Thủ đô hà nội hiện nay được gọi là gì năm 2024

Theo đó, Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế.

Là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Ngoài ra, trụ sở cơ quan trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ được đặt tại khu vực Ba Đình thành phố Hà Nội.

Bên cạnh đó, tại Điều 6 Luật Thủ đô 2012 quy định thì biểu tượng của Thủ đô là hình ảnh Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Thủ đô Hà Nội [Hình từ Internet]

Trách nhiệm của Thủ đô Hà Nội là gì?

Căn cứ Điều 5 Luật Thủ đô 2012 thì:

Trách nhiệm của Thủ đô
1. Xây dựng, phát triển Thủ đô văn minh, hiện đại, tiêu biểu cho cả nước.
2. Bảo đảm an toàn, thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và cho việc tổ chức các chương trình, sự kiện quốc gia, quốc tế trên địa bàn Thủ đô.
3. Chủ động phối hợp và hỗ trợ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong Vùng Thủ đô và cả nước thông qua việc mở rộng các hình thức liên kết, hợp tác cùng phát triển.
4. Chủ động, tích cực mở rộng quan hệ, hợp tác hữu nghị với thủ đô các nước, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng, phát triển Thủ đô; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, nhân dân Thủ đô tham gia các hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ.

Theo đó, Thủ đô Hà Nội có trách nhiệm như sau:

- Xây dựng, phát triển Thủ đô văn minh, hiện đại, tiêu biểu cho cả nước.

- Bảo đảm an toàn, thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và cho việc tổ chức các chương trình, sự kiện quốc gia, quốc tế trên địa bàn Thủ đô.

- Chủ động phối hợp và hỗ trợ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong Vùng Thủ đô và cả nước thông qua việc mở rộng các hình thức liên kết, hợp tác cùng phát triển.

- Chủ động, tích cực mở rộng quan hệ, hợp tác hữu nghị với thủ đô các nước, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng, phát triển Thủ đô;

Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, nhân dân Thủ đô tham gia các hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ.

Cơ quan tổ chức Thủ đô Hà Nội có trách nhiệm thế nào trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình?

Theo Điều 25 Luật Thủ đô 2012 quy định về trách nhiệm của cơ quan tổ chức Thủ đô Hà Nội như sau:

- Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chính quyền của thành phố Hà Nội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện các quy định của pháp luật về Thủ đô và chịu trách nhiệm về những vi phạm, yếu kém xảy ra trong công tác xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô.

- Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thi hành Luật Thủ đô; định kỳ xem xét báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố về việc thực hiện Luật Thủ đô.

- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

+ Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan trung ương, các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của Đảng và Nhà nước;

+ Tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia có hiệu quả vào quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Thủ đô;

+ Hằng năm, báo cáo Chính phủ về việc thực hiện Luật Thủ đô.

- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp của thành phố Hà Nội có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền và huy động sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn Thủ đô trong việc xây dựng, phát triển và bảo vệ Thủ đô.

- Cán bộ, công chức, viên chức của Thủ đô phải không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; hướng dẫn, tạo điều kiện cho người dân thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Tên chính quy [ là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra]

1. Long Đỗ [866] Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

Năm Quang Thái thứ 10 [1397] đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời Kinh đô về đất An Tôn, Phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sông Lô Nhị [tức Sông Hồng ngày nay], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

2. Tống Bình [454 – 767] Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy [581 - 618], Đường [618 - 907]. Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên [Bắc Ninh ngày nay]. Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.

3. Đại La [767 – 1010] Đại La hay Đại La Thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh đô.

Theo kiến trúc xưa, Kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là Tử Cấm Thành [tức bức thành màu đỏ tía] nơi Vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La Thành.

Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La Thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là Thành Đại La.

Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: “... Huống chi Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương [tức Cao Biền] ở giữa khu vực trời đất...” [Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr. 241].

4. Thăng Long [1010 – 1397]

Về ý nghĩa tên gọi Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong Hán tự có nhiều cách viết và giải thích chữ “thăng”.

Với cách viết thứ nhất, chữ “thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là cái thưng, một dụng cụ đo lường dung tích [từ văn học: “đẩu thăng: đấu thưng”].

Cách viết thứ hai: có chữ Nhật đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết thứ nhất.

Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng [bay] trong ánh Mặt trời lên cao”.

Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn làm Kinh đô mới, đồng thời có sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự cho mình là “con Rồng cháu Tiên”.

5. Đông Đô [1397 – 1407] Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu [1397] lấy Phó tướng Lê Hán Thương [tức Hồ Hán Thương] coi phủ đô hộ là Đông Đô” .Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.

6. Đông Quan [1408 – 1427] Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 12 năm Mậu Tý [1408] Giản Định Đế bảo các quân “Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh Thành Đông Quan thì chắc phá được chúng” [Toàn thư , Sđd - Tập 2, tr. 244].

Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên [hạng Vũ Kỷ], kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”.

Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị.

Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ [thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức], cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử [Lương Huệ Vương, thượng, 3] “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”.

Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.

Các tên gọi không chính quy :

  • Trường An: Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán [206 trước công nguyên-III sau công nguyên] và Đường [618-907]. Do đó, Tràng An được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô, từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
  • Phượng Thành [Phụng Thành]: Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh [người Bắc Ninh] có bài phú nôm rất nổi tiếng: “Phượng Thành xuân sắc phú” [Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng].

Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.

  • Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều [thế kỷ III, IV, V và VI] ở Giao Châu [tên nước Việt Nam thời đó] đóng trị sở. Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long-Hà Nội. Sách Quốc

triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San [1838- 1877]; ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:

“Long Biên tài hướng Phượng thành hồi

Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!”

Dịch nghĩa:

“Nhớ người vừa từ thành Long Biên về tới Phượng Thành.

Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi về triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay."

Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức

triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

-Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc.

Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa- Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu [1789], Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực [Ghi chép việc khôi phục Long thành].

-Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh [khuyết danh], Hà Thành hiểu vọng...

-Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám-1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.

Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long- Hà Nội như: Kẻ Chợ [Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ-Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ]; Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long [Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Chẳng thanh lịch cũng thể người Thượng Kinh]. Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng [Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến]..

Loại tên "không chính quy" của Thăng Long-Hà Nội còn được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao...

Chủ Đề