Trình bày những hiệu biệt của ảnh chỉ về thị trường lúa gạo Việt Nam

Nông dân thu hoạch lúa. [Ảnh: Duy Khương/TTXVN]

Hiện nay, không chỉ người tiêu dùng thế giới mà ngay cả người tiêu dùng trong nước cũng có những đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng lúa gạo. Vì thế, để tận dụng những lợi thế đã có và tăng xuất khẩu gạo,  ngành hàng lúa gạo Việt Nam cần theo dõi sát nhu cầu thị trường và loại bỏ tư duy sản xuất cũ, hướng đến một nền nông nghiệp bền vững.

Tăng cường mở rộng thị trường

Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh An Giang Trần Thanh Tâm cho biết 8 tháng năm 2020, xuất khẩu gạo của tỉnh An Giang đạt 343,26 nghìn tấn, tương đương 185,23 triệu USD; so với cùng kỳ tăng 5,53% về sản lượng và tăng 12,82% về kim ngạch.

Tính riêng trong tháng 8/2020, xuất khẩu gạo ước đạt 40,78 nghìn tấn, tương đương 22,82 triệu USD; so với cùng kỳ tăng 15,13% về lượng và 32,08% về giá trị.

Theo ông Tâm, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng một phần là do nhu cầu thu mua dự trữ để ứng phó dịch COVID-19 của nhiều quốc gia.

Ngoài ra, việc gạo ST25 của Việt Nam đoạt danh hiệu “Gạo ngon nhất thế giới” đã tạo ra sự chú ý đặc biệt của người tiêu dùng, góp phần quan trọng tiêu thụ và nâng cao giá trị cho gạo Việt.

Số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang từ đầu tháng 9/2020 đến nay cho thấy, giá lúa tươi thường trên địa bàn tỉnh hiện dao động từ 6.000-6.200 đồng/kg [tương đương tuần trước]; các loại lúa chất lượng cao giá ổn định, như: Jasmine từ 6.100-6.300 đồng/kg, lúa OM từ 5.950-6.300 đồng/kg...

Về gạo, giá gạo thường dao động từ 10.000-11.500 đồng/kg, gạo Jasmine từ 15.000-15.500 đồng/kg, gạo trắng thông dụng 11.500 đồng/kg, gạo Nhật 22.500 đồng/kg...

Hiện, lúa Hè Thu đã được thu hoạch xong, trong khi lúa Thu Đông sớm chỉ mới bắt đầu thu hoạch ở một số địa phương, ước năng suất bình quân đạt 5,2 tấn/ha [giảm 0,38 tấn/ha so với cùng kỳ 2019].

Mặc dù năng suất không cao nhưng lúa lại có giá [giống lúa OM 5451 bán với giá 5.600-5.700 đồng/kg; Ðài thơm 8 có giá 6.100-6.300 đồng/kg; nếp 6.000-6.300 đồng/kg lúa tươi mua tại ruộng...] nên lợi nhuận trồng lúa năm nay của người nông dân cao hơn so với các vụ mùa năm trước.

Theo nhận định của các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh, xuất khẩu gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long, hiện giá lúa ở mức cao, tạo cơ hội tốt cho nông dân cũng như đơn vị chế biến xuất khẩu gạo.

Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An [Cần Thơ] cho biết doanh nghiệp vừa xuất khẩu 6 container, tương đương khoảng 150 tấn gạo thơm trong tổng khối lượng theo hợp đồng xuất khẩu 3.000 tấn sang thị trường EU, với giá trên 1.000 USD/tấn ST20 [gạo 5% tấm] và trên 600 USD/tấn gạo Jasmine.

Theo ông Bình, giá gạo hiện nay đang có lợi cho người trồng lúa, cho doanh nghiệp xuất khẩu và có thể duy trì mức giá cao như hiện nay vì nhiều lý do, nhưng phần lớn là do cung-cầu thị trường.

"Tổng sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đến thời điểm này đã giảm so với cùng kỳ, trong khi nhu cầu của thế giới tăng do dịch COVID-19 và một số thị trường chính như Trung Quốc đang gánh chịu thiên tai nặng nề nên giá gạo vẫn cao trong những tháng sắp tới," ông Bình nhận định.

Ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, cho biết An Giang là một trong những tỉnh đứng đầu về sản xuất lúa gạo của cả nước, góp phần đáng kể vào đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu. Tỉnh luôn đảm bảo tổng diện tích xuống lúa hằng năm ổn định ở mức khoảng 600.000ha, sản lượng bình quân xấp xỉ 4 triệu tấn lúa/năm.

Năm 2019, An Giang xuất khẩu 454.200 tấn gạo, tương đương 223,8 triệu USD. Dự kiến năm 2020, sản lượng lúa của An Giang đạt hơn 4 triệu tấn và giá lúa đang ở mức cao. Sở Công Thương dự báo kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2020 có thể đạt 260 triệu USD, tăng 20% so năm 2019.

Trong 6 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu nông, thủy sản của tỉnh An Giang vào các nước thành viên EU đạt 26 triệu USD. Theo ông Lâm, việc xuất khẩu hàng hóa vào thị trường châu Âu của tỉnh An Giang thời gian qua còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Do vậy, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu [EVFTA] có hiệu lực sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu nông sản của tỉnh vào thị trường hơn 500 triệu dân này, nhất là mặt hàng gạo và thủy sản.

[Đảm bảo các quy định về chứng nhận gạo thơm xuất khẩu vào EU]

"Hiện nay, tỉnh đã xây dựng một số nội dung trọng tâm hỗ trợ các doanh nghiệp của tỉnh tiếp cận EVFTA như chủ động tăng cường công tác kết nối với các tham tán thương mại tại các nước là thành viên của Hiệp định EVFTA để hỗ trợ, giới thiệu thông tin của doanh nghiệp 2 nước; cung cấp thông tin doanh nghiệp EU có nhu cầu nhập khẩu gạo và thủy sản, rau quả của Việt Nam để thông tin đến cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh, từ đó thúc đẩy giao thương hàng hóa," ông Lâm chia sẻ.

Khẳng định vị thế gạo Việt

Những tín hiệu tích cực từ ngành hàng gạo Việt cho thấy một bước chuyển mới. Xuất khẩu gạo tăng trưởng về chất lượng, giá bán, giá trị và số lượng gạo thơm vươn lên chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng bên cạnh việc tập trung xây dựng thương hiệu, ngành hàng lúa gạo Việt Nam cần tiếp tục thực thi nhiều cơ chế, chính sách giải pháp xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo hoàn chỉnh.

Theo ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Lộc Trời, nông nghiệp tiếp tục sẽ là lĩnh vực thu hút sự đầu tư mạnh mẽ trong thời gian tới với nhiều nguồn lực về tài chính, tri thức, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ để cùng hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững. Từ đó, giá trị nông sản và tiếng nói, vị thế của nông dân Việt trên thị trường thế giới cũng được nâng cao.

Bên cạnh đó, hạt gạo Việt Nam nếu được sản xuất theo các quy trình bền vững như SRP, Global GAP, Viet GAP… sẽ có cơ hội lớn để tiếp cận các thị trường cao cấp.

Đối với Tập đoàn Lộc Trời, ngay từ cuối năm 2016, Lộc Trời bắt đầu triển khai sản xuất lúa gạo bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế [SRP]. Ðây là bộ tiêu chuẩn đầu tiên trên thế giới về sản xuất lúa gạo bền vững có tiêu chí nhấn mạnh các yếu tố kinh tế-xã hội, môi trường và 8 vấn đề bảo đảm sản xuất lúa gạo bền vững như: quản lý tốt đồng ruộng, sử dụng nguồn tài nguyên nước hợp lý, quản lý sâu bệnh, quản lý dinh dưỡng, giảm thất thoát sau thu hoạch, bộ tiêu chí coi trọng an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn sức khỏe cho người lao động, người tiêu dùng.

Vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đến nay, toàn bộ vùng nguyên liệu sản xuất lúa gạo của Tập đoàn Lộc Trời với gần 12.000ha đều đã sản xuất thành công gạo theo tiêu chuẩn SRP. Mô hình này giúp nông dân giảm khoảng 15% chi phí đầu tư cho thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ sức khỏe nông dân và bảo vệ môi trường.

"Việc áp dụng bộ tiêu chí sản xuất lúa bền vững do SRP ban hành sẽ giúp người nông dân sản xuất ra hạt gạo an toàn, chất lượng. Bà con nông dân khi hợp tác sản xuất với Tập đoàn Lộc Trời sẽ được "lực lượng 3 cùng" của tập đoàn sát cánh hỗ trợ trong suốt mùa vụ để đảm bảo việc tuân thủ các quy trình kiểm soát đồng ruộng," ông Huỳnh Văn Thòn khẳng định.

Dẫn chứng cụ thể hơn, giáo sư, tiến sỹ Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ - một chuyên gia hàng đầu về Nông nghiệp Việt Nam, cho biết để hạt gạo Việt tận dụng lợi thế của EVFTA và chắc chân tại thị trường EU cũng như một số thị trường khác, trước hết, người nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải sản xuất theo đúng quy trình chất lượng an toàn trên cơ sở ứng dụng tự động hóa, cơ giới hóa trong nông nghiệp.

Chuẩn bị nguồn hàng gạo xuất khẩu. [Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN]

Nông dân phải thay đổi tư duy canh tác kiểu cũ [lạm dụng phân, thuốc hóa học] sang canh tác hữu cơ, theo quy trình nông nghiệp an toàn [sử dụng phân hữu cơ, phân sinh học và một ít phân hóa học].

Trong khi đó, doanh nghiệp phải hợp tác với nông dân thông qua các mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới để từ đó xây dựng được những vùng nguyên liệu rộng lớn, có xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng, áp dụng quy trình sản xuất chất lượng an toàn cho chuỗi cung ứng nguyên liệu của mình và bao tiêu sản phẩm của người nông dân.

"Rất tự hào vì đã có không ít doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam tổ chức được các vùng nguyên liệu sản xuất theo quy trình nông nghiệp an toàn, nông nghiệp hữu cơ, sản phẩm gạo đạt chất lượng an toàn theo chuẩn EU. Có được chứng nhận này thì hạt gạo Việt Nam đi Mỹ, Australia, Nhật Bản... rất dễ," giáo sư, tiến sỹ Võ Tòng Xuân nhấn mạnh./.

Công Mạo [TTXVN/Vietnam+]

Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo để nâng cao giá trị gia tăng

[ĐCSVN] - Lúa gạo là một trong những ngành hàng có thế mạnh của ngành nông nghiệp nước ta. Để vượt qua những thách thức trước tác động của biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe của các thị trường,…và góp phần đảm bảo an ninh lương thực, đạt giá trị xuất khẩu cao, ngành hàng này cần được tái cơ cấu lại và bám sát những định hướng cụ thể về thị trường nội địa và thế giới.

Trước những thách thức mới, ngành hàng lúa gạo cần tái cơ cấu lại để nâng cao giá trị gia tăng [Ảnh: BT]

Hướng đến nâng cao tỷ lệ gạo có giá trị

Ngành lúa gạo có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt góp phần cho đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đây cũng là ngành có lợi thế về điều kiện sinh thái để sản xuất. Tuy nhiên, theo Bộ NN&PTNT, sự phát triển của ngành lúa gạo đang đứng trước nhiều thử thách do hiệu quả thấp và tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt ở những vùng đồng bằng sản xuất lúa trọng điểm.

Để vượt qua thử thách, phát huy lợi thế và giữ vững vị trí quan trọng của lĩnh vực trồng trọt, ngành lúa gạo cần được tiếp tục tái cơ cấu đến năm 2025 và 2030 nhằm đáp ứng những yêu cầu mới cho sự phát triển cao hơn và bền vững hơn.

Trên cơ sở đó, theo Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030, Việt Nam định hướng tái cơ cấu lại ngành hàng này theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững. Đồng thời hướng tới mục tiêu đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và nâng cao chất lượng, giá trị dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ đây, hình thành và nâng cao được hiệu quả chuỗi giá trị lúa gạo, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu và nâng cao thu nhập của nông dân cũng như lợi ích cho người tiêu dùng.

Theo Bộ NN&PTNT, đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu giữ diện tích đất lúa từ 3,6-3,7 triệu ha, sản lượng lúa từ 40-41 triệu tấn. Về khối lượng xuất khẩu, khoảng 5 triệu tấn gạo. Trong đó loại gạo thơm, đặc sản và gạo japonica chiếm 40%, gạo nếp 20%, gạo trắng phẩm chất cao 20%, gạo phẩm cấp trung bình và thấp 15%, sản phẩm chế biến từ gạo 5%; tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 20%.

Đồng thời, đến năm 2030, đảm bảo tối thiểu sản lượng đạt 35 triệu tấn lúa/năm và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo. Tuy nhiên, trong đó, loại gạo thơm, đặc sản và gạo japonica chiếm 45%, gạo nếp 20%, gạo trắng phẩm chất cao 15%, gạo phẩm cấp trung bình và thấp 10%, sản phẩm chế biến từ gạo 10%; tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 40%.

Để đạt được mục tiêu này, Bộ NN&PTNT định hướng cần hạn chế việc chuyển đổi ở những nơi đất lúa có độ phì cao và có hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh; chấm dứt tình trạng bỏ hoang đất lúa. Đồng thời, diện tích gieo trồng lúa chuyển đổi linh hoạt theo hướng tăng tỷ lệ diện tích lúa luân canh [với rau màu, thủy sản] đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Đặc biệt, với Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước, đây là vùng có lợi thế trong sản xuất lúa, đóng góp trên 50% sản lượng lúa cả nước và có khối lượng lúa dư thừa lớn để cung cấp cho thị trường ngoài vùng và 90% lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, đây lại là vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nặng nề nhất, trong đó xâm nhập mặn và hạn gia tăng và sự thiếu hụt nguồn nước ngọt từ sông Cửu Long sẽ là những trở ngại cho sự phát triển bền vững của vùng lúa trọng điểm của cả nước. Do vậy, với vùng này, theo Bộ NN&PTNT, cần sản xuất lúa thích ứng với biến đổi khí hậu; nâng cao giá trị và hiệu quả thông qua nâng cao chất lượng lúa gạo; mở rộng liên kết sản xuất - tiêu thụ.

Với Đồng bằng sông Hồng - vựa lúa của phía Bắc. Đây là vùng sản xuất lúa hướng đến thị trường nội địa, bao gồm thị trường lớn là Hà Nội và các đô thị trong vùng, với xu thế tiêu dùng gạo đặc sản, gạo chất lượng cao gia tăng. Do vậy, vùng cần sản xuất lúa chất lượng cao theo thị hiếu tiêu dùng, trong đó quy hoạch các vùng sản xuất lúa đặc sản địa phương, lúa nếp, lúa japonica, trong sản xuất, cần tăng cường ứng dụng cơ giới hóa và công nghệ cao.

Thị trường là yếu tố quyết định

Để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu cho phát triển ngành hàng lúa gạo, không chỉ đơn thuần về công tác sản xuất mà thị trường còn là yếu tố quyết định đến hiệu quả của ngành hàng.

Bộ NN&PTNT xác định sản xuất lúa trong nước [trừ Đồng bằng sông Cửu Long] phục vụ chủ yếu cho tiêu dùng nội địa. Vì vậy, phát triển thị trường gạo trong nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng bền vững của ngành lúa gạo.

Hiện nay và trong tương lai về số lượng nguồn cung gạo cho thị trường nội địa được bảo đảm, tuy nhiên về tính hiệu quả cần tiếp tục nâng cao theo hướng phát triển chuỗi cung ứng gạo đến các trung tâm tiêu thụ lớn và phát triển hệ thống bán lẻ ở khu vực nông thôn, đảm bảo người dân vùng sâu, vùng xa được tiếp cận nguồn cung mọi thời điểm. Đồng thời, mọi loại gạo đều phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Bộ NN&PTNT nhận định, xu hướng chung hiện nay trong tiêu thụ gạo nội địa là nhu cầu các loại gạo đặc sản, gạo thơm, chất lượng cao và gạo hữu cơ, đồng thời là nhu cầu gạo cho chế biến gia tăng. Do vậy, các vùng sản xuất cho tiêu thụ nội địa cần có cơ cấu giống phù hợp, trong đó ngoài các giống chủ lực cần khai thác các giống đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý.

Đặc biệt về xuất khẩu gạo, theo Bộ NN&PTNT, cần tiếp tục thực hiện Chiến lược xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2017- 2020 và tầm nhìn 2030 [theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 3/7/2017] và Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [Quyết định số 706/QĐ-TTg ngày 21/5/2015].

Bên cạnh đó, tăng cường chọn tạo và phát triển giống lúa đáp ứng cơ cấu chủng loại gạo theo chiến lược xuất khẩu. Trong đó cần ưu tiên cho giống lúa thơm, đặc sản và phát triển các vùng sản xuất tập trung theo giống được xác định có sự liên kết sản xuất - tiêu thụ, xuất khẩu. Kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất để sản phẩm có chất lượng đồng nhất và đảm bảo các chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm. Về vấn đề này, cần đáp ứng tuyệt đối quy định mức dư lượng tối đa cho phép của thuốc bảo vệ thực vật và truy xuất được nguồn gốc.

Ngoài ra, để đảm bảo xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao, cần cụ thể hóa chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thương hiệu và được gắn nhãn chứng nhận quốc gia gạo Việt Nam [Vietnam Rice]. Hỗ trợ thiết lập các văn phòng giới thiệu, quảng bá gạo Việt Nam ở các thị trường trọng điểm.

Cũng theo Bộ NN&PTNT, cần thực hiện có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do [FTA] để phát triển thị trường xuất khẩu gạo, trong đó tận dụng khả năng gạo xuất khẩu của Việt Nam có điều kiện thâm nhập các phân khúc gạo cao cấp; hỗ trợ các hoạt động quốc tế quảng bá gạo Việt Nam, tổ chức Festival lúa gạo Việt Nam ở nước ngoài và tham gia các diễn đàn quốc tế về lúa gạo,… nhằm góp phần đưa giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam tiếp tục đạt giá trị cao./.

BT

Video liên quan

Chủ Đề