Từ an lạc có nghĩa là gì

An lạc là gì? An là sự an định của nội tâm. Lạc là hạnh phúc, vui vẻ. Như thế, An Lạc là niềm hạnh phúc được lưu xuất từ sự an định của nội tâm. An Lạc chỉ xuất hiện khi tâm ta ở trong trạng thái tịch tĩnh: Bên trong không còn bị câu thúc bởi tham sân si, bên ngoài không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, sắc trần. An Lạc khác với Vui vẻ ở hai điều căn bản:

  1. Vui vẻ đến từ bên ngoài còn An lạc đến từ bên trong.
  2. Vui vẻ chỉ là một trạng thái nhất thời còn An lạc, do đến từ tuệ giác, nên một khi đạt được thì nó là vĩnh viễn.

Bởi được lưu xuất từ nội tâm nên An Lạc chỉ có thể có được thông qua tu tập. Chúng ta không thể mong, cũng không thể cầu mà có được được. An lạc xuất từ tâm nhưng có công năng chiêu cảm ra bên ngoài. Đây chính là lý do tại sao khi gần gũi bậc chân tu, ta luôn thấy tâm mình thanh thoát, vui vẻ. Những người có nhân duyên gặp được Ngài Hư Vân, hay Ngài Tuyên Hóa đều trải qua xúc cảm hi hữu này. Ngay như ở Việt Nam ta, nếu duyên gặp các bậc chân tu, bạn cũng sẽ được kinh qua cái xúc cảm lạ lùng ấy.

  • Làm thế nào để biết ai là bậc Chân tu
  • Từ Bi là gì.
  • Trí Huệ là gì.
  • Niết bàn là gì.
  • Cách tụng kinh cho người mới mất
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
  • Kinh Phật đảnh tôn thắng Đà La Ni.
An Lạc là gì

Tu đúng sẽ đến được An Lạc

Bước đầu tiên trên hành trình học Phật của ta là diệt trừ khổ đau, để thân tâm an lạc. Sự an lạc này được hiện diện ngay trong hiện tại, chớ chẳng phải ở một cõi giới xa xôi nào đó. “Chúng ta đi chùa, lạy Phật và học đạo cốt là để có an lạc.

Nhưng nhìn lại nếu thấy bản thân mình chưa có an lạc, gia đình chưa có an lạc thì hoặc là mình tu chưa rốt ráo; hoặc là cái học và tu của mình chưa đúng Chánh pháp. Nếu hành giả thực hành đúng Chánh pháp thì chắc chắn sẽ có an lạc. Nếu chưa được trọn vẹn thì ít ra cũng có an lạc từng phần. Bởi vì những lời dạy của đức Phật là chân thật, đúng theo chân lý nghĩa là sự thật như thế nào thì Ngài nói như thế ấy.

Lời nói của Phật nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người chớ không bao giờ lợi mình hại người khác. Lời nói của Phật trước sau như một luôn nhắc nhở tất cả chúng sinh đi trên con đường giải thoát giác ngộ phải tinh tấn đạt đến cứu cánh tối thượng là trí tuệ Bồ Đề và sau cùng lời dạy của Phật là chân chính, không bao giờ hư vạy.

Tiến trình giải thoát để có an lạc là Giới Định Tuệ. Vì thế người nào giữ Giới nghiêm minh thì chắc chắn họ sẽ có an vui tự tại. Giữ một phần Giới thì có một phần an lạc và cứ như thế mà tiến tu.”[ Lê Sỹ Minh Tùng]

Giữ giới là bước đầu tiên trên hành trình đến An Lạc

Giới luật trong Phật giáo có một giá trị tuyệt đối cho người hành đạo. Bởi vì người giữ giới trong sạch, y theo giới luật tu hành thì tâm mới định và từ đó trí tuệ sẽ phát sinh. Vì vậy có giữ Giới nghiêm minh mới giữ được Phật tâm.

