14/06/2021 09:29
TỔNG ĐẠI DIỆN Tổng đại diện là đấng bản quyền thay mặt Giám Mục đứng đầu việc hành pháp và giúp Giám Mục trong việc cai quản giáo phận.
1.1. Việc bổ nhiệm Trong mỗi giáo phận, Giám Mục giáo phận phải đặt một Tổng Đại Diện với quyền hành thông thường, để giúp ngài trong việc lãnh đạo toàn Giáo phận. Tổng đại diện do Giám Mục chỉ định hoặc linh mục đoàn bầu. 1.2. Điều kiện của ứng viên Phải là tư tế không dưới ba mươi tuổi, có bằng tiến sĩ hoặc cử nhân Giáo Luật hay Thần Học, hoặc ít là phải thực sự thành thạo các môn đó, trổi vượt về học thuyết lành mạnh, đức độ, khôn ngoan, và kinh nghiệm trong việc điều khiển công việc. Có uy tín trước linh mục đoàn. 1.3. Quyền hành và nhiệm vụ “Tổng Đại Diện, chiếu theo chức vụ, trong toàn giáo phận có quyền hành pháp mà theo giáo luật thuộc về Giám Mục Giáo phận, tức là quyền thực hiện tất cả mọi công việc hành chính, trừ những công việc mà Giám Mục đã dành riêng cho mình hoặc những công việc mà luật đòi phải có sự uỷ nhiệm đặc biệt của Giám Mục” . 1.4. Nhiệm kỳ và mãn nhiệm Nhiệm kỳ 5 năm Mãn nhiệm : Quyền hành của Tổng Đại Diện chấm dứt khi sự ủy nhiệm mãn hạn, khi từ nhiệm, khi sự giải nhiệm được Giám Mục Giáo phận thông báo và khi toà giám mục khuyết vị, khi nhiệm vụ của Giám Mục Giáo phận bị đình chỉ, trừ khi các ngài có chức Giám Mục. 2. ĐẠI DIỆN GIÁM MỤC Đại diện Giám Mục là Đấng Bản Quyền được Giám Mục chỉ định để giúp ngài trong một phạm vi cụ thể. 1.1. Việc bổ nhiệm Khi nào thấy cần cho việc quản trị chính đáng của giáo phận, Giám Mục cũng có thể đặt một hoặc nhiều Đại diện Giám Mục cho mỗi khu vực nhất định của Giáo phận. Đại Diện Giám Mục do Giám Mục Giáo phận chỉ định hoặc linh mục đoàn bầu. 1.2. Điều kiện của ứng viên Đại diện Giám Mục phải là những tư tế không dưới ba mươi tuổi, có bằng tiến sĩ hoặc cử nhân Giáo luật hay thần học hoặc ít là thực sự thành thạo các môn đó, trổi vượt vì đạo lý lành mạnh, đức độ, khôn ngoan và từng trải khi xử sự công việc. 1.3. Quyền hành và nhiệm vụ Các Đại diện Giám Mục được quyền hành thông thường mà luật phổ quát dành cho Tổng Đại Diện, theo các qui tắc đã được ấn định. Nhưng chỉ trong lãnh vực giới hạn lãnh thổ hoặc số loại công việc hoặc đoàn nhóm nhất định mà Đại diện Giám Mục đã được đặt lên, trừ những việc gì Giám Mục đã dành riêng cho ngài hoặc cho Tổng Đại diện, hoặc những gì mà luật đòi cần phải có ủy nhiệm đặc biệt của Giám Mục . “Đại Diện Giám Mục phải tường trình cho Giám Mục giáo phận biết những công việc quan trọng phải làm cũng như đã làm, và không bao giờ được hành động trái với ý muốn và ý hướng của Giám Mục giáo phận” Như thế đại diện Giám Mục có nhiệm vụ giúp Giám Mục những công việc cụ thể mà Giám Mục chỉ định. 1.4. Nhiệm kỳ và mãn nhiệm Nhiệm kỳ 5 năm Mãn nhiệm : quyền hành của Đại diện Giám Mục chấm dứt khi sự ủy nhiệm đã mãn hạn, hoặc khi giải nhiệm được Giám Mục thông báo hay khi Tòa Giám Mục khuyết vị.
