Nội dung nào sau đây không phải là chính sách đối với thanh niên là người dân tộc thiểu số

   Ngày 16/06/2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật Thanh niên số 57/2020/QH14 [sau đây gọi là Luật năm 2020]. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 và thay thế Luật Thanh niên số 53/2005/QH11.

  So với Luật thanh niên năm 2005, Luật năm 2020 đã có nhiều điểm mới, trong đó có một số điểm đáng chú ý như sau:

   1. Luật Thanh niên năm 2020 gồm 7 Chương, 41 Điều [tăng 01 Chương và 05 Điều].

   2. Về quyền và nghĩa vụ của thanh niên

   Luật Thanh niên năm 2020 không quy định quyền và nghĩa vụ của thanh niên trên các lĩnh vực cơ bản mà quy định thành 01 Điều chung quy định về vai trò, quyền và nghĩa vụ chung của thanh niên. Đồng thời, Luật Thanh niên năm 2020 đã dành 01 chương quy định trách nhiệm của thanh niên đối với Tổ quốc, Nhà nước, gia đình, xã hội và bản thân thanh niên.

   3. Nguồn lực thực hiện chính sách nhà nước đối với thanh niên, Tháng Thanh niên, Đối thoại với thanh niên.

   Luật Thanh niên năm 2020 quy định Nhà nước bảo đảm nguồn lực để xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách đối với thanh niên theo quy định của pháp luật. Nguồn tài chính bảo đảm thực hiện chính sách đối với thanh niên gồm ngân sách nhà nước; các khoản ủng hộ, viện trợ, tài trợ và khoản đóng góp.

   Luật Thanh niên năm 2020 quy định Tháng 3 hằng năm là Tháng Thanh niên nhằm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên để tham gia hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội và vận động tổ chức, cá nhân đầu tư, phát triển thanh niên.

   Quy định việc đối thoại với thanh niên nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, phù hợp với thực tiễn nhằm giải quyết các kiến nghị, đề xuất của thanh niên.

   4. Về chính sách của Nhà nước đối với thanh niên

   Luật Thanh niên năm 2020 quy định chính sách khung, chính sách cụ thể có tính chất định hướng trên các lĩnh vực về lao động, việc làm; khởi nghiệp; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe; văn hóa, thể dục, thể thao, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời quy định chính sách đối với một số nhóm thanh niên cụ thể như: Chính sách hỗ trợ thanh niên tài năng, thanh niên khởi nghiệp; thanh niên từ đủ mười sáu tuối đến dưới mười tám tuổi, thanh niên dân tộc thiểu số.

   5. Về tổ chức thanh niên

   Sửa đổi có 01 Chương quy định về tổ chức thanh niên gồm:  Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội sinh viên Việt Nam và quy định trách nhiệm của tổ chức thanh niên, chính sách của nhà nước đối với tổ chức thanh niên.

   6. Về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, cơ sở giáo dục, gia đình đối với thanh niên.

   Luật quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế trong việc phối hợp bảo vệ, chăm sóc, tạo điều kiện cho thanh niên thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; đồng thời tạo điều kiện cho thanh niên được học tập, lao động an toàn, phát triển thể lực, trí tuệ, tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và tạo điều kiện cho tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam thành lập các tổ chức nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên. Ngoài ra, Luật quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục, gia đình trong việc chăm lo, bảo đảm cho thanh niên được: Học tập, phát triển tài năng, giáo dục rèn luyện nhân cách, đạo đức, chăm sóc rèn luyện sức khỏe, định hướng nghề nghiệp, lao động việc làm.

   7. Cơ quan quản lý Nhà nước về thanh niên

   Luật quy định nội dung quản lý nhà nước về thanh niên; trách nhiệm của Chính phủ; Bộ Nội vụ - cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên và việc tổ chức triển khai chính sách, pháp luật đối với thanh niên.

Tô Huệ

Chính phủ Việt Nam công nhận 53 nhóm dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam.1 Một số tài liệu khác cho rằng tại Việt Nam có hơn 90 nhóm dân tộc, lên đến gần 10 triệu người, tương đương 10% dân số Việt Nam.2 Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa và có hệ thống tín ngưỡng riêng gắn liền với đất đai.

Phụ nữ H’mông đi về từ chợ Bắc Hà. Ảnh do Philip Turner chụp. Được cấp phép theo CC BY-NC 2.0.

Kể từ những năm 1980, Chính phủ đã đưa ra một hệ thống chính sách nhằm đoàn kết các dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển đất nước, với hơn 100 văn bản pháp lý được trên 10 cơ quan nhà nước ban hành.3 “Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” là văn bản thống nhất các chính sách này.4 Kế hoạch thực hiện đề án đã được Chính phủ ban hành vào năm 20205 và Chương trình mục tiêu quốc gia tương ứng hiện đang được soạn thảo. Tuy nhiên, vẫn còn những tranh luận về việc các chính sách này liệu có thể hiện được nhu cầu của người dân tộc thiểu số hay không.

Nguồn: Tạo bởi ODV. Được cấp phép theo CC BY-SA 4.0.

Hiến pháp Việt Nam công nhận quyền của người dân tộc thiểu số trong “sử dụng ngôn ngữ và chữ viết riêng, giữ gìn bản sắc dân tộc và nuôi dưỡng các phong tục, truyền thống và văn hóa tốt đẹp”. Mỗi người có “quyền tự chọn dân tộc, sử dụng tiếng mẹ đẻ và chọn ngôn ngữ để giao tiếp”.

Triết lý chính trong cách tiếp cận của Chính phủ để phát triển các dân tộc thiểu số vẫn không thay đổi kể từ năm 1992: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và phát triển toàn diện”.6 Chính sách hiện nay kêu gọi phát triển chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa một cách toàn diện ở khu vực miền núi.7 Các lĩnh vực được ưu tiên bao gồm phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phát triển nguồn nhân lực và văn hóa và phát triển cộng đồng dựa vào nội lực.8

Về nguyên tắc, cần phải tham vấn ý kiến của người dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách, nhưng các quy trình này không dễ tiếp cận được đến với tất cả các dân tộc thiểu số.

Ủy ban Dân tộc [CEMA]9 đã xác định các mục tiêu cụ thể nhằm đạt được SDGs.10 Tuy nhiên, nghiên cứu11 cho thấy những mục tiêu này khá tham vọng để đạt được. Cuộc điều tra thực trạng tình hình kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số Việt Nam 2019 [với kết quả dự kiến vào năm 2020] có thể cung cấp thêm những thông tin cập nhật để đánh giá.

CEMA là cơ quan cấp bộ, đầu mối chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về các vấn đề dân tộc ở Việt Nam. CEMA có mạng lưới các đơn vị trực thuộc ở hầu hết các tỉnh và các khu vực chiến lược về địa lý hoặc khu vực có dân số người dân tộc thiểu số từ 5.000 người trở lên. CEMA có cơ quan đại diện xuống tới cấp huyện.12 Cơ quan cấp nhà nước yêu cầu có đại diện tối thiểu là người dân tộc. Tuy nhiên, ở cấp xã, phân tích định tính chỉ ra rằng mặc dù có khá nhiều người dân tộc thiểu số tham gia, hầu hết các vị trí chủ chốt đều do người Kinh nắm giữ do trình độ chuyên môn cao hơn. Điều này có thể khiến các dân tộc thiểu số gặp bất lợi về khả năng tiếp cận các nguồn lực có sẵn từ các chính sách và hỗ trợ bên ngoài khác tại các xã hoặc thôn, cũng như hạn chế tiếng nói của họ.13

Chính sách gần đây nhất của Chính phủ dành cho các dân tộc thiểu số, được ban hành năm 2016, là “Quyết định về các chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020”.14 Ngoài ra, một loạt các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo đã được triển khai, trong đó người dân tộc thiểu số là nhóm hưởng lợi chính [Chương trình 13415, Chương trình 135 giai đoạn 116 và giai đoạn 217, Chương trình 30a18 và Chương trình giảm nghèo bền vững 2016-202019]. Gần đây, Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới cũng đề cập đến các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa. Mục tiêu tổng thể của các chính sách này là thúc đẩy giảm nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc và các vùng khác nhau của đất nước trong khi bảo vệ và giữ gìn văn hóa và phong tục dân tộc.