Đối với Phật giáo, giới và hạnh không phải chỉ để giữ mà để tu bởi vì giới là pháp môn tu học chớ không phải là tín điều bắt buộc tín đồ phải giữ. Vì vậy tu giới là thực hành ly dục, ly ác pháp để tâm dần đến chỗ thanh tịnh trong khi giữ giới chỉ có tác dụng tiêu cực cho nên ái dục không giảm, không diệt mất.

Lại giới khiến chúng ta ngăn mình nghĩ ác, làm ác. Tâm không làm ác, thân không làm ác thì tham sân si không có đất để sanh khởi. Mà tam độc không sanh khởi ắt thân tâm được an tịnh. Do đó giữ giới là bước đầu tiên trên hành trình đến an lạc vậy!

Thí dụ một người có thể giữ giới trường chay, nhưng lòng vẫn còn tham ăn, tham mặc…thì ái dục khó dứt nên không có an tịnh. Ngược lại, một người tu giới là họ luôn kiểm soát thân, khẩu, ý và luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm. Do có chánh niệm nên nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau không còn. Bởi phiền não không còn cho nên họ sống trong an lạc, tự tại.

Bốn Hạnh An Lạc

Bốn Hạnh An Lạc được đức Thế Tôn thuyết trong kinh Pháp Hoa. Hòa Thượng Trí Tịnh bảo: “Ngài Văn Thù cho rằng: “Dầu dùng nhẫn lực để trì kinh cũng đã hay. Tuy nhiên việc ấy không bằng làm thế nào để cho khỏi có xảy ra những điều hoạn nạn, khó khăn. Bởi vậy nên ngài bèn thưa thỉnh cùng đức Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn liền nói bốn hạnh an lạc. Các vị pháp sư trì kinh Pháp Hoa ở đời ác sau, nếu có đủ bốn hạnh này thời có thể vì chúng sanh nói kinh Pháp Hoa. Bốn hạnh này giúp khỏi các chướng nạn, thường thường được an vui. Bốn hạnh an lạc là: 

  1. Hành xứ và Thân cận xứ: Chỗ sở hành và chỗ thân cận của Bồ tát phải thường tương ưng với tánh giới. Bề trong thời an trụ nơi đệ nhứt nghĩa thật tướng; bề ngoài thời xa những mầm nạn những ác hạnh, tránh tất cả những điều cơ hiểm. Tương ưng tánh giới; an trụ thật tướng thời tâm an, xa tránh ác hạnh, cơ hiểm, mầm nạn thời thân an. Thân và tâm an thời vì chúng sanh nói kinh Pháp Hoa tất khỏi bị chướng ngại. Cũng có vị Cổ đức cho rằng, hành xứ cùng thân cận xứ là thân nghiệp an lạc hạnh. Lấy ý mà suy thời cùng với nghĩa trên vẫn cũng tương đồng.
  2. Ngừa lỗi nơi khẩu nghiệp và khéo nói pháp: Tức là làm cho mọi người đều hoan hỉ, thời khỏi chướng nạn mà được an vui. Đây chính là khẩu nghiệp an lạc hạnh vậy.
    *
  3. Dứt trừ những tánh đê hèn, như dua dối, ghét ganh v.v… Tức là nơi tâm xa rời tất cả phiền não cấu trược; kính trọng người trên, không khinh kẻ dưới. Được như thế thời không làm bức xúc tâm mọi người, khỏi những điều oán hận mà tự mình được an vui. Ðây thuộc về ý nghiệp an lạc hạnh.
  4. Bồ tát ở đời sau phải sanh lòng từ bi thệ độ tất cả. Như thế thời không xa bỏ chúng sanh thường nguyện giáo hóa, không sanh niệm mỏi mệt nhàm chán. Ðây tức là thệ nguyện an lạc hạnh vậy.

Ðủ bốn hạnh trên đây thời là đủ sức thủ hộ giảng thuyết kinh Pháp Hoa ở đời ác trược vị lai. Nhờ đó mà tránh khỏi chướng nạn, được an ổn vui vẻ.

