Vì sao mỹ có thể trừng phạt nước khác

Với những người thường xuyên theo dõi các thông tin liên quan đến thời sự như tình hình chính trị hay kinh tế thì chắc hẳn đã không còn lạ lẫm gì với thuật ngữ cấm vận. Vậy cấm vận là gì? Những điều mà có thể bạn chưa biết về cấm vận sẽ được giải đáp qua bài viết dưới đây của BachkhoaWiki. Cùng theo dõi nhé.

Cấm vận là gì?

Đầu tiên để trả lời cho câu hỏi cấm vận là gì thì hãy cùng với BachkhoaWiki đi sâu về khái niệm cũng như những thuật ngữ liên quan đến nó nhé.


Advertisement

Khái niệm cấm vận là gì?

Cấm vận hay còn được biết đến với khái niệm Biện pháp trừng phạt kinh tế là các hình phạt về thương mại và tài chính được áp dụng có mục tiêu bởi một hoặc nhiều quốc gia có quyền lực đối với một hoặc một nhóm quốc gia yếu thế hơn.


Advertisement

Các biện pháp trừng phạt kinh tế thường là phương pháp trừng phạt thường thấy bởi nó có ảnh hưởng rất lớn trong việc thay đổi đường lối chính trị cũng như xã hội, quân sự của nước nhỏ.

Quyền cấm vận là gì?

Một khái niệm mà nhiều bạn đang thắc mắc chính là quyền cấm vận là gì? Hãy cùng BachkhoaWiki tìm hiểu nhé.


Advertisement

Quyền cấm vận có thể hiểu là khi một quốc gia hoặc một tổ chức lớn có đủ quyền hạn để lập nên những lệnh cấm, quyết định hạn chế để áp đặt lên một nước khác.

Hàng cấm vận là gì?

Vậy hành cấm vận là gì? Hàng cấm vận có thể được hiểu đơn giản là những mặt hàng bị cấm di chuyển đến hoặc ra khỏi biên giới của một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó.

Đó có thể là cấm buôn bán dầu mỏ, nông sản, thực phẩm, đồ gia dụng,… Tất cả những mặt hàng một khi đã bị cấm vận thì sẽ gây ra ảnh hưởng vô cùng lớn đến cuộc sống người dân cũng như nền kinh tế của nước đó.

Mục đích của cấm vận là gì?

Biện pháp trừng phạt kinh tế được sử dụng nhằm mục đích để tăng sức ép về  chính trị, nhằm buộc nước bị cấm vận phải thay đổi chính sách kinh tế, chính sách chính trị của mình.

Việc gây khó khăn cho các nước khác trên các lĩnh vực bị cấm vận cũng như các lĩnh vực có liên quan chính là một trong những mục đích khi ban hành lệnh trừng phạt.

Đi cùng với cấm vận là những ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế của nước đó với những quốc gia khác về kinh tế cũng như chính trị văn hóa.

Hậu quả của lệnh cấm vận là gì?

Với những nước lớn như Mỹ, Nga, Anh,… việc ban bố lệnh cấm vận đối với các nước nhỏ là một điều khá bình thường.

Mặc dù theo khái niệm thì các lệnh trừng phạt này chủ yếu nhắm vào giới lãnh đạo của các quốc gia bị ảnh hưởng, nhưng thực tế thì chính những người dân của đất nước đó mới là đối tượng bị tác động mạnh mẽ nhất.

Bởi lẽ, thực chất các biện pháp trừng phạt vốn dĩ là để làm cho nền kinh tế các nước bị cấm vận rơi vào khó khăn, cô lập,…

Từ đó, người dân gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, hàng hóa trở nên khan hiếm, giá cả đắt đỏ,…Tất cả những khó khăn đó khiến cho cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn hơn.

Một số ví dụ điển hình về cấm vận

Để chứng minh cho sức ảnh hưởng của cụm từ cấm vận thì hãy cùng nhau điểm qua một số ví dụ điển hình sau đây nhé.

Cho những ai chưa biết thì vào năm 1960 lệnh cấm vận Cuba chính là cuộc chiến dài kỳ và không hiệu quả chống lại một hệ tư tưởng của Hoa Kỳ.

Lệnh cấm vận được thực hiện bắt đầu bằng việc hủy bỏ hạn ngạch xuất khẩu đường từ Cuba sang Mỹ. Các công ty thuộc nước thứ ba [đặc biệt là các ngân hàng] có thể bị Mỹ cấm vận nếu như họ kinh doanh ở Cuba.

Từ năm 2006, Mỹ lại tiếp tục khiến thế giới đứng ngồi không yên khi đưa ra lệnh cấm vận Triều Tiên. Lệnh trừng phạt diễn ra trong bối cảnh Triều Tiên đẩy mạnh chương trình vũ khí hạt nhân trong suốt thập kỷ qua.

Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã áp đặt những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc sau sự kiện Bình Nhưỡng thử bom hạt nhân lần thứ ba vào tháng 2/2013.

Các tổ chức và quan chức Triều Tiên có liên quan đến chương trình này bị cấm thị thực và đóng băng tài khoản, trong khi các nước thành viên UN bị cấm nhập khẩu tất cả hàng hóa xa xỉ và vũ khí từ Triều Tiên. 

Và gần đây nhất là tuyên bố đóng băng tài khoản của các quan chức Nga đồng thời chính quyền Washington cũng công bố các biện pháp ngăn chặn Moscow huy động nguồn tiền mới từ các ngân hàng phương Tây, với việc cấm mua bán nợ của Nga kể từ ngày 1/3.

Tại sao Mỹ có thể cấm vận các nước?

Gần đây, việc Mỹ tuyên bố đóng băng tài sản của tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin và nhiều quan chức khác đã phần nào làm mọi người đặt ra câu hỏi tại sao Mỹ lại có thể cấm vận các nước khác? Câu trả lời sẽ có sau đây.

Dễ thấy, từ trước đến nay, Mỹ là một trong 5 quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất trên thế giới. Thị trường tài chính của Mỹ là thị trường lớn nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới.

Mọi quốc gia đều muốn hợp tác với Mỹ để phát triển cũng như có được sự bảo hộ của ông lớn này. Điều này cũng đã vô hình chung tạo cho Mỹ quyền lực và sức ảnh hưởng vô cùng lớn.

Cũng chính từ đây họ bắt đầu lạm dụng các lệnh trừng phạt, cấm vận dưới danh nghĩa của Liên hợp quốc nhằm khẳng định vị thế cũng như chèn ép những nước yếu thế hơn phải đi đúng quỹ đạo của mình.

Xem thêm:

  • Tiểu sử Volodymyr Zelensky
  • Tiểu sử Putin

Bài viết trên đây đã bóc trần những điều mà những ông lớn trên thế giới không muốn bạn biết về câu hỏi cấm vận là gì? Nếu thấy hay thì đừng quên Like, Share và thường xuyên ghé thăm BachkhoaWiki để cập nhật những kiến thức thú vị hơn nữa nhé.

Bạn đang quan tâm đến Tại sao mỹ có quyền cấm vận các nước khác phải không? Nào hãy cùng VCCIDATA đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy!


Bầu không khí lo ngại bao trùm các doanh nghiệp đang làm ăn tại Iran. Trong những ngày tiếp theo, các tập đoàn xe hơi như Daimler, Wolkswagen [Đức], PSA [Pháp], các công ty dầu khí Total [Pháp], ENI [Ý]… lần lượt tuyên bố ngừng hoạt động hoặc rút khỏi Iran. Tại sao các công ty nói trên, tuy không phải là các doanh nghiệp Mỹ và không có quan hệ kinh tế trực tiếp với các doanh nghiệp Mỹ trên lãnh thổ Iran, lại phải lùi bước trước sự đe dọa của chính quyền Trump ? Đó là vì luật pháp của Mỹ áp dụng nguyên tắc « ngoài lãnh thổ » để buộc các nước khác phải tuân thủ luật pháp của nước Mỹ, phục vụ các lợi ích của nước Mỹ.

Bạn đang xem:

Chuyên gia Ali Laidi, thuộc Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược [IRIS], tác giả cuốn : « Lịch sử chiến tranh kinh tế thế giới » [nxb Perin 2016], cho biết, thực ra ban đầu, chính quyền Mỹ chỉ muốn ngăn chặn tệ nạn các công ty Hoa Kỳ – thông qua các hành vi hối lộ – gây khó khăn cho việc thực hiện chính sách ngoại giao. Điểm khởi đầu là vụ bê bối Bananagate. Năm 1975, Ủy Ban Giao Dịch và Chứng Khoán Hoa Kỳ [SEC] phát hiện ra vụ Công ty United Brands – chuyên xuất khẩu chuối và nông sản – đã hối lộ tổng thống Honduras Oswaldo López Arellano, để tránh chịu mức thuế cao đối với chuối xuất khẩu. Do vậy, năm 1977, Quốc Hội Mỹ đã thông qua đạo luật chống hối lộ các quan chức Nhà nước nước ngoài – Foreign Corrupt Practices Act [FCPA].

Thế nhưng, việc áp dụng đạo luật này có nguy cơ tạo ra tình trạng cạnh trạnh không bình đẳng.

Chuyên gia Ali Laidi cho biết :

« Thậm chí trước khi Đạo luật chống hối lộ quan chức Nhà nước nước ngoài được thông qua, ngay từ năm1976, Hoa Kỳ đã hiểu ra rằng việc áp dụng FCPA có vấn đề. Các doanh nghiệp Mỹ đã báo động với chính quyền Washington về nguy cơ cạnh tranh không bình đẳng. Bởi vì đạo luật FCPA chỉ áp dụng cho các công ty Mỹ trong lúc các đối thủ cạnh tranh nước ngoài vẫn có thể tiếp tục hối lộ các quan chức Nhà nước nước ngoài và qua đó giành được thị trường. Do vậy, Hoa Kỳ tìm mọi cách xuất khẩu FCPA, sao cho tất cả các nước trên thế giới chấp nhận đạo luật này.

Để làm việc này, trước tiên, Mỹ tìm cách thông qua Liên Hiệp Quốc, nhưng không thành. Không chỉ có các nước nghèo, đang phát triển chống lại mà các nước phương Tây, ngay từ năm 1977, đã nhận thấy thông qua đạo luật FCPA, Mỹ sẽ can thiệp vào hoạt động kinh tế của các nước. Chính quyền Mỹ cũng tìm cách thông qua Phòng Thương Mại Quốc Tế, để đề ra quy tắc ứng xử tốt hay quy tắc đạo đức trong kinh doanh… nhưng các doanh nghiệp Mỹ cho rằng chưa đủ. Trong suốt hai thập niên, Hoa Kỳ không ngừng tiến hành vận động, gây sức ép và đến năm 1997, họ đã thành công : Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế – OECD thông qua Công ước chống hối lộ. Nếu so sánh, chúng ta nhận thấy Công ước chống lộ của OECD là một bản sao của FCPA ».

XEM THÊM:  TẠI SAO KHÔNG TRUY CẬP ĐƯỢC TRANG WEB

Chiểu theo nguyên tắc « ngoài lãnh thổ », mọi doanh nghiệp trên thế giới, bất luận là của Mỹ hay ngoại quốc, nếu có các hành vi hối lộ các quan chức Nhà nước ngoại quốc, thì đều có thể bị truy tố. Và đương nhiên, các hành vi nói trên đều có dính dáng đến « yếu tố Hoa Kỳ », ví dụ như sử dụng đồng đô la Mỹ, thông qua ngân hàng Mỹ, thậm chí trao đổi thư điện tử có nội dung hối lộ qua một máy chủ đặt tại Hoa Kỳ…

Điểm đáng chú ý là việc tiến hành truy tố là do bộ Tư Pháp Mỹ chứ không phải các định chế tư pháp Hoa Kỳ. Từ 20 năm qua, tất cả các vụ hối lộ, tham nhũng quan chức Nhà nước nước ngoài không phải là đối tượng đem ra xét xử tại một tòa án Hoa Kỳ.

Xem thêm:

Theo chuyên gia Ali Laidi, ban đầu, Hoa Kỳ cũng không ý thức được tiềm năng của các quy định này có thể sử dụng như là một vũ khí thương mại. Thế nhưng, sau loạt khủng bố tại Mỹ năm 2001, chính quyền Washington mới « ngộ » ra rằng đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ là chống tội phạm, đặc biệt là khủng bố. Do các đối tác phản ứng chậm chạp trong bối cảnh cấp bách chống khủng bố – cụ thể là ngăn chặn các nguồn tài chính của các tổ chức tội phạm và khủng bố, Hoa Kỳ bắt đầu ra tay, nhắm vào một số doanh nghiệp nước ngoài để chứng tỏ là họ không coi nhẹ vấn đề này.

XEM THÊM:  Tại sao công nghệ sinh học là hướng ưu tiên

Société générale gần 2 tỉ đô la, BNP Paribas, gần 9 tỉ… Đó là những khoản tiền mà các doanh nghiệp Pháp bị chính quyền Mỹ phạt. Tại sao Mỹ lại có quyền phạt những khoản tiền khổng lồ như vậy ? Phải chăng là cường quốc số một thế giới, có thị trường rộng lớn và hệ thống ngân hàng tài chính hùng mạnh, đồng đô la chi phối thương mại, tài chính thế giới, Hoa Kỳ có thể bắt chẹt các nước khác ? Thế nhưng, theo giới chuyên gia, Mỹ cũng như mọi quốc gia trên thế giới, có toàn quyền thông qua luật về « ngoài lãnh thổ » để xét xử các vụ ở nước ngoài. Khái niệm cũng như thẩm quyền « ngoài lãnh thổ » có cội nguồn từ một án lệ – còn gọi là « phán quyết Hoa Sen » của Tòa Án Thường Trực Công Lý Quốc Tế [của Hội Quốc Liên] tiền thân của Tòa Án Công Lý Quốc Tế [của Liên Hiệp Quốc].

