Tính dị bản của văn học dân gian là hệ quả của tính truyền miệng và tình tập thể

Truyền miệng là sự ghi nhớ bằng cách nhập tâm và phổ biến bằng lời nói hoặc trình diễn cho người khác xem, nghe. Văn học dân gian khi được phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan [bộ não người] nên thường được sáng tạo thêm. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian [từ vùng này qua vùng khác], hoặc theo thời gian [từ đời trước đến đời sau]. Quá trình truyền miệng của văn học dân gian chủ yếu thông qua diễn xướng dân gian.

Tại sao văn học dân gian lại có tính truyền miệng?

“Phương thức sáng tác và tồn tại bằng truyền miệng là phương thức chủ yếu, và trong những giai đoạn lịch sử nhất định, là phương thức duy nhất của văn học dân gian”1. Văn học dân gian ra đời từ buổi sớm của xã hội loài người, khi con người chưa phát minh ra chữ viết. Trong thời kì đó, truyền miệng là phương thức duy nhất và tất yếu của văn học dân gian. Khi nhân loại có chữ viết, đặc biệt là khi chữ viết trở nên phổ biến, một bộ phận văn học dân gian được văn bản hóa, tức phương thức truyền miệng không còn là duy nhất. Tuy vậy, đời sống thực sự của nó vẫn được duy trì bằng con đường mà nó đã nảy sinh.

Đặc trưng truyền miệng phản ánh phương thức sinh thành, tồn tại và phát triển của văn học dân gian. Được sáng tác và lưu truyền thông qua con đường truyền miệng, văn học dân gian đòi hỏi ở người nghệ nhân không chỉ tài năng mà đặc biệt hơn là trí nhớ. Tác phẩm văn học dân gian thường không giữ được trọn vẹn hình hài khi trải qua quá trình trao lời giữa nhiều cá nhân trong tập thể. Khoảng trắng này một mặt có thể làm giảm sút giá trị của sáng tác dân gian, một mặt là cơ hội để nhiều cá nhân cùng tham gia quá trình sáng tác và bồi đắp cho tác phẩm dân gian thêm nhiều giá trị. Có thể khẳng định, sự tồn tại của tác phẩm dân gian là minh định cho hiện tượng trầm tích giá trị qua nhiều cá nhân, thế hệ của cộng đồng. Điều này có nghĩa là sự bóc mòn giá trị  tác phẩm dân gian, nếu có, sẽ xóa tên sáng tác trong kho tàng dân gian của tập thể.

Đặc trưng truyền miệng tạo điều kiện cho văn học dân gian lan tỏa nhanh và rộng. Qua con đường truyền miệng, một tác phẩm có thể đồng thời vừa được ứng tác, vừa được lưu truyền đến cùng lúc nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân tham gia quá trình dân gian, ngay sau đó sẽ trở thành một điểm sóng, đóng vai trò khởi xướng một chu trình truyền tải mới.

Trong đời sống hiện đại, khi chữ viết đã phát triển hoàn thiện, khi công nghệ thông tin đã chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, văn học dân gian gửi mình trong những môi trường mới, như vỉa hè, quán cóc… Truyền miệng với ưu thế tự do, cho phép cá nhân để lại dấu ấn của mình vẫn chưa bao giờ thôi quyến rũ nhân dân lao động. Sự tham gia của trí thức vào những quá trình dân gian ngày càng mặn duyên là một lời hứa cho sự tồn tại song hành của bộ phận “văn học truyền miệng” cùng với bộ phận văn học viết trong một nền văn học.

Văn học dân gian, mang bản chất nguyên hợp, là một sự tổng hòa. Đặc trưng truyền miệng có sự dung hòa đặc biệt với đặc trưng diễn xướng, trong sự hòa hợp lớn của văn học dân gian. Đặc trưng này đồng thời là khởi đầu, đồng thời là hệ quả của đặc trưng còn lại. Truyền miệng và diễn xướng chuyển hóa không ngừng trong đời sống của văn học dân gian.

+ Nhóm tác giả Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn quan niệm văn học dân gian là “một hình thức của nghệ thuật biểu diễn không chuyên”1. Giáo trình Văn học dân gian của khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng năm 2010 sử dụng thuật ngữ “diễn xướng” thay cho “biểu diễn”. Thuật ngữ “diễn xướng” thể hiện được đặc trưng của văn học dân gian ở chỗ cộng gộp được mối liên hệ giữa người diễn xướng với môi trường và các cá nhân tham gia vào không gian diễn xướng.