Bốn hạnh này là phép tắc của đức Thế Tôn truyền dạy để giữ gìn gia nghiệp vĩ đại của đấng cứu thế. Tất cả luật hạnh oai nghi đều gồm nhiếp trong 4 hạnh này. Người xuất gia trong đời mạt pháp, nếu có thể giữ hạnh này hoàn toàn, thời có thể gọi là chẳng phụ ân sâu của Ðức Thế Tôn vậy.

Bạn thân mến! Để hiểu sâu hơn về An Lạc Hạnh, bạn hãy ngồi ngay ngắn, giữ thân tâm thanh tịnh để xem Phẩm An Lạc Hạnh thứ 14, được đức Thế Tôn thuyết trong kinh Pháp Hoa.

Phẩm An Lạc Hạnh: Kinh Pháp Hoa

Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch

Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

*

Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi Đại Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ-nguyện lớn: Ở nơi đời ác sau, hộ-trì đọc nói kinh Pháp-Hoa này”.

Thế-Tôn! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?”

Phật bảo ngài Văn-Thù Sư-Lợi: “nếu vị Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an-trụ trong bốn pháp: .

– Một, an-trụ nơi “hành xứ” và nơi “thân-cận-xứ” của Bồ-tát, thời có thể vì chúng sinh mà diễn nói kinh này. Văn Thù-Sư-Lợi! Thế nào gọi là chỗ “Hành xứ” của đại Bồ-tát? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn-nhục hòa-dịu khéo thuận mà không vụt-chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân-biệt mà quán tưởng như thực của các pháp cũng chẳng vin theo, chẳng phân-biệt, đó gọi là chỗ “hành xứ” của Bồ-tát.

Thế nào gọi là chỗ “thân-cận” của đại Bồ-tát? – Vị đại Bồ tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương tử, đại-thần, quan-trưởng, chẳng gần gũi các ngoại-đạo phạm-chí, ni-kiền-tử, v.v. . . và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại-đạo cùng với phái “lộ-già-da-đà” phái “nghịch-lộ-già-da-đà”, cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung-hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na-la v.v. . . bày các cuộc chơi biến-hiện. Lại chẳng gần-gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn-bắn chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu.

*

Lại chẳng gần-gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người cầu quả Thanh-Văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh-hành, hoặc ở trong giảng-đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp không lòng mong cầu.

Văn-Thù-Sư-Lợi! Lại vị đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là Tướng có thể sinh tư-tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái hóa, v.v. . . chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất-nam để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân-duyên cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật.

Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân-hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ-tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thuyền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Văn Thù-Sư-Lợi! Đó gọi là “chỗ thân-cận” ban đầu.

*

– Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát “Nhất-thiết, pháp không như thật tướng” chẳng điên-đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật-tính, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân-duyên mà có, từ điên-đảo mà sinh cho nên nói, thường ưa quán-sát pháp-tướng như thế đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của vị Đại Bồ-tát. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

*

Nếu có vị Bồ-tát

Ở trong đời ác sau

Lòng không hề sợ-sệt

Muốn nói kinh pháp này

Nên trụ vào “hành-xứ”

Và trụ “thân-cận-xứ”.

Thường xa rời quốc-vương

Và con của quốc-vương

Quan đại-thần, quan lớn

Kẻ chơi việc hung-hiểm

Cùng bọn chiên-đà-la

Hàng ngoại đạo phạm-chí

Cùng chẳng ưa gần-gũi

Hạng người Tăng-thượng-mạn

Hàng học giả tham chấp

Kinh, luật, luận tiểu-thừa

Những Tỷ-khiêu phá giới

Danh tự A-la-hán

Và những Tỷ-khiêu-ni

Ưa thích chơi giỡn cười

Các vị Ưu-bà-di

Tham mê năm món dục

Cầu hiện-tại diệt-độ

Đều chớ có gần-gũi.

