn khoa học khác nhận như đối tượng nghiên cứu, bao gồm hôn nhân-gia đình, bất bình đẳng xã hội và giai tầng xã hội, những quan hệ đạo đức, hành vi tiêu cực, những cộng động thành thị, cũng bao gồm bình diện xã hội liên quan vấn đề lão hóa và giới tính, tình dục.Khi những lãnh vực nào đó thực thuộc xã hội học đạt tiếng tăm, người ta tháp ghép chúng vào một lãnh vực hỗn hợp, chẳng hặn, lãnh vực xã hội học công nghiệp [industrial sociology] trở thành môn học ưa thích ở Mỹ suốt thập niên 30-40, về sau được nhập vào lãnh vực nghiên cứu và các tổ chức công nghiệp liên hợp [the study of complex organizations]. Còn ở Anh, môn học này vẫn phát triển độc lập. Mội hiện tượng càng phổ biến là việc tánh lãnh vực trực thuộc xã hội học thành những phân hiệu hẹp hơn, chẳng hạn, xã hội học tri thức [sociology of knowledge] được phân chia manh mún thành những ngành xã hội học về khoa học, nghệ thuật, văn học, văn hoá bình dân, ngôn ngữ. Có trường hợp xã hội học triển khai phạm vi nghiên cứu sang các môn học khác để lôi kéo những thành phần tương thích về phiá xã hội học. Điển hình, tối thiểu hai lãnh vực nhân khẩu học và hội phạm học - vốn kết hợp với những môn học khác tồn tại trước khi có lãnh vực chính xã hội học – nay nằm trong trường hợp này. Ở một số nước, nhân khẩu học [nghiên cứu về sự phát triển, phân bố dân số] còn giữ mối liên hệ gần với kinh tế, nhưng ở gần hết các nước phương Tây, và đặc biệt ở Mỹ, nó được xem như một phân hiệu xã hội học. Tội phạm học qua ngàn thập niên chịu ảnh hưởng những khái niệm và phối cảnh xã hội học càng khắng khít với những nghiên cứu xã hội về hành vi sái quấy, lầm lạc, kể cả những hình thức không vi phạm Pháp Luật nhà nước.Một số lãnh vực như xã hội học thể thao, giới tính mới ra đời hậu bán thế kỷ 20, trong khi tôn giáo là giữa vài lãnh vực được phương Tây nghiên cứu suốt bốn thế kỷ trườc. hiều nhà tư tưởng thế ký 16-18 nghiên cứu tôn giáo chủ yếu dựa nguồn Thánh Kinh, thực tiễn hoạt động của giáo hội Ky Tô và các tài liệu Do Thái giáo. Nhờ những cuộc tham hiểm, viễn chính, mở rộng thương mại, phương Tây lần hồi khám phá hiện tượng văn hoá-tôn giáo tồn tại phổ biến khắp thế giới. Có hang ngàn tôn giáo, nhưng tám tôn giáo hang đầu là đạo Thiên Chúa [Christianity], đạo Hồi [Islam], đạo Ấn [Hinduism], đạo Phật [Buddhism], đạo Lão [Taoism], đạo Khổng [Confucianism], đạo Do Thái [Judaism], đạo thờ Ông Bà Tổ Tiên [Shinto]. Từ cuối thể kỷ 18, phương Tây bằt đầu chuyển dịch tài liệu của các tôn giáo ở phương Đông, đồng thời, những thành tựu của ngành khảo cố trong việc khai quật những bản văn kinh điển ra xưa mà giải mã cổ ngữ đã góp phần giúp phương Tây tập họp số lượng thông tin tương đối về các tôn giáo ngoại vi văn hoá Ky Tô. Khi nghiên cứu tôn giáo, các nhà triết học, tâm lý học, sử học, nhân chủng học chủ trương tiếp cận đối tượng với tinh thần khách quan, thuần túy xem tôn giáo là đối tượng nghiên cứu học thuật, không cục bộ ủng hộ bất cứ giáo phái nào; cũng có một lực lượng nào học giả nghiên cứu tôn giáo nhẳm mục đích làm thuận lợi cho công cuộc truyền đạo.Việc nghiên cứu tôn giáo một cách có hệ thống chỉ thật sự phát triển khoảng giữa thế kỷ 19. Giới nghiên cứu cho rằng hầu hết tôn giáo chia sẻ năm đặc trưng: [1]. Niềm tin thần linh hoặc quyền lực siêu nhiên; [2]. Giáo lý giải thoát; [3]. Nguyên tắc đạo hạnh hay luật nghi; [4]. Những giai đoạn thiêng liêng; [5]. Lễ nghi tôn giáo. Để hiểu từng đặc trưng riêng biệt và giao điển giữa các truyền thống tinh thần Đông Tây, học giả Đức Friedrich Max Miller đề xuất so sánh tôn giáo. Ý tưởng này đăt nền tảng môn học so sánh tôn giáo [the study of comparative religion]. Thêm vào bộ phận kiến thức tôn giáo, các nhà phân chủng học chịu khó thực hiện những công trình biên khảo liên quan đời sống tôn giáo bộ lạc của những dân tộc vốn bị xem là mọi rợ và bị phớt lờ trong thế giới văn minh đã cho nhà nghiên cứu có tầm nhìn bao quát hơn về vai trò tôn giáo trong toàn bộ xả hội loài người.Chúng ta dễ thấy tôn giáo thường gắn liền với văn hoá nhân loại. Tôn giáo bộ lạc loài hoà tan vào màu sắc văn hoá bộ lạc. Đạo Do Thái, Hồi, đặc biệt đạo Thiên Chúa tạo hình văn hoá phương Tây; riêng đạo Hồi còn giữ vai trò trọng yếu kiến tạo văn hóa vùng Trung Đông và nhiều quốc gia Châu Phi. Văn hoá châu Á, nói chung, bao gồm các yếu tố đạo Ấn, Hồi, Phật, Lão, Khổng, Ông Bà Tổ Tiên, dầu vậy, văn hóa từng quốc gia tùy thuộc mức độ tôn giáo nào có tác động nhiều hay ít đến lịch sử, kết quả là sự phân tầng văn hóa tôn giáo hoặc dung hợp các yếu tố. Có thể nghiên cứu tôn giáo tách rời khỏi văn hoá, tuy nhiên trong thực tế, tôn giáo, và văn hóa bất phân ly. Chính hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng của mỗi cá nhân và đoàn thể, cộng đồng sản sinh ra tôn giáo, tạo cho tôn giáo một đời sống và trao quyền hướng dẫn các kiểu mẫu hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng theo giá trị truyền thống mà con người đã kinh qua. Những giá trị đó được xem là kinh nghiệm tôn giáo, phản ảnh qua biểu tượng, múa hát, chuyện thần thoại, hoang đường, lễ nghi, hay những kinh nghiệm cao hơn các hệ thống triết lý uyên thâm, luật tắt điều chỉnh đạo hạnh, kỹ thuật thiền định v.v. Tất cả kinh nghiệm tôn giáo nói trên đều mang hình thái văn hoá.Dù tôn giáo được nghiên cứu dưới lăng kính nhân chủng học hay bất kỳ ngành học thuật khác, nó vẫn không vượt ngoài phạm vi quan sát của xã hội học, trái lại, gia cố lý thuyết xã hội tôn giáo. Từ cuối thể kỷ 19 sang những thập niên đầu thế kỳ 20, hai nhà xã hội học Émile Durkheim và Max Weber lần lượt công bố các công trình nổi tiếng liên hệ tôn giáo và xã hội: Division of Labour [1893], The Protestant Ethic anh the Spirit of Capitalism [1904-1905], Elementary Forms of the Religious Life [1912], Religions of the East [1920-1921]. Tác phẩm Division of Labour [1893] của Émile Durkheim đã chỉ ra thuộc tính thống nhất cơ học trong tôn giáo góp phần hợp nhất một tập thể hay cộng đồng. Émile Durkheim còn nhấn mạnh đời sống tôn giáo trong Elementary Forms of the Religious Life [1912] như một sức mạnh cần thiết để thực hiện chức năng xã hội.Theo ký thuyết kinh điển này, Émile Durkheim quả quyết rằng dấu ấn căn bản nhất của tôn giáo không phải bóng dáng thần linh, siêu nhiên, mà là bất cứ đối tượng và biểu tượng hóa thiêng chuyển tiếp hòa vào ý thức của một nhóm người cùng tín ngưỡng, chúng được xem như giá trị tinh thần nhào nặn cảm xúc tôn giáo giữa các thành viên chung sống, do vậy, tính chất thiêng liêng có chức năng kết nối xã hội. Đối tượng và biểu tượng hóa thiêng là những nguyên tắc đạo đức, những gì một cộng đồng đặt lòng tin vào và cố gắng không vi phạm các giá trị hay gìn giữ các giá trị cộng đồng không bị xâm hại. Chính tính chất thiêng liêng tạo nên lực hút nhiếu người hợp thành các cộng đồng xã hội tôn giáo, chúng ta cũng có thể đem tính chất đó lý giải những mô hình xã hội thế tục tồn tại song song. Tại xã hội thế tục phương Tây, điều thiêng liêng được thể hiện qua những tiêu chuẩn mực đạo đức để cao tính dân chủ, tự do, quyền cá nhân, công bằng bình đẳng, dù mỗi người có niểm tin tôn giáo khác nhau hay theo chủ nghĩa phi tôn giáo [secularism]; những gì xã hội thế tục phương Tây xem là thiêng liêng lại biến sắc tại các xã hội thế tục chịu ảnmh hưởng xã hội tôn giáo, hoặc do một Đảng độc quyền thống trị đã thiêng liêng hóa tính Đảng bền vững bao trùm cơ cấu xã hội. Quan điểm của Émile Durkheim vế tính chất thiêng liêng vận hành chức năng xã hội cốt làm sang tỏ vai trò tôn giáo hơn là bình phẩm giá trị truyền thống đúng hay sai. Một sự thật được khám phá bằng lý luận khách quan như thế đã hạn chế mọi bàn cãi không cần thiết.Cũng trong nỗ lực khám phá vai trò tôn giáo, Max Weber đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đạo đức ảnh hưởng đến kinh tế & đời sống xã hội. Nguyên là giáo sư kinh tế-sử học, ông sớm nhận ra luận thuyết đơn tử của Karl Marx & nhà kinh tế-chính trị Friedrich Engels chứa đựng sai lầm nghiêm trọng ngay nhận thức cơ bản về lịch sử xã hội, điều đó thúc đẩy ông viết The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism [[1904-1905]. Qua phân tích lịch sử phương Tây, Max Weber khẳng định có những mối quan hệ nội tại tác động lẫn làm cho đời sống xã hội biến đổi, trong đó, tôn giáo là một trong nhiều yếu tố tổng hợp sản sinh hình thái xã hội mà còn gốc rễ của yếu tố khác, điểnn hình như phẩm chất & sự thịnh vượng của nền kinh tế chủ nghĩa tư bản chuyển hóa từ đạo đức đạo tôn giáo.Sẽ không có gì đáng nghi ngờ quan điểm Max Weber, nếu chúng ta biết chính sự phảng kháng [protest] của những phần tử Thiên Chúa [Christianity] ly khai khỏi Công Giáo La Mã [Roman Catholicism] vào thể kỷ 16 đã mở đạo Tin Lành [Protestanism]. Đó là mội trong trào cải cách phục hồi lý tưởng Thiên Chúa, chỉ chấp nhận thẩm quyền Thánh Kinh & xem trọng nềm tin cá nhân. Tư tưởng phản khảng của các nhà thần học Martin Luther, Huldreich Zwingli, John Calvin… dẫn đến việc thành lập các giáo phái Lutheran [Evangelical], Calvinist, Anabaptist, Puritan, Anglican thuộc cộng đồng đạo tin lành [Protestanism]. Họ mạnh mẽ chỉ trích những sai lầm, phủ nhận quyền hạn Giáo Hoàng & nhà thờ Công Giáo La Mã tối cao, phơi bày tệ nạn các chức sức Tăng lữ sống xa hoa v.v.. Dù muốn hay không, hai yếu tố tôn giáo & chính trị vẫn xoắn xuýt nhau chọc kích sự liên minh ma quỷ giữa chính quyền & tôn giáo, nó truyền cảm hang loạt sự kiện nông dân khởi nghĩa tại Đức, Áo [1524-1526] chống đối tầng lới qúy tộc & phú Tăng Công Giáo La Mã vô đạo, ác liệt nhất là 30 năm chiến tranh [1618-1648] trên lục địa châu Âu & cuộc Cách Mạng Anh [1640-1660]. Các nhà thần học cấp tiến khác nhu John Aston, Jacobus Arminius, John Wesley, John Charles, Edward Herbert, John Toland, & Charles Blountm Friedrich Schleiermacher… hồ hởi hòa điệu cùng phong trào Ánh Sáng khi công khai chấp nhận những tư tưởng khoa học, lỳ giải thần học theo khuynh hướng duy lý, nhìn chung, họ thẳng thắn phủ nhận ba ngôi chí tôn [Trinity], niềm tin Đấng Cứu Thế chuộc tội lỗi, thiên khải, thần lực, chống lời dạy giáo điều… Khuynh hướng duy lý này tình thành một số giáo phái mới Arminianism, Latitudinarianism, Deism, Unitarianism, Methodism, Quakerism [Religious Society of Frìends], Liberalism [Liberal Theorian] phát triển mạnh ở châu Âu & Bắc Mỹ. Cộng đồng Tinh Lành còn giữ vai trò quan trọng trong những phong trào nhân đạo & cải tổ xã hội. Tín đồ Phúc Âm [Evangelical Protestant], một giáo phái chịu ảnh hưởng tư tưởng Martin Luther, được xem là những nhà lãnh đạo đấu tranh giài phóng chế độ nô lệ tại Anh, Mỹ.Sự phát triển nhanh chóng của cộng động Tin Lành cuộn lên những cơn sóng chính trị-tôn giáo sôi động từ thế kỷ 10-19 thật sự làm lung lay tận gốc rễ quyền lực Công Giáo La Mã & chính quyền phong kiến phương Tây đương thời, nó hỗ các nhàn khoa học tự do phát biểu, nghiên cứu mà không phải lo sợ trái với Thánh kinh sẽ bị nhà thờ Công Giáo La Mã thiêu sống hay xét xử độc đoán. Bối cảnh lịch sử phương Tây như thế trở thành điều kiện cần cho cuộc Cách Mạng Công Nghiệp thay thế lao động thủ công bằng phương tiện mát móc, ứng dụng hệ thống kiếm thức khoa học thực nghiệm vào quá trình sản xuất mang lại nhiều đổi thay trong xã hội, khởi điểm ở Anh vào nữa thế kỷ 18, kế tiếp lan rộng ở những phần châu Âu, Hoa Kỳ, đó là bước đầu tiến đến nền kinh tế được Marx-Angel gọi là chủ nghĩa Tư Bản.Nhận xét của Max Weber về đạo đức tôn giáo có khả năng tác động đến kinh tế & xã hội khiến các nhà tư tưởng phương Tây phải bình tâm xét lại vai trò tôn giáo, thay vì tập trung phê phán, một thái độ chống đối tôn giáo từ Pháp đến Nga trải suốt 4-5 thế kỷ; đồng thời là một gáo nước lạnh tạt vào mặt phái tả cùng các trò Marx-Engels, những người chủ trương kinh tế quyết định [theory of economic determination]. Max Weber tiếp tục biện minh quan điểm trong tác phẩm Religions of the East [1920-1921] phân tích đạo đức tôn giáo phương Đông, bao gồm Phật giáo, quan hệ với kinh tế-xã hội.Như một sự thật lịch