+ Diễn xướng là một đặc trưng quan trọng góp phần định hình toàn vẹn tác phẩm dân gian. Diễn xướng trả văn học dân gian về với môi trường nảy sinh, về với hình hài khởi đầu và về với cái duyên của nó. Lời nói, khác với chữ viết, có một bộ phận ý nghĩa được tạo sinh bằng ngữ điệu. Chính vì vậy, truyền miệng là môi trường mà lời nói có thể phát huy hiệu quả tiềm năng của ngữ điệu, và diễn xướng là bước hoàn thiện cho sáng tác dân gian.

+ Diễn xướng đồng thời là sự thể hiện đặc trưng nguyên hợp. Diễn xướng phô diễn vẻ đẹp dân gian qua cả nghệ thuật ngôn từ, âm nhạc và vũ đạo trong môi trường – không gian diễn xướng. Tính diễn xướng của văn học dân gian thể hiện khác nhau ở từng thể loại. Tùy vào thể loại mà phương thức diễn xướng tập trung vào lời nói, nhạc điệu hay tạo hình.

Đặc trưng truyền miệng là phương thức tất yếu của văn học dân gian, là cơ sở, đồng thời là thành phần quan trọng của quá trình diễn xướng. Diễn xướng đến lượt mình thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của tác phẩm dân gian, khi đó, tạo thuận lợi cho con đường truyền miệng.

+] Tính tập thể của văn học dân gian biểu hiện mối quan hệ phụ thuộc của văn học dân gian vào môi trường sinh hoạt. Tính tập thể biểu hiện ở quan niệm thẩm mĩ, ở quá trình sáng tác và lưu truyền văn học dân gian.

+] Tính truyền miệng là môi trường mà lời nói  thể phát huy hiệu quả tiềm năng của ngữ điệu, và diễn xướng là bước hoàn thiện cho sáng tác dân gian.

+] Tính thực hành gắn với tầng lớp trí thức nho học thì văn học dân gian trở thành một phần trong đời sống tinh thần của người dân. Chính môi trường và thói quen sinh hoạt của nhân dân là điều kiện để văn học dân gian hình thành và phát triển

- Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.

Bạn đang xem: Tính tập thể của văn học dân gian

- Cơ chế sáng tác tập thể: Tính tập thể phản ánh phương thức sáng tác của văn học dân gian : lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho những người khác nghe. Tác phẩm hay sẽ được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác thuộc những địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tác làm cho tác phẩm biến đổi dần, thường là phong phú hơn, hoàn thiện hơn về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.

Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu chi tiết hơn về văn học dân gian để làm rõ câu hỏi trên nhé!

I. Thế nào là văn học dân gian

- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Với người Việt Nam, văn học dân gian là nguồn sữa trong lành nuôi dưỡng bao thế hệ trẻ lớn lên trong chiếc nôi tre Việt Nam, trong tiếng ru ầu ơ dân tộc. Văn học dân gian không chỉ góp phần thể hiện đời sống lao động và tâm hồn người bình dân mà còn là mảnh đất màu mỡ chắp cánh cho vườn hoa tình yêu tỏa hương khoe sắc. Qua văn học dân gian, ta cảm nhận rõ hơn sự kỳ diệu của ngôn ngữ tình yêu, thấy thương hơn gốc lúa, vườn rau, thương hơn cuộc sống quanh ta.

II. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

1.Tính truyền miệng của văn học dân gian

- Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian. Văn học truyền miệng ra đời từ thời dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên, khi dân tộc đã có chữ viết và văn học viết, thì văn học truyền miệng vẫn tiếp tục phát triển, một mặt do đại đa số nhân dân không có điều kiện học hành để hưởng thụ thành tựu của văn học viết ; mặt khác, do văn học viết không thể hiện được đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nguyện vong, thị hiếu và tập quán sinh hoạt nghệ thuật của nhân dân. Vì thế, nhiều người có học mà chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân dân cũng tham gia sáng tác và lưu truyền văn học dân gian.

- Văn học dân gian có nhiều hình thức diễn xướng khác nhau: tục ngữ thì nói, truyện thơ thì ngâm, ca dao thì hát, cổ tích thì kể, chèo tuồng thì diễn…

- Do tồn tại, lưu hành bằng phương thức truyền miệng nên tác phẩm văn học dân gian thường ngắn gọn, dễ nhớ và có thể dễ dàng thêm bớt bởi người đời sau.

2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể [tính tập thể].

- Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.

- Cơ chế sáng tác tập thể:

+ Tính tập thể phản ánh phương thức sáng tác của văn học dân gian : lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho những người khác nghe. Tác phẩm hay sẽ được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác thuộc những địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tác làm cho tác phẩm biến đổi dần, thường là phong phú hơn, hoàn thiện hơn về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.

- Vì sao văn học dân gian có tính tập thể?

- Văn học dân gian có tính tập thể vì: văn học dân gian là sản phẩm của cá nhân lúc mới hình thành, nhưng sau đó, nhiều người [tập thể] đã tham gia chỉnh sửa, hoàn thiện để tác phẩm ngày càng trọn vẹn hơn, hay hơn. Sáng tác tập thể ở đây không có nghĩa là mọi người cùng ngồi với nhau, cùng sáng tác một tác phẩm.

- Như một hệ quả tất yếu của tính tập thể, văn học dân gian còn có tính dị bản.

- Khác với tác phẩm văn học viết tồn tại dưới dạng văn bản, sau khi hoàn thiện là một chỉnh thể thống nhất, ổn định thì tác phẩm văn học dân gian lại là một hệ thống mở.

- Do quá trình tham gia sáng tạo tập thể ở những không gian khác nhau, những thời gian khác nhau, bởi những nghệ nhân khác nhau, tạo nên những nét dị biệt giữa các văn bản của cùng một tác phẩm.

- Ví dụ:

 "Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."

Và:

"Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."

- "Núi Hồng ai đắp mà cao,

Sông Lam ai xới, ai đào mà sâu."

Và:

"Núi Voi ai đắp mà cao,

Sông Cầu ai xới, ai đào mà sâu"...

Xem thêm: Giải Toán Lớp 6 Luyện Tập Chung Trang 43, Please Wait

- Nhân dân lao động là lực lượng chính tạo ra kho tàng văn học dân gian đồ sộ của mỗi dân tộc.

III. Hệ thống thể loại của văn học dân gian

- Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng, hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam gồm có:

1. Thần thoại:

- Tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hoá của con người thời cổ đại.

2. Sử thi:

- Tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của dân cư thời cổ đại.

3. Truyền thuyết:

- Tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử [hoặc có liên quan đến lịch sử] theo xu hướng lí tưởng hoá, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng.

4. Truyện cổ tích:

- Tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.

5. Truyện ngụ ngôn:

- Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, thông qua các ẩn dụ [phần lớn là hình tượng loài vật] để kể về những sự việc liên quan đến con người, từ đó nêu lên những bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc về triết lí nhân sinh.

6. Truyện cười:

- Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán.

7. Tục ngữ:

- Câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày của nhân dân.

8. Câu đố:

- Bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống.

9. Ca dao:

- Lời trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.

10. Vè:

- Tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện thời sự của làng, của nước.

Xem thêm: Ngữ Văn Lớp 6 Thực Hành Tiếng Việt Trang 47, Soạn Bài Thực Hành Tiếng Việt Trang 47 Tập 1

11. Truyện thơ:

- Tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình, phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt.

12. Chèo:

- Tác phẩm sân khấu dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để vừa ca ngợi những tấm gương đạo đức, vứa phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội. [Ngoài chèo, sân khấu dân gian còn có những hình thức khác như tuồng dân gian, múa rối, các trò diễn mang tính truyện.]

- Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.

Bạn đang xem: Tính tập thể của văn hóa dân gian

- Cơ chế sáng tác tập thể: Tính tập thể phản ánh phương thức sáng tác của văn học dân gian : lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho những người khác nghe. Tác phẩm hay sẽ được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác thuộc những địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tác làm cho tác phẩm biến đổi dần, thường là phong phú hơn, hoàn thiện hơn về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.

Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu chi tiết hơn về văn học dân gian để làm rõ câu hỏi trên nhé!

I. Thế nào là văn học dân gian

- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Với người Việt Nam, văn học dân gian là nguồn sữa trong lành nuôi dưỡng bao thế hệ trẻ lớn lên trong chiếc nôi tre Việt Nam, trong tiếng ru ầu ơ dân tộc. Văn học dân gian không chỉ góp phần thể hiện đời sống lao động và tâm hồn người bình dân mà còn là mảnh đất màu mỡ chắp cánh cho vườn hoa tình yêu tỏa hương khoe sắc. Qua văn học dân gian, ta cảm nhận rõ hơn sự kỳ diệu của ngôn ngữ tình yêu, thấy thương hơn gốc lúa, vườn rau, thương hơn cuộc sống quanh ta.

II. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

1.Tính truyền miệng của văn học dân gian

- Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian. Văn học truyền miệng ra đời từ thời dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên, khi dân tộc đã có chữ viết và văn học viết, thì văn học truyền miệng vẫn tiếp tục phát triển, một mặt do đại đa số nhân dân không có điều kiện học hành để hưởng thụ thành tựu của văn học viết ; mặt khác, do văn học viết không thể hiện được đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nguyện vong, thị hiếu và tập quán sinh hoạt nghệ thuật của nhân dân. Vì thế, nhiều người có học mà chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân dân cũng tham gia sáng tác và lưu truyền văn học dân gian.

- Văn học dân gian có nhiều hình thức diễn xướng khác nhau: tục ngữ thì nói, truyện thơ thì ngâm, ca dao thì hát, cổ tích thì kể, chèo tuồng thì diễn…

- Do tồn tại, lưu hành bằng phương thức truyền miệng nên tác phẩm văn học dân gian thường ngắn gọn, dễ nhớ và có thể dễ dàng thêm bớt bởi người đời sau.

2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể [tính tập thể].

- Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.

- Cơ chế sáng tác tập thể:

+ Tính tập thể phản ánh phương thức sáng tác của văn học dân gian : lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho những người khác nghe. Tác phẩm hay sẽ được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác thuộc những địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tác làm cho tác phẩm biến đổi dần, thường là phong phú hơn, hoàn thiện hơn về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.

- Vì sao văn học dân gian có tính tập thể?

- Văn học dân gian có tính tập thể vì: văn học dân gian là sản phẩm của cá nhân lúc mới hình thành, nhưng sau đó, nhiều người [tập thể] đã tham gia chỉnh sửa, hoàn thiện để tác phẩm ngày càng trọn vẹn hơn, hay hơn. Sáng tác tập thể ở đây không có nghĩa là mọi người cùng ngồi với nhau, cùng sáng tác một tác phẩm.

- Như một hệ quả tất yếu của tính tập thể, văn học dân gian còn có tính dị bản.

- Khác với tác phẩm văn học viết tồn tại dưới dạng văn bản, sau khi hoàn thiện là một chỉnh thể thống nhất, ổn định thì tác phẩm văn học dân gian lại là một hệ thống mở.

- Do quá trình tham gia sáng tạo tập thể ở những không gian khác nhau, những thời gian khác nhau, bởi những nghệ nhân khác nhau, tạo nên những nét dị biệt giữa các văn bản của cùng một tác phẩm.

- Ví dụ:

 "Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."

Và:

"Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."

- "Núi Hồng ai đắp mà cao,

Sông Lam ai xới, ai đào mà sâu."

Và:

"Núi Voi ai đắp mà cao,

Sông Cầu ai xới, ai đào mà sâu"...

- Nhân dân lao động là lực lượng chính tạo ra kho tàng văn học dân gian đồ sộ của mỗi dân tộc.

III. Hệ thống thể loại của văn học dân gian

- Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng, hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam gồm có:

1. Thần thoại:

- Tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hoá của con người thời cổ đại.

2. Sử thi:

- Tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của dân cư thời cổ đại.

3. Truyền thuyết:

- Tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử [hoặc có liên quan đến lịch sử] theo xu hướng lí tưởng hoá, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng.

4. Truyện cổ tích:

- Tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.

5. Truyện ngụ ngôn:

- Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, thông qua các ẩn dụ [phần lớn là hình tượng loài vật] để kể về những sự việc liên quan đến con người, từ đó nêu lên những bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc về triết lí nhân sinh.

6. Truyện cười:

- Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán.

7. Tục ngữ:

- Câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày của nhân dân.

8. Câu đố:

- Bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống.

9. Ca dao:

- Lời trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.

10. Vè:

- Tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện thời sự của làng, của nước.

Xem thêm: Soạn Văn 8 Luyện Tập Tóm Tắt Văn Bản Tự Sự, Soạn Văn Bài: Luyện Tập Tóm Tắt Văn Bản Tự Sự

11. Truyện thơ:

- Tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình, phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt.

12. Chèo:

- Tác phẩm sân khấu dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để vừa ca ngợi những tấm gương đạo đức, vứa phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội. [Ngoài chèo, sân khấu dân gian còn có những hình thức khác như tuồng dân gian, múa rối, các trò diễn mang tính truyện.]

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề