Thi trung hữu họa thi trung hữu nhạc là gì năm 2024

– Thi: thơ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.

– Thi trung hữu họa: Trong thơ có hoạ [có tranh, có cảnh].

Thi trung hữu nhạc: Trong thơ có nhạc.

\=> Ý kiến trên của người xưa nói đến đặc trưng của thơ trữ tình là giàu hình ảnh và nhạc điệu. Ý kiến của cổ nhân hoàn toàn đúng đắn và xác đáng.

– Thơ – nhạc – hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, đặc biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc dùng giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như các tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.

– Thi trung hữu họa bởi vì: Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng [hình ảnh có ngụ ý], hình tượng [hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm] nổi bật như thơ ca. Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì còn mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.

– Thi trung hữu nhạc bởi vì: Thơ ca là sự biểu hiện trực tiếp cảm xúc, tình cảm của con người. Cảm xúc biểu lộ mạnh mẽ ở thanh điệu, nhịp điệu của lời nói [ngôn từ]. Tính nhạc là đặc thù cơ bản của việc phô diễn tình cảm của thơ ca. Âm thanh và nhịp điệu làm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều từ ngữ không thể nói hết. Nhạc điệu trong thơ thể hiện nhịp vận động của đời sống, của nhịp đập trái tim, bước đi của tình cảm con người.

Chứng minh qua hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc

– Với trí tưởng tượng bay bổng, phong phú, kết hợp bút pháp miêu tả khái quát và cận cảnh, thủ pháp đối lập tương phản… Bài thơ Tây Tiến đã vẽ lên trước mắt người đọc:

+ Bức tranh chân thực về khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình thơ mộng.

+ Bức chân dung về người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.

– Bằng lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống [so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ…] được sử dụng thích hợp… Bài thơ Việt Bắc đã tái hiện thành công:

+ Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc.

+ Bức tranh về cuộc sống con người trong kháng chiến, bức tranh Việt Bắc ra quân hào hùng.

– Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tính nhạc trong Tây Tiến thể hiện ở:

+ Thể thơ thất ngôn mang âm hưởng trầm hùng phù hợp với việc biểu đạt nội dung.

+ Phối hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng trắc, sự hiệp vần: ơi, biện pháp điệp từ: nhớ, ngàn thước…

+ Sử dụng thành công hệ thống từ láy.

+ Nhạc điệu của bài thơ còn được tạo nên từ nỗi nhớ tha thiết, tình yêu sâu đậm của nhà thơ với mảnh đất Tây Bắc, với binh đoàn Tây Tiến, với quê hương, đất nước. Đó là nhạc điệu tâm hồn của thi nhân

– Tính nhạc trong Việt Bắc thể hiện ở:

+ Thể thơ lục bát: Nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hóa sáng tạo không đơn điệu.

+ Sử dụng cặp đại từ: mình – ta.

+ Nghệ thuật đối: Được sử dụng với tần số cao, biểu đạt xúc động nỗi lòng sâu kín của kẻ đi người ở.

– Đồng thời tạo ra sự cân xứng về cấu trúc vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. Tất cả tạo nên nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga. Việt Bắc ru người trong nhạc.

+ Biện pháp điệp: điệp từ: nhớ, có nhớ; điệp cấu trúc: mình đi – mình về; câu hỏi tu từ… tạo nên nhịp ru cho bài thơ, diễn tả thành công nỗi lòng kẻ đi – người ở.

+ Cách gieo vần và sử dụng từ láy cũng góp phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ.

+ Việt Bắc có giọng điệu tâm tình, tự nhiên, đằm thắm, là tiếng nói của tình thương mến ngọt ngào, là khúc tình ca và bản hùng ca về kháng chiến và con người kháng chiến… Thơ Tố Hữu phong phú nhạc điệu, một thứ nhạc giàu có tự bên trong của tâm hồn hoà với nhạc điệu lôi cuốn của đời sống.

Thi trung hữu họa nghĩa là trong thơ có họa [có hình sắc]. Nói cách khác, trong tác phẩm thơ ca, ngôn từ có tác dụng khơi gợi liên tưởng một bức tranh gồm cảnh tượng, hình ảnh, màu sắc, đường nét, hình khối,… rất tinh tế và đa dạng, phong phú.

Thi trung hữu họa là một nguyên tắc sáng tác quan trọng mà các nhà thơ cổ điển Trung Quốc và Việt Nam thường nhắc đến. Ở hội họa, khả năng ghi nhận sự phong phú của bức tranh thiên nhiên và đời sống thông qua bố cục không gian chặt chẽ. Muốn trình bày ý cảnh một cách sinh động, muốn biến các hình ảnh chỉ tồn tại bên trong tinh thần, thơ cổ điển cần nhờ tới phương thức biểu đạt của hội họa.

Ở thời Tống, tính thơ trong họa, tính họa trong thơ rất được nhiều người chú ý. Trương Giới đã bình luận hai câu thơ trong Tuế hàn đường thi thoại: “Tái vân đa đoạn tục, biên nhật tiểu quang huy” trong bài thứ 18 của chùm 20 bài thơ Tần Châu tạp thi của Đỗ Phủ là: “hai câu thơ đã vẽ nên phong cảnh biên tái” [thử lưỡng cú họa xuất biên tái phong cảnh dã]. Sau này, Dương Vạn Lý, Phạm Thành Đại cũng nói đến tính họa trong thơ. Nhưng nổi tiếng nhất là lời bình của Tô Đông Pha về Vương Duy: “Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem tranh Ma Cật, thấy trong tranh có thơ. Thơ rằng “Khe xanh đá trắng lộ. Ngọc xuyên lá đỏ thưa, đường non mưa chẳng đến, ướt áo màu xanh xưa”. Tô Đông Pha nhìn thấy đặc điểm của hội họa trong thơ và đặc điểm thơ trong tranh Vương Duy. Đó chính là sự thâm nhập vào nhau giữa thi và họa. Hay đó là sự dung hợp giữa thơ và họa thơ trong họa, họa trong thơ hoặc là: “thi họa nhất trí”, “thi họa nhất luật”, “thi họa hợp bích”. Thi là họa có lời, họa là thơ không lời. Chữ Hán với các nguyên tắc cấu tạo tượng hình, tượng thanh, hội ý là biểu tượng của thơ ca.

Sự hình thành một bài thơ là cả một quá trình rất phức tạp, nó bắt đầu từ những tình cảm nảy sinh trong tâm làm cho cảm hứng trỗi dậy. Và đồng thời những hình ảnh có thật trong thực tế sẽ khơi gợi liên tưởng, nhắc nhở các hình ảnh có sẵn trong tiềm thức, trong kho kinh nghiệm sống của các nhà thơ, và cũng chính nhờ đó, mà những ý tưởng mông lung, mơ hồ ban đầu dần dần hình thành và sáng rõ giúp nhà thơ tìm được cái tứ thích hợp, độc đáo cho thơ của mình. Vì thế, mà tứ thơ được hình thành là do kết quả của sự xuyên thấm, hòa hợp giữa cảnh và tình, giữa ý tưởng và những hình ảnh thực tế khách quan.

2. Vì sao có thể nói “thi trung hữu họa”?

Thơ ca, âm nhạc và hội hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, đặc biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc dùng giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như các tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.

Nói “thi trung hữu họa” bởi vì văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng [hình ảnh có ngụ ý], hình tượng [hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm] nổi bật như thơ ca. Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì còn mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.

Chủ Đề