Nếu những hạng người đó

Dùng tâm tốt mà đến 

Tại chỗ của Bồ-tát

Để vì nghe Phật-đạo

Bồ-tát thời nên dùng

Lòng không chút sợ-sệt

Chẳng có niệm mong cầu

Mà vì chúng nói pháp.

Những gái hóa, gái trinh

Và các kẻ bất-nam

Đều chớ có gần gũi

Để cùng làm thân-hậu.

Cũng chớ nên gần-gũi

Kẻ đồ-tể cắt thái

Săn bắn và chài lưới

Vì lợi mà giết hại

Bán thịt để tự sống

Buôn bán sắc gái đẹp

Những người như thế đó

Đều chớ có gần-gũi.

Các cuộc chơi giỡn dữ

Hung-hiểm đâm đánh nhau

Và nhưng dâm nữ thảy 

Trọn chớ có gần-gũi.

Chớ nên riêng chỗ khuất

Vì người nữ nói pháp

Nếu lúc vì nói pháp

Chẳng được chơi giỡn cười

Khi vào xóm khất thực

Phải dắt một Tỷ-khiêu

Nếu không có Tỷ-khiêu

Phải một lòng niệm Phật

Đây thời gọi tên là

“Hành-xứ” “thân-cận-xứ”.

*

Dùng hai xứ trên đây

Có thể an-lạc nói.

Lại cũng chẳng vịn theo

Pháp thượng, trung và hạ

Hữu-vi hay vô-vi

Thực cùng pháp chẳng thực

Cũng chẳng có phân-biệt

Là nam là nữ thảy

Lại chẳng được các pháp

Chẳng biết cũng chẳng thấy 

Đây thời gọi tên là

“Hành-xứ” của Bồ-tát.

Tất cả các món pháp

Đều không, chẳng chỗ có

Không có chút thường-trụ

Vẫn cũng không khởi diệt

Đây gọi là “thân-cận”

Chỗ người trí hằng nương.

Chớ đảo-điên phân-biệt

Các pháp có hoặc không

Là thực, chẳng phải thực

Là sinh chẳng phải sinh,

Ở an nơi vắng-vẻ

Sửa trao nhiếp tâm mình

An-trụ chẳng lai độn

Như thể núi Tu-Di

Quán-sát tất cả pháp

Thảy đều không thực có

Dường như khoảng hư-không

Không có chúc bền chắc.

Chẳng sinh cũng chẳng xuất 

Chẳng động cũng chẳng thối

Thường-trụ một tướng-thể

Đó gọi là “cận-xứ”.

Nếu có vị Tỷ-khiêu

Sau khi ta diệt độ

Vào được “hành-xứ” đó

Thời lúc nói kinh này

Không có lòng e sợ

Vị Bồ-tát có lúc

Vào nơi nhà tịnh-thất

Lòng nghĩ nhớ chân chính

Theo đúng nghĩa quán pháp.

Từ trong thuyền-định dậy

Vì các bậc Quốc-vương

Vương-tử và quan, dân

Hàng Bà-la-môn thảy

Mà khai-hóa diễn-bày

Rộng nói kinh điển này

Tâm vị đó an-ổn

Không có chút khiếp-nhược.

Văn-Thù-Sư-Lợi này!   

Đó gọi là Bồ-tát

An-trụ trong sơ-pháp

Có thể ở đời sau

Diễn nói kinh Pháp-Hoa.

*

– Lại Văn-Thù Sư-Lợi! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, ở trong đời mạt-pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an-lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác.

Ở nơi hàng Thanh-văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen-ngợi điều tốt của người đó.Lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an-lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu-thừa đáp, chỉ dùng pháp đại-thừa mà vì đó  giải nói làm cho được bậc “Nhất-thiết chủng-trí.”Khi ấy, Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

*

Vị Bồ-Tát thường ưa

An-ổn nói kinh pháp

Ở nơi chỗ thanh-tịnh

Mà sắp đặt sàng tòa

Dùng hương dầu xoa thân

Tắm gội các bụi dơ

Mặc y mới sạch-sẽ

Trong ngoài đều sạch thơm

Ngồi an nơi pháp-tòa

Theo chổ hỏi vì nói.

Nếu có vị Tỷ-khiêu

Cùng với Tỷ-khiêu-ni

Các hàng Ưu-bà-tắc

Và hàng Uu-bà-di

Quốc-vương và vương-tử,

Các quan cùng sĩ-dân

Dùng pháp nghĩa nhiệm-mầu 

Vui-vẻ vì họ nói

Nếu có người gạn hỏi

Theo đúng nghĩa mà đáp

Nhân-duyên hoặc thí-dụ

Giải-bày phân-biệt nói

Dùng trí phương-tiện này

Đều khiến kia phát tâm

Lần lần thêm đông nhiều

Vào ở trong Phật-đạo.

Trừ lòng lười biếng trễ

Cùng với tưởng giải-đãi

Xa rời các ưu-não

Tâm từ lành nói pháp

Ngày đêm thường tuyên nói

Giáo-pháp vô-thượng đạo

Dùng các việc nhân-duyên

Vô-lượng món thí-dụ

Mở bày dạy chúng-sinh

Đều khiến chúng vui mừng

Y-phục cùng đồ nằm

Đồ ăn uống thuốc thang   

Mà ở nơi trong đó

Không có chỗ mong cầu

Chỉ chuyên một lòng nhớ

Nhân-duyên nói kinh pháp

Nguyện ta thành Phật-đạo

Khiến mọi người cũng vậy

Đó là lợi lành lớn

Là an-vui cúng dàng

Sau khi ta diệt-độ

Nếu có vị Tỷ-khiêu

Có thể diễn nói được

Kinh Diệu-Pháp-Hoa này

Lòng không chút ghen hờn

Không các não chướng-ngại

Cũng lại không ưu-sầu

Và cùng mắng nhiếc thảy

Lại cũng không sợ-sệt

Không dao gậy đánh đập

Cũng không xua-đuổi ra

Vì an-trụ nhẫn vậy

Người trí khéo tu-tập   

Tâm mình được dường ấy

Thời hay trụ an-lạc

Như ta nói ở trên

Công-đức của người đó

Trong nghìn muôn ức kiếp

Tính kể hay thí-dụ

Nói chẳng thể hết được.

*

– Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thụ trì đọc-tụng kinh-điển này, chớ ôm lòng ghen-ghét dua-dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỷ-khiêu, Tỷ khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh-Văn, hoặc cầu Duyên-giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sinh lòng nghi hối mà nói với người rằng: “Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc nhất-thiết chủng-trí. Vì sao? “Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đói với đạo”.

Lại cũng chẳng nên hí-luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng-sinh, khởi tưởng đại-bi, đói với các đức Như Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát, tưởng là bậc đại-sư, với các Đại Bồ-tát ở mười-phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất-cả chúng-sinh đều bình- đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều.

Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an-lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng thường đến nghe thụ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng-dàng kinh quyển cung-kính tôn trọng ngợi khen.Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

*

– Nếu muốn nói kinh này

Phải bỏ lòng ghen hờn

Ngạo dua-dối tà-ngụy

Thường tu hạnh chất trực

Chẳng nên khinh miệt người

Cũng chẳng hí-luận pháp

Chẳng khiến kia nghi-hối

Rằng ngươi chẳng thành Phật,

Phật-tử đó nói pháp

Thường nhu-hòa hay nhẫn

Từ-bi với tất cả

Chúng-sinh lòng biếng trễ

Bồ-tát lớn mười-phương

Thương chúng nên hành đạo   

Phải sinh lòng cung-kính

Đó là Đại-sư ta,

Với các Phật Thế-Tôn

Tưởng là cha vô-thượng,

Phá nơi lòng kiêu-mạn

Nói pháp không chướng-ngại

Pháp thứ ba như thế

Người trí phải giữ-gìn

Một lòng an-lạc hạnh

Vô-lượng chúng cung-kính.

*

– Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp-Hoa này ở trong hàng người tại-gia, xuất-gia sinh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sinh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như-Lai phương-tiện tùy nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được vô thượng chính-đẳng chính-giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí-tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này.

Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như-Lai diệt-độ nếu thành-tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm-lỗi, thường được hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc-vương, vương-tử, đại-thần nhân-dân bà-la-môn, cư-sĩ thảy cúng-dàng cung-kính tôn trọng ngợi-khen, hàng chư thiên ở trên hư-không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng-vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng.

Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá khứ, vị-lai, hiện-tại giữ-gìn vậy. Văn Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này ở trong vô-lượng cõi nước, nhẫn đến danh-tự còn chẳng nghe được, hà huống là được thấy thụ-trì đọc tụng.

*

Văn-Thù-Sư-Lợi! Thí như vua Chuyển-luân-thánh-vương sức lực mạnh-mẽ muốn dùng uy-thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mệnh-lệnh, bấy giờ Chuyển-luân-thánh vương đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban.

Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y-phục trang-nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân-bảo, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-nảo, san-hô, hổ phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi-tớ, nhân dân, chỉ viên minh-châu trong búi tóc chẳng đem cho đó.Vì sao? Vì riêng trên đỉnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến-thuộc của vua ắt rất kinh lạ.

Văn-Thù-Sư-Lợi! Như-Lai cũng như thế, dùng sức thuyền-định trí-tuệ được cõi nước pháp, giáo-hóa trong ba cõi mà ma-vương chẳng khứng thuận-phục, các tướng hiền thánh của Như-Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thuyền-định, giải-thoát, vô-lậu căn-lực. Và lại ban cho thành Niết-Bàn, bảo rằng được diệt-độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này.

*

Văn-Thù-Sư-Lợi! Như vua Chuyển-Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh-châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như-Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp-vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo-hóa tất cả chúng-sinh. Thấy quân hiền-thánh cùng ma ngũ-ấm, ma phiền-não, ma chết, đánh nhau có công lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như-Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp-hoa này có thể khiến chúng-sinh đến bậc “nhất-thiết trí” là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán-ghét, khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó.

Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là lời nói bậc nhất của Như-Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh-châu mà nay mới cho đó.

Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là tạng bí-mật của các đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ-gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó.Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

*

Thường tu-hành nhẫn-nhục

Thương xót tất cả chúng

Mới có thể diễn nói

Kinh của Phật khen ngợi.

Đời mạt-thế về sau

Người thụ-trì kinh này

Với tại-gia, xuất-gia

Và chẳng phải Bồ-tát,

Nên sinh lòng từ-bi

Những người đó chẳng nghe

Chẳng tin kinh pháp này

Thời là mất lợi lớn 

Khi ta chứng Phật-đạo

Dùng các sức phương-tiện

Vì nói kinh pháp này

Làm cho trụ trong đó.

Thí như vua Chuyển-Luân

Thánh-vương có sức mạnh

Binh tướng đánh có công

Thưởng ban những đồ vật

Voi, ngựa và xe-cộ

Đồ trang-nghiêm nơi thân,

Và những ruộng cùng nhà

Xóm làng thành ấp thảy

Hoặc ban cho y-phục

Các món trân báu lạ

Tôi-tớ cùng của cải

Đều vui mừng ban cho,

Nếu có người mạnh-mẽ

Hay làm được việc khó

Vua mới mở búi tóc

Lấy minh-châu cho đó.

Đức Như-Lai cũng thế 

Là vua trong các pháp

Nhẫn-nhục sức rất lớn

Tạng báu trí-tuệ sáng

Dùng lòng từ-bi lớn

Đúng như pháp độ-đời

Thấy tất cả mọi người

Chịu các điều khổ-não

Muốn cầu được giải-thoát

Cùng các ma đánh nhau

Phật vì chúng-sinh đó

Nói các món kinh pháp

Dùng sức phương-tiện lớn

Nói các kinh điển đó,

Đã biết loài chúng-sinh

Được sức mạnh kia rồi

Rốt sau mới vì chúng

Nói kinh Pháp-Hoa này

Như vua thánh mở tóc

Lấy minh-châu cho đó.

