Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả. (m. gorki)

NHÀ VĂN VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁCI. NHÀ VĂN1.. VAI TRÒ CỦA NHÀ VĂN- Đối với tác phẩm văn chươngNhà văn là người cha đẻ tinh thần của tác phẩm, là người đã thainghén, ấp ủ và rồi sản sinh ra tác phẩm, là người đã trút hết tài năng,tâm huyết để làm nên tác phẩm và gửi gắm vào đó những tư tưởng,nguyện vọng, khát khao… Nói cách khác, nhà văn đã mang đến cho tácphẩm một sinh mệnh, một diện mạo.Tuy nhiên, số phận, đời sống của tácphẩm lại không do nhà văn quyết định mà hoàn toàn phụ thuộc vào người tiếpnhận tác phẩm – độc giả.Nhà văn sản sinh ra tác phẩm, cho tác phẩm một sinhmệnh cụ thể, nhưng mới chỉ là phần văn bản chết trên giấy. Từ sau khi ra đời,tác phẩm sống hay chết, được ngợi khen hay chê bai, có sức lay động, tác độnghay vô nghĩa, nhạt nhòa còn tùy thuộc vào xu hướng thẩm mỹ, quan điểm, tưtưởng của người đọc.VD. Khi “Truyện Kiều” ra đời, có những người đọc ngợi ca Thúy Kiều làmột cô gái tài sắc vẹn toàn, đáng thương xót, đáng ngợi ca. Nhưng cũngcó độc giả cho rằng Thúy Kiều là một cô gái lầu xanh mất nết…VD. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có số phận rất truân chuyên.Khimới ra đời [1948] rất được công chúng đón nhận. Sau đó ít lâu, có nhiềuluồng ý kiến cho rằng tác phẩm có cái buồn lãng mạn tiểu tư sản, làmnhụt nhuệ khí, tinh thần chiến đấu nên bị phê phán, bị xem như một dẫnchứng để phê phán khuynh hướng tiểu tư sản trong thơ kháng chiến.Mãi đến thời kì đổi mới, nhất là từ sau 1988, bài thơ mới được nhìnnhận lại, được đánh giá đúng giá trị của nó, được công chúng văn họcngợi ca, đề cao.- Đối với đời sống văn họcNhà văn là người khởi đầu cho mọi hoạt động văn chương, tạo nên đờisống văn học.Nếu không có nhà văn sẽ không có tác phẩm, và không cótác phẩm sẽ không có các hoạt động phê bình, nghiên cứu, dịch thuật…,nghĩa là không có đời sống văn học.VD: Nếu Nguyễn Du không viết “Truyện Kiều” thì trong văn học sẽ không thể cómột cuộc tranh luận ngợi ca hay phê phán Thúy Kiều, không có những cuốnsách Bình giảng Truyện Kiều, không có cuốn Từ điển Truyện Kiều… Không cóNguyễn Du cũng không thể có rất nhiều hoạt động phê bình, nghiên cứu vềNguyễn Du như cuốn sách “Kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du”, bài thơ“Kính gửi cụ Nguyễn Du” của Tố Hữu…- Nhà văn là người góp phần tạo ra sự đa dạng, phong phú cho mộtnền văn học. Mỗi nhà văn có cái tạng riêng, có cá tính sáng tạo riêng của họ,không nhà văn nào giống nhà văn nào. Mỗi nhà văn bằng tài năng và cá tínhsáng tạo của mình đều có thể trực tiếp đóng góp cho sự phong phú, đa dạngcủa một nền văn học.VD. + Cùng là nữ sĩ trong giai đoạn sáng tác cuối thế kỉ XVIII – XIX nhưngbà Huyện Thanh Quan thì trầm buồn, hoài cổ còn Hồ Xuân Hương thìmạnh mẽ, góc cạnh, sắc sảo.+ Cùng viết về đề tài người nông dân Việt Nam thời kì trước Cách mạngnhưng Ngô Tất Tố khác Nam Cao, Nguyễn Công Hoan. NTT, NCH đi sâu bikịch người nông dân bị bần cùng hóa. Dẫu nghèo khổ cùng cực nhưngnhân vật của NTT, NCH vẫn còn giữ được phẩm chất. Nam Cao nhìn thấymột bi kịch thảm thương hơn của người nông dân, bi kịch người nôngdân bị lưu manh hóa, nghĩa là phải làm kẻ lưu manh để có thể tồn tạitrong xã hội này.- Nhà văn là người góp phần tạo ra những tiến bộ trong nghệthuật.Do nhà văn là chủ thể sáng tạo nghệ thuật, tác phẩm văn chương bao giờcũng in đậm dấu ấn cá nhân, cá tính và phong cách của nhà văn nên sự xuấthiện những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của vănhọc, thậm chí đưa nền văn học của những dân tộc rẽ sang một bước ngoặc lớn.2. TƯ CHẤT NGHỆ SĨ Ở NHÀ VĂN* Khái quát: Văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Với tư chất là chủthể thẩm mỹ, nhà văn, do đó cũng phải có tư chất nghệ sĩ đặc biệt. Nếu nhàtrước thuật “có đủ cái học uyên bác” thì nhà văn, nhà thơ lại “có nguồn cảmhứng bay bổng”.2.1. Sự mẫn cảm đặc biệt.