Một tổng đại diện [trước đây là tổng phó tế ] là phó chính của giám mục giáo phận để thi hành quyền hành chính và có chức danh thường dân địa phương. Với tư cách là đại diện của giám mục, tổng đại diện thực hiện quyền điều hành thông thường của giám mục đối với toàn giáo phận và do đó, là quan chức cao nhất trong một giáo phận hoặc một giáo hội cụ thể khác sau giám mục giáo phận hoặc vị tương đương về giáo luật. Danh hiệu thường chỉ xuất hiện trong các nhà thờ Cơ đốc giáo phương Tây, chẳng hạn như Nhà thờ La tinh của Giáo hội Công giáo và Hiệp thông Anh giáo . Trong số các nhà thờ phương Đông, Nhà thờ Mar Thoma Syriacủa Kerala sử dụng danh hiệu này và vẫn là một ngoại lệ. Chức danh cho chức quan tương đương trong các nhà thờ Đông phương là syncellus và protosyncellus .
Thuật ngữ này được nhiều Dòng tu nam sử dụng theo cách tương tự, chỉ định thẩm quyền trong Dòng sau Bề trên Tổng quyền .
Trong Giáo hội Công giáo, một giám mục giáo phận phải bổ nhiệm ít nhất một tổng đại diện cho giáo phận của mình , nhưng có thể bổ nhiệm thêm [1] —các giáo phận có lãnh thổ được chia thành các bang khác nhau thường có một tổng đại diện. Tổng đại diện theo chức vụ là người đại diện cho giám mục trong việc điều hành, đóng vai trò là tổng phụ trách các vấn đề điều hành của giáo phận. [Một linh mục trong một văn phòng riêng biệt, cha sở tư pháp , đóng một vai trò tương tự liên quan đến việc thực hiện quyền tư pháp thông thường về quản trị trong giáo phận thường được thực hiện trong các tòa án giáo hội.] Tổng đại diện phải là linh mục , giám mục phụ tá , hoặc đồng giám mục . giám mục [2]—Nếu một giám mục phụ tá tồn tại cho một giáo phận, thì giám mục giáo phận phải bổ nhiệm ngài làm tổng đại diện. [3] Các giám mục phụ tá khác thường được bổ nhiệm làm tổng đại diện hoặc ít nhất là giám mục đại diện. [3] Một tổng đại diện là một người dân địa phương bình thường và như vậy, có được quyền lực của mình nhờ chức vụ chứ không phải nhờ ủy quyền. Anh ta phải có bằng tiến sĩ hoặc ít nhất là bằng cấp về giáo luật [ JCL , JCD ] hoặc thần học [ STL , STD ] hoặc thực sự là chuyên gia trong các lĩnh vực này.
Vị linh mục giám mục có tiêu đề tương tự chia sẻ quyền điều hành thông thường của giám mục giống như tổng đại diện, ngoại trừ thực tế là quyền của vị tổng đại diện giám mục thường chỉ mở rộng trên một khu vực địa lý cụ thể của giáo phận hoặc đối với một số vấn đề cụ thể. [4] Chúng có thể bao gồm các vấn đề liên quan đến các viện tôn giáo hoặc các tín đồ của một nghi thức khác. Những người này cũng phải là linh mục hoặc giám mục phụ tá. [2] Các viên chức tương đương trong các Giáo hội Đông phương được gọi là lính tráng [syncellus] .
Giám quản Tông Tòa [tiếng Latinh: Administrator Apostolicus] là một chức vụ trong Giáo hội Công giáo Rôma do giáo hoàng bổ nhiệm để quản trị một địa chính của giáo hội tương đương giáo phận. Chức vụ này thường được bổ nhiệm cho một khu vực không phải là một giáo phận có hành chính ổn định, hoặc một giáo phận hiện đang không có giám mục [trống tòa], hoặc trong trường hợp rất hiếm là một giáo phận mà giám mục của nó không thể thực thi tác vụ của mình [bị cản tòa]. Thông thường, giám mục phụ tá của giáo phận đó, hoặc linh mục tổng đại diện của giáo phận đó, hoặc một giám mục của giáo phận láng giềng sẽ được bổ nhiệm làm Giám quản Tông Tòa.
Theo Giáo luật Công giáo, chức giám quản Tông Tòa là tương đương và có cùng một thẩm quyền như một giám mục chính tòa giáo phận. Tuy nhiên, giám quản Tông Tòa chỉ phục vụ trong vai trò của mình cho đến khi giáo phận này có một giám mục chính tòa mới.[1] Ngoài ra, giám quản Tông Tòa cũng bị hạn chế thực thi một số việc ảnh hưởng lớn đến giáo phận như: bán, nhượng tài sản, bất động sản thuộc sở hữu của giáo phận.
Khi một giáo phận trống tòa mà không có giám mục phó hoặc phụ tá, hoặc giáo hoàng không bổ nhiệm giám quản thì hội đồng linh mục địa phương [còn gọi là ban linh mục tư vấn] sẽ bầu một linh mục lên đảm nhận chức giám quản giáo phận [không có chữ Tông Tòa]. Tuy nhiên, giáo hoàng vẫn có đầy đủ quyền bính để bác bỏ sự bầu chọn này và tự ông sẽ bổ nhiệm một giám quản theo ý ông [có thêm chữ Tông Tòa]. Đôi khi, giám mục đã nghỉ hưu của giáo phận cũng được tin tưởng chỉ định làm giám quản Tông Tòa cho đến khi người kế nhiệm ông nhậm chức.
Bài viết chủ đề Công giáo này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
|
Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giám_quản_Tông_Tòa&oldid=66266640”
Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh [tiếng Latinh: Archidioecesis Hochiminhopolitana,[1] còn phổ biến với tên gọi Tổng giáo phận Sài Gòn] là một tổng giáo phận Công giáo ở Việt Nam, thuộc Giáo tỉnh Sài Gòn, được thiết lập vào năm 1960, bởi Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum của Giáo hoàng Gioan XXIII[2].
Tòa Tổng giám mục Thành phố Hồ Chí Minh ở đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3.
Lịch sử Công giáo tại Việt Nam ghi nhận rằng, một nhà thừa sai truyền giáo tên là Inêkhu đã đặt chân đến vùng đất Bùi Chu của lãnh thổ Việt Nam vào năm 1533, khi đó là Nhà Lê trung hưng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vào năm 1550, cũng có nhà thừa sai thuộc Dòng Đa Minh là linh mục Juan de la Cruz đặt chân đến vùng đất Hà Tiên ngày nay [khi ấy còn thuộc Đế quốc Khmer]. Thế kỷ 17 và 18, chúa Nguyễn kiểm soát phần lãnh thổ phía Nam sông Gianh, gọi là Đàng Trong. Từ năm 1641 đến 1645, khi chúa Nguyễn ra chỉ dụ cấm đạo Công giáo thì một số giáo dân từ miền Trung Việt Nam di tản vào miền Nam để lánh nạn và làm ăn sinh sống. Họ hợp thành những cộng đoàn tín hữu Công giáo đầu tiên ở miền Nam, và tập trung quanh khu vực Sài Gòn ngày nay như tại Chợ Quán, Gia Định, Lái Thiêu, Bến Gỗ, và Long Thành. Lưu dân Công giáo từ Huế đã di chuyển vào Sài Gòn từ thập niên 1710. Các linh mục Dòng Phanxicô Tây Ban Nha có mặt trên vùng này từ năm 1723, cụ thể là ở khu vực Chợ Quán, bắt đầu với thừa sai José Garcia.[4] Hạt Đại diện Tông tòa Đàng TrongSửa đổiNăm 1624, nhà thừa sai thuộc Dòng Tên là Alexandre de Rhodes [tên Việt là Đắc Lộ] cũng đến Đàng Trong. Sau khi nỗ lực truyền đạo và quan sát được tình hình, vào năm 1659, ông đã vận động Thánh Bộ Truyền giáo của Tòa Thánh xin Giáo hoàng Alexanđê VII thành lập hai Hạt Đại diện Tông Tòa là Đàng Ngoài và Đàng Trong [vùng đất thành phố Hồ Chí Minh ngày nay được coi là hạt nhân của Giáo phận Đàng Trong rộng lớn lúc đó]. Đến năm 1698, Sài Gòn chính thức được thành lập như một đơn vị hành chính thuộc quyền Nhà Nguyễn [Việt Nam] thì vùng đất này thu hút thêm nhiều giáo dân Công giáo đến sinh sống. Sang thế kỷ 18, vùng đất Hạ Đàng Trong [Nam Bộ ngày nay] do các thừa sai Dòng Phan Sinh, Hội Thừa sai Paris, và Dòng Tên đảm trách. Vào giữa thế kỷ này, tổng số giáo dân ở đây khoảng 8.000 người. Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng TrongSửa đổiNgày 2 tháng 3 năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI quyết định phân chia hạt Đại diện Tông tòa Đàng Trong thành hai hạt Đại diện Tông tòa mới là: Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong [với Quy Nhơn làm trung tâm] và Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Trong [bao gồm Nam Kỳ Lục tỉnh với Sài Gòn là trung tâm, sáp nhập thêm cả Campuchia vào đó] với khoảng 23.000 giáo dân. Năm 1850, lãnh thổ Campuchia tách ra khỏi Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Trong để thành lập nên Hạt Đại diện Tông tòa Cao Miên. Năm 1868, hai tỉnh Hà Tiên và Châu Đốc sáp nhập vào Hạt Đại diện Tông tòa Cao Miên, địa giới của Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Trong chỉ còn bốn tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Long. 12 giáo hạt trong giáo phận là: Đất Đỏ, Tân Triều, Lái Thiêu, Thủ Đức, Thị Nghè, Chợ Lớn, Thủ Ngữ, Xoài Mít, Cái Nhum, Cái Mơm, Bãi San và Đầm Nước.[5] Khi đã được ổn định, giám mục cai quản thiết lập các cơ sở Công giáo tại giáo phận như: Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán [1852], mời Dòng Thánh Phaolô thành Chatres đến [1860], mời Dòng Cát Minh nữ đến [1861], xây Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn ở vị trí hiện nay, thành lập họ đạo Sài Gòn. Các giám mục kế nhiệm cũng đã mời Dòng La San đến mở trường Công giáo và Colombert [tên Việt: Mỹ] xây dựng nhà thờ chính tòa năm 1877. Năm 1899, Hạt có 63 linh mục người Việt, 55 thừa sai. Chủng viện có 15 phụ phó tế và phó tế, 24 thày bốn chức, 44 đại chủng sinh ở đường Luro [Cường Để], 93 tiểu chủng sinh ở Tân Định. Số giáo dân là 84.425[6]. Năm 1907, Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Trong tiếp nhận địa bàn tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai Thượng [Di Linh] và cao nguyên Lang Biang [Đà Lạt] từ Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong[7]. Trong hai thập niên đầu thế kỷ XX, Hạt Tông Tòa Tây Đàng Trong kiến thiết nhiều nhà thờ kiên cố như: Chí Hòa [1900], Chợ Đũi [1905], Nhà thờ thánh Phanxicô Xaviê [1902], quen gọi là Nhà thờ Cha Tam, nhà thờ thánh Jeanne d'Arc [1928], Ngã Sáu, Chợ Lớn. Nhiều nhà thờ xây từ cuối thế kỷ trước như Tân Định được mở rộng [1896], xây tháp chuông [1929]; Thị Nghè [1890]; nhà thờ Chợ Quán khởi công năm 1887, khánh thành năm 1896[8]. Hạt Đại diện Tông tòa Sài GònSửa đổiNgày 3 tháng 12 năm 1924, Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Trong được đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn. Ngày 8 tháng 1 năm 1938, Hạt Đại diện Tông Tòa Sài Gòn lại tách một phần đất của mình để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Vĩnh Long [gồm tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc] và một phần tỉnh Cần Thơ]. Năm 1954 xảy ra cuộc di cư vào Nam, phần lớn giáo dân Công giáo di cư tìm đến định cư ở Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn khiến cho số lượng giáo dân của nó tăng vọt. Năm 1957, hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy được tách ra cùng với hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận thuộc Hạt Đại diện Tông tòa Qui Nhơn để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Nha Trang. Tổng giáo phận Sài GònSửa đổiNgày 24 tháng 11 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam với ba giáo tỉnh: Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn vì có vị thế quan trọng về tôn giáo lẫn chính trị ở miền Nam Việt Nam nên được nâng cấp thành Tổng giáo phận Sài Gòn ngay trong dịp này và trở thành trung tâm của Giáo tỉnh Sài Gòn. Năm 1963, tổng giáo phận Sài Gòn đã có gần 567.455 giáo dân với 583 linh mục triều, 25 linh mục dòng, 503 nam tu, gần 2000 nữ tu với 263 giáo xứ và 284 giáo họ. Năm 1965, Tòa Thánh tách đất từ tổng giáo phận Sài Gòn để thành lập giáo phận Phú Cường và giáo phận Xuân Lộc. Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí MinhSửa đổiNgày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 23 tháng 11 cùng năm, Tổng giáo phận Sài Gòn đổi tên thành Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh [tiếng Latinh: Archidioecesis Hochiminhopolitana] theo tên hành chính mới.[3] Tuy nhiên, nhiều người vẫn quen gọi theo tên cũ. Năm 2003, Toà Tổng Giám mục được đặt làm Toà Hồng y đầu tiên ở miền Nam Việt Nam.[9] Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng, Tổng giám mục đương nhiệm Tên gọiSửa đổi Từ khi được thành lập vào năm 1844 đến nay, tổng giáo phận này trải qua các tên gọi: Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Trong [1844 - 1924] [10][11][12] Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn [1924 - 1960], rồi Tổng giáo phận Sài Gòn [1960 - 1976],[10][13][14] Tổng giáo phận Thành phố Sài Gòn [1976 - nay] /> Hiện nay, tên gọi chính thức là Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời Vatican cũng phổ biến sử dụng tên này.[15] Ở Việt Nam Tổng giáo phận còn được gọi theo tên gọi trước đây là Tổng giáo phận Sài Gòn cho vắn tắt, tên gọi này hợp pháp và vẫn được sử dụng trong các văn bản của các Giáo phận trong Việt Nam. Ngoài ra Tổng giáo phận còn được gọi là Tổng giáo phận Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, tuy tên gọi này không chính thức.[16] Nhà thờ chính tòaSửa đổiBài chi tiết: Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn được xây dựng từ năm 1877 đến năm 1880. Nhà thờ này được Giáo hội Công giáo thăng thành Tiểu Vương cung thánh đường năm 1959. Với việc thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, với Tông sắc "Venerabilium Nostrorum" nhà thờ Đức Bà Sài Gòn được chọn làm nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Sài Gòn với tên gọi chính thức là Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhà thờ này tọa lạc tại số 1 Công Xã Paris, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.