*

Kinh này là bậc tôn

Trên hết trong các kinh   

Ta thường giữ-gìn luôn

Chẳng vọng vì mở bày

Nay chính đã phải lúc

Vì các ông mà nói.

Sau khi ta diệt-độ

Người mong cầu Phật-đạo

Muốn được trụ an-ổn

Diễn nói kinh pháp này

Phải nên thường gần-gũi

Bốn pháp trên như thế.

Người đọc tụng kinh này

Thường không bị ưu-não

Lại không có bệnh đau

Nhan-sắc được trắng sạch

Chẳng sinh nhà bần-cùng

Dòng ti-tiện xấu-xa

Chúng-sinh thường ưa thấy.

Như ham-mộ hiền-thánh

Các đồng-tử cõi trời

Dùng làm kẻ sai khiến

Dao gậy chẳng đến được

Độc dữ chẳng hại được

Nếu người muốn mắng-nhiếc

Miệng thời liền ngậm bít

Dạo đi không sợ-sệt

Dường như sư-tử vương

Trí-tuệ rất sáng-suốt

Như mặt trời chói sáng.

Nếu ở trong chiêm-bao

Chỉ thấy những việc tốt

Thấy các đức Như-Lai

Ngồi trên tòa sư-tử

Các hàng chúng tỷ-khiêu

Vây quanh nghe nói pháp.

Lại thấy các long-thần

Cùng A-tu-la thảy

Số như cát sông Hằng

Đều cung-kính chắp tay

Tự ngó thấy thân mình

Mà vì chúng nói pháp.

*

Lại thấy các đức Phật

Thân tướng thuần sắc vàng   

Phóng vô-lượng hào-quang

Soi khắp đến tất cả

Dùng giọng tiếng phạm-âm

Mà diễn nói các pháp

Phật vì hàng tứ-chúng

Nói kinh pháp vô-thượng

Thấy thân mình ở trong

Chắp tay khen-ngợi Phật

Nghe pháp lòng vui mừng

Mà vì cúng-dàng Phật

Được pháp Đà-la-ni

Chứng bậc bất-thối-trí,

Phật biết tâm người đó

Đã sâu vào Phật-đạo

Liền vì thụ-ký cho

Sẽ thành tối chính-giác.

Thiện-nam-tử ngươi này!

Sẽ ở đời vị-lai

Chứng được vô-lượng trí

Nên đạo lớn của Phật,

Cõi nước rất nghiêm tịnh 

Rộng lớn không đâu bằng

Cũng có hàng tứ-chúng

Chắp tay nghe nói pháp.

Lại thấy thân của mình

Ở trong rừng núi vắng

Tu-tập các pháp lành

Chứng thực-tướng các pháp

Sâu vào trong thuyền-định

Thấy các Phật mười-phương

Các Phật thân sắc vàng

Trăm phước tướng trang-nghiêm

Nghe pháp vì người nói

Thường có mộng tốt đó.

Lại mộng làm quốc-vương

Bỏ cung-điện quyến-thuộc

Và ngũ-dục thượng diệu

Đi đến nơi đạo-tràng

Ở dưới gốc Bồ-Đề

Mà ngồi tòa sư-tử

Cầu đạo quá bảy ngày

Được trí của các Phật 

Thành đạo vô-thượng rồi

Dậy mà chuyển pháp-luân

Vì bốn-chúng nói pháp

Trải nghìn muôn ức kiếp

Nói pháp mầu vô-lậu

Độ vô-lượng chúng-sinh

Sau sẽ vào Niết-bàn

Như khói hết đèn tắt.

Nếu trong đời ác sau

Nói pháp bậc nhất này

Người đó được lợi lớn

Các công-đức như trên.

*****

[ An Lạc là gì ]

Tuệ Tâm 2021.

Chủ Đề