Thực chất của cách mạng xã hội là gì năm 2024

- Động lực chủ yếu thôi thúc chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm đường cứu nước là khát vọng của một con người yêu nước thiết tha với mong muốn tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Các cuộc đấu tranh chống Triều, chống Tây, chống cả Triều lẫn Tây của nhân dân ta những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đầy khí phách anh hùng, bất khuất, với nhiều hình thức phong phú, nhưng không đủ để Nguyễn Tất Thành tin đó là những con đường, phương pháp đấu tranh đúng. Muốn cứu nước thì cần phải có "con đường khác" - đó là tư duy chính trị đầu tiên của chàng thanh niên trẻ này.

Tư duy chính trị chính xác đó đã theo Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, để rồi Người đã tìm ra được chân lý và đưa ra kết luận lịch sử: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Đây là luận điểm được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1959 cho Lời tựa cuốn "Hồ Chí Minh: Những bài viết và nói chọn lọc", bản tiếng Nga, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Mátxcơva [Liên Xô cũ]. Tuy nhiên, không phải đến năm 1959 khi nhân dân miền Bắc nước ta đang bắt đầu sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì luận điểm cơ bản này mới được hình thành trong tư tưởng của Người, mà nó hình thành từ rất sớm khi Người được ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười soi rọi và bắt gặp Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin.

Xét dưới góc độ cách mạng giải phóng dân tộc, thì luận điểm này mang tính chất là luận điểm cơ bản quyết định đến bản chất, tính chất, mục tiêu của cách mạng. Xét dưới góc độ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nó lại mang tính chất là luận điểm cơ bản khởi đầu, khẳng định dứt khoát sự lựa chọn con đường giải phóng và phát triển của dân tộc là phải đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ nhất, tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại lựa chọn cách mạng xã hội chủ nghĩa là con đường cứu nước, cứu dân.

Nung nấu trong đầu tư duy chính trị phải có "con đường cứu nước khác" trên cơ sở phân tích những con đường mà các bậc tiền bối và nhân dân ta đã và đang tiến hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra nước ngoài, đến phương Tây để nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới xem có thể học tập được không.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên khoảng 30 nước, là một trong những nhà hoạt động chính trị đi nhiều nhất, có vốn hiểu biết phong phú về thực tế các nước thuộc địa, cũng như các nước tư bản đế quốc chủ yếu đương thời. Nhờ đó, Người đã hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; trình độ phát triển, đặc điểm lịch sử, văn hóa của nhiều nước thuộc địa; hiểu được những nỗi khổ chung của các dân tộc bị áp bức, của nhân dân các nước thuộc địa và nhu cầu đấu tranh giải phóng của họ.

Người đã nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng tư sản điển hình và nhận định đó là các cuộc cách mạng "không đến nơi". Tính chất "không đến nơi" của các cuộc cách mạng tư sản được Chủ tịch Hồ Chí Minh luận chứng cụ thể là vì cách mạng thành công nhưng quần chúng công nông vẫn cực khổ, vẫn bị bóc lột, bọn thực dân, đế quốc vẫn mở rộng thuộc địa và áp bức các dân tộc khác. Người viết: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà đến nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”. Tính chất "không đến nơi" đó không thể được tiếp nhận bởi con người canh cánh một nỗi lòng cứu nước, cứu dân, với sự khát khao cháy bỏng về độc lập, tự do thực sự cho dân tộc, về việc xóa bỏ “gông xiềng” phong kiến, thực dân, làm cho nhân dân lao động thoát khỏi “kiếp ngựa trâu”.

Tư duy chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt nhập với thời đại mới được mở ra sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Người tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười và rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Tính chất "đến nơi" của Cách mạng Tháng Mười đã đưa Người đến quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc là đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở so sánh hai loại hình cách mạng tư sản và vô sản, với việc dẫn dắt minh chứng bằng các cuộc cách mạng điển hình tiêu biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: dân tộc ta phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, "Chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm". Đây là một kết luận phù hợp với nhu cầu lịch sử của dân tộc và xu thế phát triển của thời đại, cho thấy tầm cao trí tuệ và tư duy chính trị sắc sảo của Người.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải như thế nào về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình Người lựa chọn con đường cứu nước.