Các chính sách và chương trình của Chính phủ bao trùm một loạt các chủ đề:

  • Sinh kế và giảm nghèo: chuyển các cộng đồng từ lối sống du canh du cư truyền thống sang định canh định cư, giao đất lâm nghiệp, tín dụng và trợ cấp.
  • Phát triển nguồn nhân lực: miễn học phí, phát triển y tế dự phòng và cải thiện dinh dưỡng, thúc đẩy bình đẳng giới, khuyến khích lãnh đạo là người dân tộc trong cộng đồng và tại chính quyền các cấp
  • Phát triển văn hóa: xây dựng nhà văn hóa thôn, thương mại hóa sản phẩm truyền thống, xem xét lại tài sản văn hóa.
  • Phát triển cơ sở hạ tầng: xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu bao gồm trường học, trạm y tế, đường xá, cầu cống, lưới điện, công trình thủy lợi, chợ bán buôn và bán lẻ, hệ thống thông tin liên lạc.
  • Ứng dụng khoa học và công nghệ: ứng dụng công nghệ khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông, nâng cao năng lực [học trực tuyến, thư viện điện tử, v.v.].

Những hỗ trợ này đã mang đến một số cải thiện về mức sống ở các vùng dân tộc thiểu số, đáng chú ý về: kết nối giao thông, tiếp cận các dịch vụ công cộng [giáo dục và y tế], điều kiện nhà ở và tiếp cận các tiện ích công cộng [điện, nước sạch]. Tuy nhiên, không có nhiều tiến bộ trong hỗ trợ sản xuất, nâng cao năng lực, phát triển văn hóa, phát huy tiếng nói và tăng sự tham gia của người dân tộc thiểu số vào phát triển cộng đồng.20 Chẳng hạn, văn hóa và lịch sử dân tộc Kinh vẫn chiếm ưu thế trong sách giáo khoa chính thống, các sách này chỉ được in bằng tiếng Việt.21 Các dự án xây dựng đập quy mô lớn và nông nghiệp hàng hóa gây ra tác động đáng kể đến hệ sinh thái rừng cùng với việc phân bổ lại đất đai đã đẩy người dân tộc thiểu số từ lối sống dựa vào rừng sang định canh nông nghiệp và sản xuất nông lâm nghiệp. Cách tiếp cận trong việc phân bổ đất đã bỏ qua tầm quan trọng của rừng cộng đồng trong thực thành tôn giáo và truyền thống của người dân tộc thiểu số.22 Các tổ chức tài trợ, cũng như Chính phủ, đã bày tỏ quan ngại về các chương trình này như: được thực hiện từ trên xuống,23 không dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về văn hóa và tôn giáo dân tộc thiểu số,24 được xây dựng mà không có sự tham khảo ý kiến ​​đầy đủ với các đại diện dân tộc thiểu số,25 chồng chéo về nội dung,26 thực hiện không đầy đủ và thiếu hiệu quả. Các nhà phê bình khác cho rằng các chương trình mang tính trợ cấp này không giúp cho các dân tộc thiểu số có quyền tự quyết.27,28 Vẫn còn khoảng cách lớn về thu nhập và cơ hội giữa các dân tộc thiểu số và đa số người Kinh, đây là mục tiêu mà Chính phủ nhắm đến để giải quyết.29

Nguồn: Ngân hàng thế giới. 2019. “Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội của dân tộc thiểu số ở Việt Nam”.

Đối với các dân tộc thiểu số, các chương trình này có thể có gây ảnh hưởng đến thực tế hàng ngày. Đại dịch COVID-19 đã làm rõ nét những hệ quả này. Ví dụ, sự phụ thuộc lớn vào sản xuất nông nghiệp và ít khả năng tiếp cận các lợi ích chính sách sẽ hạn chế khả năng phục hồi của các cộng đồng dân tộc thiểu số sau những cú sốc. Đại dịch đã khiến thương mại nông nghiệp chậm lại 30và việc làm phi chính thức biến mất,31 dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực và nghèo đói đột ngột sẽ gây khó khăn cho người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, khoảng cách số giữa nhóm dân tộc thiểu số và nhóm dân tộc đa số đang bị khuếch đại lên do sự phụ thuộc lớn của Chính phủ vào Internet và các công cụ kỹ thuật số để duy trì công việc, kinh doanh và giáo dục, cùng các biện pháp khác để ứng phó với COVID-19.

Video liên quan

Chủ Đề