Sau khi « trang bị » thẩm quyền xét xử các vụ việc bên ngoài lãnh thổ quốc gia, Hoa Kỳ có hai « vũ khí » quan trọng để tấn công các doanh nghiệp ngoại quốc. Đó là đạo luật Helms-Burton, 1996, tăng cường cấm vận đối với Cuba và đạo luật Amato-Kennedy, cũng trong năm 1996, cấm vận kinh tế các Nhà nước « bất hảo » ủng hộ khủng bố quốc tế và trừng phạt các đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tại Iran và Libya.

Câu hỏi đặt ra là các nước khác, đặc biệt là châu Âu, có thái độ ra sao ? Theo chuyên gia Ali Laidi, đó là những phản ứng yếu ớt. Thậm chí châu Âu đã mắc sai lầm nghiêm trọng, khi « không đi tới cùng » để kiện Hoa Kỳ hồi giữa những năm 1990.

« Các nước trên thế giới lên án, các tổ chức khu vực lên án, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở mức hơi bực tức, chứ không có lập trường mạnh mẽ. Thực ra, châu Âu cũng đã có một lần thể hiện lập trường cứng rắn nhưng lại không đi tới cùng, đó là đệ đơn kiện lên Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO [1996] chống lại các hậu quả của đạo luật Helms-Burton. Vào lúc đó Mỹ rất lo ngại vì WTO vừa mới được thành lập [1995], thay thế cho Hiệp Ước Chung về Thuế Quan và Mậu Dịch [General Agreement on Tariffs and Trade – GATT]. Chính Hoa Kỳ đã hỗ trợ, thúc đẩy việc thành lập WTO, do vậy không thể là quốc gia đầu tiên bị kết án tại tổ chức này. Thế rồi, Liên Hiệp Châu Âu đạt được một thỏa hiệp với Mỹ và như vậy, đã bỏ lỡ cơ hội giải quyết dứt điểm vấn đề ngoài lãnh thổ. Nội dung thỏa hiệp rất nhẹ nhàng và hời hợt, theo đó, tổng thống Bill Clinton cam kết không áp dụng đạo luật Helms-Burton, cam kết gặp các dân biểu để khuyến khích họ không áp dụng đạo luật này đối với châu Âu. Có nghĩa là châu Âu đã không phản bác đạo luật của Mỹ và chấp nhận rút đơn kiện Mỹ ».

XEM THÊM:  Tại sao bàn phím số không đánh được

Theo điều tra của chuyên gia Ali Laidi, các doanh nghiệp châu Âu, cụ thể là Pháp « ngoan ngoãn » nộp phạt bởi vì nếu bị cấm vào thị trường Mỹ, cấm giao dịch với các ngân hàng Mỹ, cấm dùng đô la Mỹ…, thì các doanh nghiệp này khó có thể tồn tại. Bên cạnh đó, còn có một yếu tố khác: chính quyền Mỹ thẳng tay bắt giam các lãnh đạo những công ty bị cáo buộc vi phạm luật lệ Hoa Kỳ.

« Có một yếu tố tác động khác xuất hiện trong vài năm gần đây, đặc biệt là sau vụ Alstom. Trong hai năm rưỡi tiến hành điều tra và nghiên cứu, những lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn mà tôi đã gặp đều thể hiện sự sợ hãi. Tôi nhấn mạnh, đó là mối sợ hãi về thể xác, sợ hãi khi phải đối mặt với chính quyền Mỹ, như trường hơp của Frédéric Pierucci, một lãnh đạo thuộc tập đoàn Alstom. Ông đã bị bắt hai lần, mỗi lần 12 tháng giam giữ trong nhà tù Mỹ trong các điều kiện rất khắc nghiệt. Ông đã kể lại mọi việc trong cuốn « Cái bẫy Hoa Kỳ ». Do vậy, họ lựa chọn giải pháp nhượng bộ, chấp nhận cung cấp thông tin cho chính quyền Mỹ cho dù hành động này vi phạm luật pháp của Pháp. Nói tóm lại, họ chấp nhận vi phạm luật của Pháp hơn là không tuân thủ luật pháp Hoa Kỳ ».

Xem thêm:

Trong « Khế ước xã hội » năm 1762, triết gia Pháp Jean Jacques Rousseau đã viết : « Kẻ mạnh nhất không bao giờ đủ mạnh để luôn luôn làm người chủ, nếu y không biết chuyển sức mạnh thành quyền và chuyển sự vâng lời thành bổn phận ».

Chúc các bạn thành công trong cuộc sống!

Vậy là đến đây bài viết về Tại sao mỹ có quyền cấm vận các nước khác đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website VCCIDATA.COM.VN

Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!

Video liên quan

Chủ Đề