Trong quá trình lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân, những vấn đề cơ bản, chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày càng được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ. Theo Người, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cách mạng "đến nơi", là cuộc cách mạng của nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để và lâu dài nhất trong lịch sử; đó là con đường giải phóng nhân dân ta thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của phong kiến, thực dân và có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng xã hội chủ nghĩa mang hai nội dung cơ bản trọng yếu, nó không kết thúc với việc giành chính quyền vào tay vô sản và lao động, mà đó mới chỉ là sự mở đầu. Công việc cơ bản quan trọng và khó khăn, lâu dài của cách mạng là xây dựng chính quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy vào việc tổ chức, xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi cách mạng thành công, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giai cấp công nhân, nông dân và lao động là phải khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước mới của những người lao động, làm cho nhà nước thực sự là “trụ cột” của hệ thống chính trị, là “công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”, làm cho “dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối".

Hai nội dung cơ bản trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không thực hiện được nội dung thứ nhất, thì không thể có nội dung thứ hai; đồng thời không thực hiện tốt nội dung thứ hai thì ý nghĩa thực sự của cách mạng sẽ bị suy giảm, thậm chí dẫn đến thủ tiêu những thành quả của việc thực hiện nội dung thứ nhất. Mối quan hệ giữa hai nội dung đó còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”; “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì”.

Những vấn đề cơ bản đầu tiên nêu trên chủ yếu được định hình trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào những năm hai mươi của thế kỷ XX, tạo cơ sở lý luận và tư tưởng quan trọng để Người tiếp tục phát triển những vấn đề lý luận cơ bản khác của cách mạng. Quá trình tìm đường cứu nước và thực tiễn hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành nên hệ thống luận điểm quan trọng về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một loạt vấn đề lý luận cơ bản về cách mạng được Người chỉ ra và ngày càng làm sáng tỏ trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đó là các vấn đề: mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng; đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng; liên minh giai cấp; phương pháp cách mạng; bạo lực và lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng chính quyền công nông; xây dựng chế độ xã hội mới; xây dựng Đảng Cộng sản và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình cách mạng...

Thứ ba, để thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải có những điều kiện chủ yếu, trước hết nào.

Tìm được con đường giải phóng dân tộc, con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn là vấn đề đầu tiên quyết định đến vận mệnh và tương lai của dân tộc. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, mà còn phải có những yếu tố, điều kiện bảo đảm thắng lợi cho con đường đã chọn. Nếu chỉ hiểu công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng Người đi tìm đường cứu nước là tìm ra được con đường cứu nước cho dân tộc, dù là đúng, nhưng đó là cách hiểu vẫn chưa toàn diện, chưa phản ánh rõ tư duy chính trị của Người. Cần thấy rằng trong quá trình tìm đường cứu nước, Người không chỉ chú tâm vào việc tìm kiếm, lựa chọn con đường, dù đó là vấn đề quyết định đầu tiên, mà gắn với điều đó và song hành với điều đó, Người rất quan tâm đến việc làm thế nào để giác ngộ con đường cứu nước cho quần chúng nhân dân lao động Việt Nam và để thực hiện thắng lợi con đường đó thì cần phải thực hiện những nhiệm vụ gì, phải có những điều kiện căn bản quyết định nào.

Không thể thoát ly việc nghiên cứu những điều kiện, yếu tố mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra để thực hiện thắng lợi con đường đã chọn với việc nghiên cứu Người tìm đường cứu nước. Những điều kiện, yếu tố để thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa là bộ phận hợp thành không thể thiếu của con đường mà Người lựa chọn. Đó là những vấn đề: phải có Đảng cách mạng; phải có giai cấp công nhân và nông dân làm gốc; phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin; phải có lực lượng và phương pháp cách mạng đúng...

Vấn đề đảng cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đầu tiên, coi đó là vấn đề quyết định trước hết. Người khẳng định: "Trước hết phải có đảng cách mạng... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người duy nhất nhận thức ra cần phải có một chính đảng cách mạng, mà vấn đề này đã được nhiều lãnh tụ yêu nước tiền bối của dân tộc đã nhận thức được.

Phan Chu Trinh từng nói đến cần phải có đoàn thể; Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang phục hội, sau ông dự định cải tổ nó thành Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng chưa thành. Dù đã thành lập hay chưa, thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo cách mạng của dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu vấn đề rất cơ bản là một chủ nghĩa cách mạng nhất dẵn dắt và đường lối chính trị đúng. Cái khác của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây là Người cho rằng đảng cách mạng đó phải có chủ nghĩa chân chính “làm cốt”.

