Tại sao Trung Quốc không đánh Hà Nội

Trước khi Nga đem quân tấn công Ukraine, Tổng thống Nga đã tuyên bố với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về một mối quan hệ hợp tác chiến lược “không giới hạn” giữa hai nước. Truyền thông Trung Quốc còn nhấn mạnh hai nước “vai kề vai trong việc duy trì công lý trên thế giới”. Một số chuyên gia lo ngại Trung Quốc sẽ lợi dụng tình hình chiến sự ở Ukraine hiện nay. Diễm Thi phỏng vấn Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á [ISEAS - Singapore] về việc này.

Diễm Thi: Thưa tiến sĩ, ngay sau khi Nga tấn công Ukraine, dư luận cho rằng, Trung Quốc có thể lợi dụng cơ hội này để tấn công một vài nước trong khu vực. Ông nhận định ra sao ạ?

Hà Hoàng Hợp: Hiện nay, nhìn từ phía Trung Quốc, thì thấy mấy điểm như thế này:

Thứ nhất là họ không coi cái cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine là một cuộc xâm lược. Thế thì cái điều ấy nó nói lên cái gì? Nói lên rằng Trung Quốc và Nga đang cùng đi theo một thứ trật tự của "kẻ mạnh là nắm lẽ phải". Nó ngược lại với cái thứ trật tự giữa truyền thống và các quy tắc luật. Từ cái điểm này thì có thể thấy rằng, khi mà nước Nga tấn công xâm lược Ukraine thì Trung Quốc chắc chắn đã chuẩn bị xong việc - có thể là - tấn công Đài Loan.

Từ nhiều tháng nay thì chúng ta vẫn đưa ra cái giả thuyết rằng họ sẽ tấn công bất kỳ lúc nào nhưng cũng có ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ không tấn công Đài Loan trước khi có Đại hội Đảng của họ vào mùa thu tới. Có nghĩa là, theo cách nói này thì từ nay đến đại hội đảng vào khoảng tháng mười tới đây, tức là tám tháng nữa thì không xảy ra chuyện Trung Quốc tấn công Đài Loan hay một chỗ nào đó ở trong khu vực.

Thế nhưng, trong hoàn cảnh Nga tấn công Ukraine đã cho Trung Quốc một cơ hội có thể nói là ngàn năm có một, có thể tính toán làm sao mà nếu tấn công Đài Loan, thì phải thu hồi được Đài Loan. Tức là phải đánh sập được chính quyền của bà Thái Anh Văn và thống nhất Đài Loan về với Trung Quốc cách nhanh nhất.

Những tính toán này thì họ đã làm từ trước rồi, nhưng còn một số những khó khăn mà họ chưa xử lý được. Mà thật sự ra, cái khó khăn lớn nhất không phải là từ phía Đài Loan, mà là từ cái chính sách của Mỹ.

Chúng ta nhớ rằng nước Mỹ có một chính sách đối với Đài Loan rằng, nước Mỹ ủng hộ Đài Loan về mặt chủ quyền theo cái chính sách gọi là "Một Trung Quốc". Có nghĩa là không coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc. Trên đời này, chỉ có một Trung Quốc mà thôi. Đài Loan vì nó nhỏ cho nên nó là một phần của Trung Quốc. Nói như thế thì có nghĩa rằng Trung Quốc cũng có thể là một phần của Đài Loan!

Nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc và của các nước lớn đã đặt ra thì chỉ có dựa trên các biện pháp hòa bình mà thôi. Một khi xảy ra chiến tranh bằng bạo lực, thì Mỹ có thể can thiệp. Thế nhưng mà cái chữ "có thể can thiệp" của Mỹ thì thế giới người ta gọi là "chính sách mập mờ" của chính quyền Mỹ. Cái được của chính sách mập mờ này là nó là một thao tác răn đe, nhưng cái chỗ yếu của nó là tạo ra một cái rủi ro lớn, là Bắc Kinh có thể đánh Đài Loan bất kỳ lúc nào.

Diễm Thi: Thưa Tiến sĩ, làm thế nào để khắc phục sự ‘mập mờ’ hiện nay?

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp: Để khắc phục cái sự mập mờ này thì vào chiều hôm qua, cựu Thủ tướng Nhật là ông Abe Shinzo đã tuyên bố rất rõ ràng. Ông nói rằng, ông kêu gọi chính quyền của ông Joe Biden phải bỏ cái chính sách này đi. Có nghĩa là phải tuyên bố rõ ràng rằng, một khi Đài Loan bị Trung Quốc tấn công quân sự, thì Mỹ sẽ đánh Trung Quốc để mà bảo vệ Đài Loan.

Với người Trung Quốc thì họ rất là lo ngại chuyện nếu lúc này nước Mỹ bỏ cái chính sách mập mờ đi, thì Trung Quốc sẽ khó mà có thể tấn công được Đài Loan.

Với quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật thì Nhật có một cái cầu nối như thế này:  Tháng 11 năm ngoái, chính phủ Nhật ra một tuyên bố rất mạnh là rằng an ninh của Đài Loan tức là an ninh của Nhật Bản. Lý do vì cả chuỗi đảo chạy từ trên Hokkaido xuống đến đảo của Nhật gần Đài Loan nhất chỉ cách Đài Loan có 99 cây số thôi. Nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan tức là nó đụng đến cái đảo đấy của Nhật, tức là tấn công Nhật. Khi đó Nhật sẽ phải đánh. Cho nên khẳng định an ninh của Đài Loan là an ninh của Nhật là một tuyên bố rất mạnh đủ để cho nước Mỹ nếu chưa đi đến một chính sách rõ ràng trong quan hệ với Đài Loan thì chính sách an ninh mới này của Nhật khắc phục cho người Mỹ sự chậm trễ đó.

Vì sao? Vì nếu Trung Quốc đánh Đài Loan thì Nhật sẽ phải nhảy vào. Mà Mỹ lại là đồng minh của Nhật thì Mỹ bắt buộc sẽ phải nhảy vào.

Chuỗi logic của vấn đề nó nằm ở chỗ này mà chuỗi này bây giờ người Trung Quốc biết rất rõ.

Diễm Thi: Giả sử Trung Quốc tấn công Đài Loan thì theo ông, Trung Quốc phải hứng chịu hậu quả như thế nào?

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp: Người Nhật đã nói rõ hơn nữa về chuyện nếu phải đánh thì họ sẽ đánh như thế nào. Người Nhật sẽ củng cố được hai sức mạnh. Thứ nhất là phòng thủ tên lửa. Thứ hai là khả năng phản công, có nghĩa, nếu bị tấn công thì Nhật sẽ đánh trả như thế nào? Người Nhật nói luôn không giấu diếm là họ sẽ chủ động tấn công phá hủy các căn cứ quân sự của kẻ thù.

Bây giờ quay lại vấn đề Trung Quốc. Với hoàn cảnh này thì rõ ràng Trung Quốc muốn đánh Đài Loan thì phải suy tính kỹ. Có hai khả năng Trung Quốc sẽ đánh Đài Loan ngay bây giờ: Một là tính nhầm rằng mình đang mạnh và Đài Loan đang yếu. Đánh là chết. Thứ hai, đánh mà không xong, mà để dây dưa thì cũng không thể hoãn đại hội đảng. Mà không thể hoãn đại hội đảng thì có khi nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc nó lật Tập Cận Bình. Đấy là cái Trung Quốc sợ nhất.

Bây giờ mình nói họ đang tính nhầm. Giả sự họ tính không nhầm, có nghĩa đánh và thắng luôn thì sao?

Họ sẽ thắng trong vài chục giờ đầu tiên. Sau đó phản ứng của Đài Loan là một; Nhật Bản là hai; Mỹ là ba; Úc là bốn; Ấn Độ là năm sẽ không thể nào lường được. Do đó, kể cả Trung Quốc tính đúng thì họ cũng không có gì đảm bảo là chắc thắng. Cho nên sự vui mừng của Trung Quốc khi Nga đang xâm lược Ukraine sẽ không được lâu bởi tính kỹ ra thì đều là bất lợi cả.

Diễm Thi: Nếu Trung Quốc đánh Đài Loan thì rất có thể Trung Quốc cũng sẽ tấn công Trường Sa tại Biển Đông nơi Việt Nam đang giữ hơn 20 đảo. Vậy theo ông, Việt Nam cần phải làm gì?

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp: Tóm lại, kể cả tính đúng hay tính sai thì vẫn có khả năng Trung Quốc có thể đánh Đài Loan bất kỳ lúc nào. Khi Trung Quốc đánh Đài Loan thì họ sẽ đồng thời đánh luôn Trường Sa. Trường Sa bây giờ có 27 điểm mà Việt Nam đang giữ. Họ sẽ đánh hết vì nó gần họ. 27 điểm này nó chỉ là tượng trưng thôi. Nó mấy nhà giàn bằng sắt, bằng thép dựng lên nhưng ở trên có cắm cờ Việt Nam, khẳng định chủ quyền Việt Nam ở đó. Nếu Trung Quốc tấn công, phá hủy hay giết binh lính ở đấy, có nghĩa là gây chiến thì Việt Nam bắt buộc phải đánh lại có thể bằng tên lửa và có thể gây thiệt hại rất lớn cho Trung Quốc.

Đấy là một khả năng. Còn nếu họ không đánh Việt Nam mà chỉ đánh Đài Loan thì Việt Nam lại càng phải chuẩn bị để phòng thủ tốt hơn. Phòng thủ tốt nhất vẫn là chiến lược chống xâm nhập. Đặt ra các vùng cấm mà không ai có thể vào được. Vùng cấm của Việt Nam là bờ biển, là không phận, là những chỗ có nhà giàn. Phải quây lại để họ không vào được. Đấy là cái phòng thủ quan trọng mà không tốn kém lắm. Họ đã làm, còn làm tốt đến mức nào thì không ai nói được, nhưng mà đã làm. Và sự sẵn sàng của Việt Nam đơn giản là Việt Nam không cần phải năng lời với Trung Quốc, trong khi Trung Quốc rất nặng lời và có hành động phi pháp với Việt Nam.

Điều đó Việt Nam đã có một cái gì đó. Không thể nói chính quyền Việt Nam cũng mang tên Cộng sản mà lại phải sợ chính quyền Cộng sản Trung Quốc - một chính quyền đặt việc cướp lãnh thổ của nước khác trong đó có Việt Nam cao hơn lợi ích bề chính trị cũng như lợi ích về thức hệ.

Giữa Ukraine và Đài Loan có sự khác biệt rất lớn. Trung Quốc sẵn sàng nói ‘Đài Loan không phải Ukraine’ vì nó dùng một thứ quan niệm riêng gọi là nguyên tắc ‘một Trung Quốc’ nói rằng Đài Loan là một tỉnh ly khai của Trung Quốc và bằng mọi cách Trung Quốc sẽ lấy về. Đấy là thái độ bá quyền của những kẻ cậy mình có sức mạnh, và từ sức mạnh nắm lẽ phải y như Nga đối xử với Ukraine bây giờ. Mà đối xử như thế là hoàn toàn dựa trên một sức mạnh bất chấp lẽ phải.

Như vậy, cái quan trọng nhất của những nước trong khu vực là cảnh giác đối với Trung Quốc. Cảnh giác bây giờ đang ở mức độ cao. Việt Nam thì rõ ràng chưa tham gia một cái gì về mặt quân sự hay quốc phòng với những nước như Ấn Độ, Nhật Bản hay Úc. Thế nhưng khi xảy ra chiến tranh thì chắc chắn tình hình sẽ phải khác, và Việt Nam khác hẳn Ukraine.

Diễm Thi: Cảm ơn Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp đã dành thời gian cho RFA

  • Blogger Tuấn Khanh lược dịch theo Diplomat
    2022-02-19

Trước sự phản đối dai dẳng của người dân, Việt Nam miễn cưỡng đưa một ít thông tin về cuộc xung đột năm 1979 vào sách giáo khoa lịch sử, sau khi đã im lặng kéo dài hàng chục năm.

Ở Việt Nam, kỳ thi tại các trường trung học thường rơi vào cuối tháng Giêng, một vài tuần trước khi kỷ niệm chiến tranh Trung-Việt, hay còn gọi là Chiến tranh biên giới trong tiếng Việt. Vì vậy, cuối học kỳ “sẽ là thời điểm hoàn hảo để suy ngẫm về cuộc chiến năm 1979, nhưng tôi không thể dẫn dắt sinh viên của mình thảo luận về nó”, Hằng, giảng viên môn chính trị quốc tế tại một trường cao đẳng ở Hà Nội cho biết.

Để đối phó với việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia và ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô vào năm 1978, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc xâm lược vào Việt Nam vào tháng 2 năm 1979 và chiếm được một số thành phố biên giới. Các mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước Cộng sản trước khi trở thành “hữu nghị” đã gặp rất nhiều trắc trở.

Từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn binh sĩ Trung Quốc và Việt Nam, nhưng con số thương vong chính xác vẫn còn đang tranh cãi. Quân đội Trung Quốc rút lui sau ba tuần, thông báo rằng sứ mệnh "trừng phạt" của họ đã hoàn thành.

Trong hơn bốn thập niên kể từ khi chiến tranh kết thúc, các trường học của Việt Nam bị ngăn cản một cách kỳ lạ về việc giảng dạy cuộc xung đột này. Hằng, người đã yêu cầu thay đổi tên trong bài, nói đã không thể đưa sự kiện này vào bài kiểm tra cho học sinh của mình hoặc thậm chí vào giáo trình của riêng mình. Sự im lặng về cuộc chiến tranh trong khuôn viên trường giờ đây nặng nề hơn, so với thời kỳ cô còn là sinh viên năm thứ hai đại học, vào năm 1979.

“Giáo viên của tôi đã từng nói rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ không thể xảy ra bởi vì hai nước là đồng chí và anh em. Nhưng vài ngày sau bài giảng đó, Trung Quốc bắt đầu pháo kích vào biên giới. Nhưng tới nay nội dung rao giảng ấy vẫn không thay đổi. Và cũng không ai dám thốt lên lời nào về chuyện đó”, chị Hằng nói. Trong khi đó, ở Trung Quốc đại lục, người ta đề cập đến cuộc chiến này như là một cuộc chiến tự vệ chống lại Việt Nam, cụ thể nó được mô tả trong bộ phim nổi tiếng năm 2017 “Fanghua” [“Tuổi trẻ”].

Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã miễn cưỡng cho vào sách giáo khoa ở tất cả các cấp học về Chiến tranh Việt-Trung – và đây là một điều lại gây tò mò thêm, vì học sinh Việt Nam đã quen thuộc với lịch sử vốn đầy rẫy chiến tranh chống quốc gia phương Bắc.

Từ lớp 6 đến lớp 7, học sinh tìm hiểu về gần một thiên niên kỷ dưới sự chiếm đóng của Trung Quốc cho đến năm 938, cho đến các cuộc chiến nhỏ giữa các triều đại khác nhau chống lại Trung Quốc. Các cuộc chiến tranh đó được nghiên cứu sâu hơn từ lớp 10 đến lớp 11. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia cộng sản “hữu nghị” năm 1979 lại bị che khuất trong các bài lịch sử.

Phiên bản năm 2001 của sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 ở Việt Nam kể lại cuộc chiến này trong 24 dòng ở cuối sách, trong khi phiên bản năm 2018 giảm phần miêu tả chỉ còn 11 dòng. Những lời kêu gọi của các chuyên gia về cải cách sách giáo khoa lịch sử, đặc biệt là cung cấp các bản tường thuật chi tiết về cuộc đụng độ năm 1979, cho đến nay vẫn bị làm ngơ. Mặc dù Hà Nội có thể cho phép các cuộc thảo luận cởi mở hơn về cuộc chiến trên các phương tiện truyền thông Nhà nước, nhưng việc giáo dục toàn diện về cuộc chiến này vẫn chưa được thực hiện và không ai biết khi nào thì sẽ có được. Việc viết lại và ghi nhớ cuộc chiến sẽ đòi hỏi một cuộc đại tu các sách giáo khoa lịch sử do Đảng Cộng sản chỉ đạo.

Cuộc chiến ngắn và quan trọng mà cô Hằng nói đặt cô vào một tình thế khó khăn, vì cô ấy không thể thực hành những bài giảng. “Tôi đã bảo học sinh thảo luận và đặt câu hỏi trong lớp, nhưng sau đó tôi không thể thu hút chúng vào chính chủ đề này,” giáo viên nói. Để giải quyết tình huống khó xử, Hằng đề nghị các học sinh của mình đọc “Hồi ức và suy nghĩ”, một cuốn hồi ký nổi tiếng và được lưu hành rất nhiều của nhà ngoại giao cấp cao Trần Quang Cơ, được nhiều người coi là tài liệu có thẩm quyền nhất về quan hệ Trung-Việt trong những năm 1980. Cô cũng khuyến khích học sinh thảo luận cởi mở về cuốn hồi ký ấy với cô. Đây là điều mà nhiều giảng viên ở các trường đại học khác đã và đang làm để lấp đầy khoảng trống kiến thức.

Phạm Kim Ngọc, sinh viên năm 3 ngành Quan hệ quốc tế tại TP.HCM, cho biết cô giáo của cô đã đề cập đến chiến tranh trong một bài giảng ngắn và rất hoan nghênh những câu hỏi sau giờ học. Vậy mà không có sách giáo khoa nào để cô nghiên cứu thêm. Ngọc nói: “Chúng tôi được dạy rằng Trung Quốc là quốc gia quan trọng nhất để tìm hiểu đối với sinh viên Việt Nam, nhưng riêng sự kiện 1979 vẫn còn nhạy cảm”.

Nguyễn Ngọc Trâm, giáo viên lịch sử tại một trường trung học tư thục ở Hà Nội, nói cách tiếp cận về cuộc chiến tranh này rất hời hợt. Trong cuốn sách của giáo viên, không có chi tiết về cách dạy nó. "Cuộc chiến tranh biên giới đã được đề cập vào cuối sách giáo khoa, được cho là sẽ được giảng dạy vào cuối năm học. Không ai chú ý đến điều đó", Trâm nói.

Ngoài ra, Trâm còn dạy kèm cho học sinh lớp 12 tập trung vào môn Lịch sử để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia. Bộ Giáo dục đã cố ý không đưa chiến tranh vào nội dung chuẩn bị thi. "Vì cuộc chiến biên giới sẽ không có trong kỳ thi, học sinh của tôi không có động lực để học nó", Trâm nói.  Hướng dẫn ít ỏi này về chiến tranh đã khiến Trâm ngạc nhiên, vì học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông phải học một cụm cụ thể gọi là "giáo dục về biển đảo" nhấn mạnh chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn là một xương của tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Là một sinh viên chuyên ngành lịch sử, Trâm đã có cơ hội tìm hiểu về cuộc chiến tại trường đại học của mình, mặc dù ở một mức độ hạn chế. Tuy nhiên, nhiều bạn bè của cô đã không nhận thức được điều đó.

Đặng Ngọc Oanh, sinh viên ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, em am hiểu về chiến tranh nhờ có cha mình. Oanh đã rất sốc vì cô chưa bao giờ biết gì về nó ở trường. "Cha tôi từng là một người lính. Ông ấy không tham gia vào cuộc chiến đó, nhưng ông ấy đã nói với tôi về điều đó", Oanh, người sau này đã tìm hiểu thêm về cuộc chiến qua sách tiếng Anh.

Mặc dù Trung Quốc ủng hộ Việt Nam trong các cuộc chiến chống lại Pháp và Hoa Kỳ, quan hệ giữa hai nước đã xuống dốc trong những năm 1960. Bằng cách phát động cuộc chiến tranh năm 1979, Trung Quốc đã tìm cách dạy cho “bá chủ nhỏ đầy tham vọng” Việt Nam một bài học, sau khi quốc gia này lật đổ chế độ Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn sau cuộc xâm lược Campuchia. Sự thù hận của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc sau đó nhiều đến nỗi phần mở đầu của Hiến pháp năm 1980 của Việt Nam đã gọi Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của Việt Nam”. Tuy nhiên, cụm từ này đã bị loại bỏ khỏi Hiến pháp 1980 vào năm 1988 để mở đường cho quá trình bình thường hóa song phương, bắt đầu cho một thỏa thuận từ trên xuống để quên quá khứ.

Từ năm 1980 đến năm 1987, Hà Nội đã có nhiều động thái chính thức và bí mật để nối lại đàm phán bình thường hóa với đồng chí phương Bắc, nhưng vô ích. Tháng 3 năm 1988, Trung Quốc cưỡng chiếm các khu vực thuộc quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Việt Nam.

Tuy nhiên, Bắc Kinh, quốc tế bị cô lập sau vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, đã khởi xướng một cuộc họp bí mật năm 1990 tại Thành Đô, Trung Quốc, nơi hai nước nhất trí “quên đi quá khứ, hướng tới tương lai”. Kết quả là, Nhà nước Việt Nam đã chọn không kỷ niệm chính thức cuộc chiến năm 1979, và để nó đã rơi vào quên lãng. Các nhà lãnh đạo cao nhất tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ song phương ở cả cấp nhà nước và cấp đảng vào năm 1991. Một thập kỷ sau, hai bên ký Tuyên bố chung về Hợp tác Toàn diện. Năm 1999, trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh, một phương châm hay còn gọi là “16 chữ vàng” đã được thông qua cho mối quan hệ của hai nước: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và hướng tới tương lai. Đồng thời, Nguyễn Cơ Thạch, nhà ngoại giao nổi tiếng với lập trường cứng rắn trong các vấn đề Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ, đã bị loại khỏi Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương, thậm chí mất chức ngoại trưởng.

Trong nhiều bảo tàng, từ “chiến tranh” đã được tránh và “Trung Quốc” thậm chí không được nhắc đến khi đề cập đến sự kiện năm 1979, không giống như những mô tả về “cuộc đấu tranh anh dũng và chính nghĩa chống lại thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và quân ngụy miền Nam Việt Nam”.

Trong một thời gian dài, Việt Nam không công nhận những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới là anh hùng. Những người lính hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc chỉ được gọi là “bảo vệ tổ quốc”, không được vinh danh giống như những người đồng đội của họ trong các cuộc chiến chống Pháp và Hoa Kỳ. Trong khi Việt Nam thành công trong việc buộc Trung Quốc rút lui vào năm 1979, cả phương tiện truyền thông chính thống và sách giáo khoa lịch sử của Việt Nam đều không đề cập đến đây là một chiến thắng quân sự. Và mặc dù Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, nhưng Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước những hành động tàn phá dã man của cuộc chiến năm 1979 do Trung Quốc gây ra.

Là một giáo viên, Trâm phải cân bằng giữa việc nói với học sinh về cuộc chiến phần lớn “không có hồi kết” và không vượt qua ranh giới bất thành văn. “Tôi phải huấn luyện mọi thứ bằng ngôn ngữ uyển chuyển”, Trâm nói. “Tôi phải dạy từng chút một, nếu không phụ huynh sẽ phàn nàn rằng những gì tôi dạy khác với sách giáo khoa”. Cô Trâm tận dụng môi trường sư phạm tương đối cởi mở ở một trường tư thục, cũng cố gắng dạy các học sinh nhỏ tuổi của mình về những dấu mốc quan trọng khác trong lịch sử mà sách giáo khoa còn thiếu. Cô nói: “Điều quan trọng là phải dạy họ rằng Việt Nam vào năm 938 không giống như Việt Nam ngày nay. Tôi vẫn phải dạy cho học sinh của mình rằng có nhiều phần lịch sử về cái mà họ gọi là ‘Việt Nam’ hiện nay, chứ không phải chỉ có một Việt Nam duy nhất được định nghĩa trong sách giáo khoa quốc gia”.

Việc viết lại lịch sử của Chiến tranh Trung-Việt cũng sẽ đòi hỏi những trình bày chi tiết hơn về cuộc xâm lược Campuchia năm 1978, mà phía Việt Nam vẫn ám chỉ là “giải phóng Campuchia khỏi Khmer Đỏ”. Cuộc xung đột đó được đề cập trong 13 dòng là “cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam” trong sách giáo khoa lịch sử hiện hành.

Nhà nước Cộng sản cũng chưa bao giờ thừa nhận miền nam Việt Nam Cộng hòa là một chính phủ hợp pháp. Nói cách khác, Hà Nội chưa bao giờ công nhận hai nước Việt Nam cùng tồn tại trong thế kỷ 20, mà coi Việt Nam là một quốc gia bị chia cắt bởi những kẻ xâm lược và phản bội Việt Nam. Sự thất thủ của Sài Gòn được miêu tả trong sách giáo khoa là đại diện cho sự thống nhất tất yếu của đất nước. Do đó dẫn đến kết quả là, cuộc giao tranh quân sự giữa lực lượng hải quân của Trung Quốc và Việt Nam Cộng Hòa tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 cũng ít được nhắc tới.

Tất cả các sách giáo khoa lịch sử quốc gia cho học sinh trên toàn quốc đều tập trung vào diễn biến từ miền Bắc Việt Nam. Tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã độc quyền xuất bản sách giáo khoa sử dụng trên toàn quốc hàng chục năm nay. Kể từ năm 2019, Chính phủ đã cấp phép cho một số nhà xuất bản nữa làm nhiệm vụ này. Các trường học bây giờ có thể chọn những cuốn sách khác để sử dụng. Năm 2021, sách giáo khoa lớp 10 mới được phát hành. Năm 2023, một số phiên bản sách giáo khoa lớp 12 cũng sẽ được lưu hành. Nhưng nếu Đảng Cộng sản không đồng ý nới lỏng việc kiểm duyệt câu chuyện 1979, sách giáo khoa lịch sử mãi sẽ chỉ là chuyện bình mới rượu cũ.

[Bài lược dịch từ nhận định của Travis Vincent, nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam, đăng trên trên The Diplomat]

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.

Video liên quan

Chủ Đề