[3] Tượng Đức Mẹ Hòa bình và hai tháp chuông nhà thờ Đức Bà. Tòa Tổng giám mụcSửa đổiTòa Tổng giám mục Sài Gòn tọa lạc tại địa chỉ 180 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, quận 3, Tp. HCM. Đây là một kiến trúc được xây dựng từ năm 1900. Ngoài đảm nhiệm vai trò văn phòng Tòa Tổng giám mục và văn khố, Tòa Tổng giám mục còn là nơi hoạt động của 11 phòng ban của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.[3] Trung tâm Hành hương Giáo phậnSửa đổiTrung tâm hành hương của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh là Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, tọa lạc tại địa chỉ 58 đường 5, Khu phố 2, phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức.[3] Năm 1962, linh mục Phaolô Võ Văn Bộ mua một khu đất rộng 12,5 mẫu gần vị trí của ga Bình Triệu. Nơi đây, linh mục này mong muốn xây một trung tâm hành hương kính Đức Mẹ Fatima và cũng nhằm mục đích kỷ niệm sự kiện tượng Đức Mẹ Fatima được rước đến Việt Nam.[3] Ngày 15 tháng 8 năm 1966, Tổng giám mục Tổng giáo phận thời bấy giờ là Phaolô Nguyễn Văn Bình đã cử hành nghi thức làm phép tượng đài và cử hành thánh lễ đầu tiên. Từ năm 1977 trở đi, ngoài là một trung tâm hành hương, địa điểm này cũng chính thức thiết lập một giáo xứ.[3] Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài GònSửa đổiBài chi tiết: Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn [Saint Joseph Seminary of Saigon] thành lập từ năm 1863 bởi linh mục Wibaux đến từ Hội Thừa sai Paris. Nó tọa lạc tại số Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.[3] Số đại chủng sinh hiện đang theo học niên khóa 2017 - 2018 tại cơ sở chủng viện này 305 chủng sinh. Nơi đây là Chủng viện chung, đào tạo chủng sinh từ ba giáo phận thuộc Giáo tỉnh Sài Gòn là Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo phận Phú Cường và Giáo phận Mỹ Tho.[3] Giám đốc Chủng viện hiện là linh mục Giuse Bùi Công Trác.[3] Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phậnSửa đổiTrung tâm Mục vụ Tổng giáo phận tọa lạc tại số 6 bis Tôn Đức Thắng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.[3] Trước 1975, khu đất xây dựng nên trung tâm mục vụ từng được sử dụng làm Tiểu chủng viện Thánh Giuse. Sau năm 1975, Bộ Tài chánh quyết định mượn cơ sở này làm Trường Cao đẳng Tài chánh – Kế toán. Tháng 9 năm 2004, cơ sở này được trao trả lại và Giáo phận quyết định sử dụng làm Trung tâm Mục Vụ Tổng giáo phận.[3] Trung tâm Mục vụ là nơi tổ chức các chương trình đào tạo về Thánh kinh, Thần học, Linh đạo,.. Ngoài ra, trung tâm liên kết với các Ban Mục vụ trong giáo phận cũng như phối hợp với các Trung tâm và Học viện Mục vụ trong khu vực châu Á.[3] Nhà thờ Cha Tam. Các nhà thờ và tu viện lớnSửa đổi
Các giáo họ và giáo xứSửa đổiBài chi tiết: Danh sách nhà thờ Công giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh được chia làm 14 giáo hạt với 203 giáo xứ. 14 giáo hạt của Tổng giáo phận gồm:
Danh sáchSửa đổi
Ghi chú:
Hình ảnhSửa đổi
Phaolô Nguyễn Văn Bình Nicôla Huỳnh Văn Nghi Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn Phaolô Bùi Văn Đọc Giuse Đỗ Mạnh Hùng Giuse Nguyễn Năng
Giáo phận là nơi tổ chức nhiều sự kiện quốc tế, quốc gia lớn có ý nghĩa quan trọng như:
Liên kết ngoàiSửa đổi
Video liên quanChủ Đề |