Người khẳng định một cách dứt khoát phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng [công, nông] làm gốc, phải có đảng bền vững, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã khắc tư [Mác] và Lênin”. Bởi vì, "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin".

Trong khi khẳng định trước hết phải có đảng cách mạng, thì đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phải có chủ nghĩa làm cốt, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là sự khác nhau rất căn bản giữa Người với các bậc tiền bối trong việc xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng và chủ nghĩa cần theo. Chỉ có lực lượng lãnh đạo là Đảng Mác - Lênin chân chính thì mới có thể làm cho cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta thuộc về phạm trù của cách mạng vô sản và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, mới có thể dẫn dắt nhân dân ta đi theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Từ chủ nghĩa yêu nước, với mong muốn tìm lời giải cho nhu cầu của lịch sử của dân tộc đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Từ đây, nhân dân Việt Nam đi theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam hoà vào tiến trình cách mạng thế giới, bắt nhịp vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Có đặt trong bối cảnh lịch sử - thực tiễn của đất nước đương thời, chúng ta mới thấm thía hết được ý nghĩa trọng đại, tầm vóc to lớn và giá trị thực sự việc lựa chọn con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Dân tộc Việt Nam và thời đại mới đã sản sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh; và chính Người lại làm rạng rỡ cho dân tộc ta, non sông đất nước ta. Thế nhưng, hiện nay vẫn có những kẻ lạc lõng rắp tâm bôi nhọ, "hạ bệ thần tượng" Hồ Chí Minh. Họ tung ra khẩu hiệu "No Ho" [tức là không Hồ Chí Minh], thực chất là phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc công lao, sự nghiệp và cuộc đời của Người. Các thế lực thù địch tiến công vào nền tảng tư tưởng của chúng ta, trắng trợn xuyên tạc: "Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" suốt mấy chục năm"; dẫn đến một thứ chủ nghĩa xã hội mà "mọi người đều bình đẳng trong cảnh nghèo hèn". Chúng xuyên tạc bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, cố tình đổ lỗi cho Người và Đảng ta đã gây ra cảnh chết chóc đau thương và tạo nên xã hội "nghèo hèn".

Đúng là nước ta còn nghèo, nhưng đó không phải là lỗi của con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta lựa chọn; chính thực dân, đế quốc đã kéo lùi sự phát triển của đất nước này. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực trong công cuộc đổi mới của nhân dân ta hai mươi lăm năm qua là bằng chứng hùng hồn của sự vươn lên xây dựng "một quốc gia phồn thịnh” đúng nghĩa đích thực; khẳng định quá trình chấn hưng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bản lĩnh của một Đảng Mác - Lênin chân chính, một dân tộc được tôi luyện trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hơn tám thập kỷ qua cho chúng ta nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, không mất cảnh giác, dao động trước mọi sự chống phá. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường mà Người và dân tộc đã chọn, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới tiến lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là câu trả lời của chúng ta làm phá sản mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 9, tr. 314.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 2, tr. 274.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 2, tr. 280.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 9, tr. 173.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 4, tr. 56.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 4, tr. 152.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 2, tr. 268.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 2, tr. 280.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 2, tr. 268.

Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2007, tr. 51.

Bản chất của cách mạng là gì?

Cách mạng là một phương pháp của nhân dân hoặc một tổ chức mà trong đó các hoạt động đấu tranh diễn ra liên tục nhằm cải tiến một chính quyền, tư tưởng, công nghệ kỹ thuật,... Một cuộc cách mạng có thể dẫn đến trịnh thương trong các thể chế chính trị – xã hội, hoặc thay đổi lớn trong 1 nền kinh tế hay văn hóa.

Nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội là gì?

Nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, trở thành một trở lực đối với sự phát triển của xã hội.

Lực lượng cách mạng xã hội là gì?

Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.

Cải cách xã hội là như thế nào?

Vận dụng vào xã hội, “Cải cách xã hội” được hiểu là cải tạo, thay đổi, sắp xếp lại một mặt nào đó của đời sống xã hội [những trật tự, thiết chế], đồng thời vẫn duy trì những cơ sở của chế độ xã hội hiện tồn. Trong gần 30 năm qua, thế giới theo dõi công cuộc “Cải cách mở cửa” của Trung Quốc với sự quan tâm đặc biệt.

Chủ Đề