sử, khi đạo Tin Lành & văn minh công nghiệp phương Tây khởi lên, Phật giáo tồn tại hơn hai thiên niên kỷ, mãi đến thế kỷ 19 vài nhà trí thức phương Tây mới quan tâm nghiên cứu Phật giáo. Có những bằng chứng lịch sừ-khảo cổ ủng hộ giả thuyết châu Âu từng tiếp nhận Phật giáo từ thế kỷ thứ IV-III trước công nguyên, tức là vào thời kỳ đại đế Alexander thối binh khỏi Bắc Ấn [325 B.C.]; kế tiếp là các sứ giả thời đại đế Asoka [269-232 B.C.] thuộc triều Maurya [321-185 B.C.] ờ Ấn đã mang thông điệp hòa bình của đức Gotama vượt Egypt sang Macedonia. Hellen [Hy Lạp ngày nay] & các vương quốc Đông Nam Âu cổ đại, có lẻ không chỉ Marco Polo, nhiều thương gia phương Tây khác cũng biết đến Phật giáo tồn tại qua con đường tơ lụa nối liền thương mại Âu Á suốt thế kỷ I trước công nguyên đến thế kỷ 15; hoặc giả đoàn quân Mông Cổ của Ogadai Khan [1229-1242] đã mang món ăn tâm linh Phật giáo theo những chặng đường ly hương chinh phục trung Âu thế kỷ 13. Dầu vậy, Phật giáo không thể tìm chổ bám rễ trong đời sống tư tưởng dân chúng phương Tây, ngoài trừ số ít người gốc Nga & Ukaraina địch cư ở Buryatia & Tuva-hai nướv cộng hòa tự trị thuộc liên bang giáp giới Mông Cổ - theo Phật giáo Lama từ thế kỷ 17.Phần tư đầu thế kỷ 19, phương Tây bắt đầu nghiên cứu Phật giáo. Vị học giả phương Tây thực hiện những nghiên cứu liên quan Phật giáo trước nhất được biết là Michael Jean Francois, người Pháp, với tác phẩm Researches sur Buddlou xuất bản ở Paris năm 1817, nhờ The World as Will Representation của Arthur Schopenhauer [1788-1860], một triết gia Đức có nhiều ảnh hưởng tại Âu Mỹ. Arhur Schopenhauer giữ quan điểm vô thần, thế giới không phải do thần linh hay thượng đế sáng đạo, con người & tự nhiên là sản phẩm của “will” – ông dùng thuật ngữ này ám chỉ cả hai khát vọng cá nhân & toàn bộ bản chất sinh thể thôi thúc thế giới không ngừng nỗ lực tầm cầu hạnh phúc, kho loài người không thỏa mãn với hạnh phúc thì đó là khổ đau khôn cùng. Chỉ có sự thản nhiên từ bỏ khát vọng tầm cầu hạnh phúc mới đạt được chân hạnh phúc. Ông nói nhiều đến khổ đau gặm nhấm loài người trong tác phẩm Essays and Aphorism. Để kiểm chứng quan điểm triết học, Arthur Schopenhauer thừa nhận Phật giáo như tiêu chuẩn tuyên ngôn sự thật & thú vị nhận ra tư tưởng mình ngẫu nhiên gần gũi Phật giáo.Giao điểm tư tưởng giữa Arthur Schopenhauer & Phật giáo được chính ông khám phá qua mẳng triết học Ấn Độ trình bày trong các sách giáo khoa Đức, những tác phẩm nghiên cứu của các học giả Nga, Pháp, riêng bản thân ông chưa tham khảo bất cứ văn bản kinh điển bào thuần túy chuyển tải tư tưởng Phật giáo. Thậm chí khi Arthur Schopenhauer tái bản The World as Will Representation lần thứ ba [1859], phương Tây mới có vài dịch phẩm Phật giáo chính thức tiêu biểu: 38 chương đầu của 100 chương Mahavamsa - một tác phẩm lịch sử ghi chép nguồn gốc & sinh hoạt Phật giáo Sri Lanka - viết bằng ngôn ngữ Pali được Eugene Burnouf nhà Đông Phương học Pháp dịch sang tiếng Anh [1837]; cũng Eugene Burnouf đã dịch Saddharmapundarika từ văn bản Sanskrit sang tiếng Pháp Le lotus de la hone loi [1582]; giáo sư Friedrich Spiegel trích dịch phần Uraga của Sutta Nipata xuất bản tiếng Đức có nhan đề Anecdota Palica [1848]; & một bản dịch Latin Dhammapada do Viggo Fausball - người cha Triết học Pali ở Đan Mạch - thực hiện [1855]. Thiếu tài liệu Phât giáo là trở lại lớn nhất đối với phương Tây thế kỷ 19. Số lượng học giả vượt qua bức tường ngôn ngữ dọc hiểu chính văn kinh điển có thể đếm trên đầu ngón tay, công chúng ít quan tâm sự hiện diện của Phật giáo. Đợi đến 19 năm sau Arthur Schopenhauer qua đời [1860], Sir Edwin Arnold xuất bản The Light of Asia, một thi phẩm viết về cuộc đời & tư tưởng Phật Gotama, thật sự lôi cuốn công chúng chú ý tìm đọc, trở thành hiện tượng ấn phẩm Phật giáo phổ biến nhất. Kết quả đó đã khuyến kích giáo sư Thomas William Rhys Davids xúc tiến thành lập hội Thánh Điển Pali [Pali Text Society] vào năm 1881 mời gọi các học giả Đông Tây giúp sức chuyển dịch kinh điển Phât giáo sang Anh ngữ để quảng bá tư tưởng Phật giáo giữa công chúng Âu Mỹ.Điều trớ trêu đáng nói là từ sự xuất hiện The World as Will Representation, các nhà tư tưởng Âu Mỹ xem Arthur Schopenhauer như người lập chủ nghĩa bi quan [pessimism], vô hình trung ấn tượng Phật giáo buổi đầu chẳng gì khác dòng tư tưởng bi quan Arhur Schopenhauer. Thêm vào, các nhà Đông phương học hang đầu bấy giờ gồm Monier Monier Williams, Jules Barthelemy Saint-Hilaire, Charles Gutzlaff, Adolph Thomas, ngay cả Eugene Burnouf, một nhân vật được gìới học giả Phật giáo phương Tây quý trọng như người đặt nền tảng cho việc nghiên cứu Phật giáo một cách khoa học, đã nhận thức sai lệch tư tưởng Phật giáo, giải thích xuyên tạc lý tưởng Nirvana/Nibbana cứu cánh giải thoát tối hậu là hư vô, đoạn diệt [nihilism] & tiêu cực. Kết quả di hại khủng khiếp, vì không biết bao nhiêu nhiêu giấy mực phê phán hoặc phải biện minh Phật giáo là hay không là một thống giáo lý tiêu cực, nó tác động vào nếp nghĩ suy của những nhà trí thức & tầng lớp bình dân tại chính các quốc gia phương Đông tiếp nhận Phật giáo từ lâu.Thời điểm T.W. Ryhs Davids thành lập hội Thánh Điển Pali ở London – cùng lúc Émile Durkheim giảng bộ môn xã hội học tại học đường Bordeaux, Paris – tính cho đến thời điểm Mar Weber viết Religions of the East [1920-1921] trải qua 40 năm, khoảng thời gian dài gần nữa thế kỷ đủ cho các nhà xã hội nghiên cứu những dịch phẩm Thánh điển Phật giáo rút ra những đánh giá đúng đắn mối quan hệ Phật giáo & xã hội. Thế nhưng việc đó không được họ thực hiện. Một lý do khác, suốt giai đoạn này, ông bà T.W. Rhys Davids, Max Muller, Hermann Oldenburg, Pau Dahlke, George Grimm, Paul Carus… những học giả tài giỏi tận tụy sống, làm việc, bênh vực Phật giáo thường chú dịch thuật, lý giải tư tưởng triết học, tâm lý, nhấn mạnh đăc tính đạo đức-giải thoát trong Phật giáo hoặc đối phó những cây bút chỉ trích đối lập, họ chưa đặt Phật giáo vào khung xã hội học, có chăng chỉ đề cập khía cạnh đạo đức-xã hội, chưa khai thác tôn tạo ý tưởng Phật giáo liên hệ các phương điện kinh tế-xã hội, chính trị-xã hội, sức khoẻ-xã hội, con người hội nhập xã hội. Do đó, những nỗ lực quảng bá Phật giáo không đánh bật được thành kiến phê phán Phật giáo như một hệ thống tư tưởng bi quan, yếm thế, tiêu cực, thụ động, hư vô, đoạn diệt, là những trạng thái tâm lý, khuynh hướng hoàn toàn bất lợi cho tiến độ công nghiệp hóa, đối chọi đặc tính kinh tế đòi hỏi tư tưởng sáng tạo, phát minh khoa học, cải tiến qui trình sản xuất, mở rộng giao thương, cơ thế kinh tế-thị trường vận hành năng động thúc đẩy xã hội thoát khỏi đói nghèo lạc hậu.Thái độ phê phán Phật giáo được Max Weber phản ảnh trong Religions of the East, khi ông phân tích, giải thích nguyên lý đạo đức của các tôn giáo phương Đông đã làm trở ngại sự phát triển kinh tế & sự nâng cao đời sống xã hội, dù phương Đông không thiếu tài nguyên thiên nhiên hay nhân gây bức xúc cho giáo sư Nandasena Ratnapala, một trí thức phương Tây sinh trưởng tại Sri Lanka, cái nôi Phật giáo thế giới, phải đặt bút phê bình Max Weber ‘đã làm cuộc ngoạn du cởi ngựa xem hoa tư tưởng Phât giáo’ & sau Max Weber vẫn ‘chưa ai thật sự nỗ lực nghiên cứu tư tưởng Phật giáo dưới lăng kính xã hội học một cách nghiêm túc’. Ông minh chứng cho mọi người thấy rằng Phật giáo chẳng những có một học thuyết kinh tế nhân bản mà còn hội tụ một hệ thống ý tưởng xã hội hoàn toàn tương thích nhiều vấn đề thuộc phạm vi bộ môn xã hội hiện đại quan tâm, như một nhập xã hội, luật pháp, tội phạm & khủng bố, chính trị, sức khoẻ, hôn nhân gia đình, giáo dục v.v. qua ấn phẩm Buddhist Sociology-Xã Hội Học Phật Giáo, gồm 13 chương, tất cả quán xuyến nội dung khẳng định tư tưởng Phật giáo không siêu thực, không dẫn dắt con người vào thế giới viễn vong không tưởng xa rời cuộc sống.

Buddhist Sociology-Xã Hội Học Phật Giáo vừa trực tiếp trả lời câu thách đố của Mar Weber, cũng vừa gián tiếp gởi gắm lời nhắn nhủ các nhà tư tưởng Phật Giáo Bắc truyền lâu nay tự xưng Đại Thừa Phật Giáo hãy từ bỏ quan điểm chê bai Phật Giáo Nam truyển là Tiểu Thừa, mang lý tưởng giải thoát cá nhân, hẹp hòi, ích kỷ… Bởi, hầu hết toàn bộ nội dung Buddhism Sociology-Xã Hội Học Phật Giáo đều được tác giả Nandasena Ratnapala xây dựng trên nền tảng kinh điển Pali, hệ giáo lý chính thống lâu đời của Phật Giáo Nam truyền, không phải trên lý tưởng Bồ Tát nhập thể của các kinh Pháp Hoa, Duy Ma Cật. Một vấn đề khá nhức đầu là tại sao nhiều quốc gia Phật giáo hoặc chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo Nam truyển - Bắc truyền hàng bao thế kỷ vẫn bị xếp vào thế giới thứ ba chậm phát triền, lạc hậu, đói nghèo dai dảng, tình hình chính trị bất an triền miên? Ấn phẩm Buddhism Sociology – Xã Hội Học Phật Giáo đưa ra những giải thích gợi ý giúp các nhà lãnh đạo Phật giáo lẫn giới trí thức Phật giáo tự giải nghi hợp lý sau khi xét lại giáo lý nhà Phật & quan điểm cá nhân trong khối tâm lý cộng đồng Phật giáo.

Video liên quan

Chủ Đề