- Tư chất nghệ sĩ rõ nhất ở nhà văn là một con người giàu tình cảm, dễxúc động mãnh liệt và nhạy cảm. Tình cảm là biểu hiện tâm lí của con người nóichung. Ðã là người ai cũng có những yêu, ghét, hờn giận, vui buồn... nhưng ởngười nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt, dễ xúc động, dễ nhạy cảm.Yếu tố tìnhcảm mãnh liệt cũng được xem là một yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đểlàm nên tác phẩm nghệ thuật. Nếu trái tim nghệ sĩ không thật sự rung động,người nghệ sĩ không thể thăng hoa cảm xúc để cho ra đời tác phẩm nghệ thuậthấp dẫn và ý nghĩa. Và nếu cảm xúc không thật sự chân thành, mãnh liệt thì cũngkhông đủ sức lay động tình cảm, tìm được tiếng lòng đồng điệu ở người đọc.+ Sóng Hồng viết: người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sựnồng cháy trong lòng.+ Lỗ Tấn ví sự mãnh liệt của tình cảm của nhà văn với cuộc sống như sựmãnh liệt của tình cảm yêu đương. gặp cái gì đáng yêu thì họ ôm choàng lấy, nếugặp điều trái đáng giận thì họ bác bỏ ... Phải kịch liệt công kích cái sai như đãtừng nhiệt liệt ủng hộ cái đúng. ôm chặt người yêu như thế nào thì nghiến chặt kẻthù như thế.[1]VD. Phải rất đau đớn, xót thương cho số kiếp nàng Kiều – người phụ nữ tàihoa bạc mệnh thì Nguyễn Du mới có thể viết được những vẫn thơ đầy máu vànước mắt: “Một cung gió thảm mưa sầu / Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”.NHững câu thơ của Nguyễn Du còn cho thấy lòng căm hờn tột độ đối với nhữngkẻ táng tận lương tâm, chỉ biết làm hại người như “Đầy nhà vang tiếng ruồixanh / Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”; “Quá niên trạc ngoại tứ tuần / Màyrâu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.2.2. Óc quan sát tinh tế*.. Nhà văn là người thường có thói quen và năng khiếu quan sát tinh tế.Nhàvăn có biệt tài quan sát tường tận mọi ngóc ngách, mọi hiện tượng cuộc sống,nhiều lúc là những chi tiết tưởng như là vụn vặt có khi lọt khỏi tầm mắt củacon người bình thường.Quan sát kĩ lưỡng không chỉ giúp nhà văn có tình cảmmà còn phát hiện được những ý nghĩa sâu xa trong từng chi tiết. Đây chính làquá trình thu thập tài liệu để xây dựng hình tượng rất cần thiết của nhà văn, làmột trong những nguyên nhân quan trọng làm nên thành công của nhà văn.NHững nhà văn lớn là những người có óc quan sát tinh tế, để tâm đến từng biểuhiện tế vi nhất, nhỏ nhặt nhất của cuộc sống. L.Tolstoi có một cách quan sáttường tận và tế nhị đối với thiên nhiên và đặc biệt là con người. Ði tàu hỏa, ôngthường đi vé hạng 3 để cùng ngồi với nông dân, do đó mà có điều kiện quan sátvà lắng nghe câu chuyện của họ.-VD: Nếu không quan sát kỹ lưỡng, Nguyễn Du không thể biết trong lễ“vấn danh”, Thúy Kiều đang đối diện với Mã Giám Sinh mà “thềm hoamột bước, lệ hoa mấy hàng”; không thể chộp ngay được cái dáng ngồi “tótsỗ sàng” của Mã Giám Sinh – một kẻ đang giới thiệu rất lịch sự về mình.VD: Không quan sát chi tiết, Vũ Trọng Phụng không thể phát hiện nhữngsuy nghĩ thật sự sau vẻ bề ngoài buồn bã ủ rũ của đám con cháu trong đámtang cụ cố tổ, để lột tả bản chất bất nhân, bất hiếu của chúng. Sau cái vẻ bềngoài nhắm nghiền mắt của cụ cố Hồng, tác giả thấy rõ thật ra cụ đang mơmàng đến lúc mặc đồ xô gai, chống gậy, ho khạc, khóc mếu để người takhen là già; Sau cái vẻ ngoài băn khoăn, lo lắng của ông Văn Minh, tác giảthấy rõ thực ra ông Văn Minh không thương xót gì cụ cố tổ mà chỉ đang locách xử trí với Xuân như thế nào – một kẻ có hai cái tội nhỏ, một cái ơn to;Không quan sát tinh tế, Vũ Trọng Phụng cũng k thể nhìn thấy được hànhđộng giúi một tờ giấy năm đồng gấp tư vào tay Xuân của ông Phán mọcsừng, trong khi ông này đang khóc đến oặt người đi, khóc mãi khôngthôi…*… Ðối tượng quan sát của nhà văn không chỉ là hiện thực khách quan bênngoài nhà văn, mà có một phương diện không kém phần quan trọng là chínhbản thân nhà văn. Các nhà thơ, nhà văn lớn rất giỏi lắng nghe những rung độngtinh vi của mình một cách đầy đủ và rõ ràng, rồi từ đó tìm được một cách biểuhiện độc đáo không giống ai. Thơ trữ tình, văn tự truyện là nơi bộc lộ tự quan sátcủa người sáng tác rõ nhất.VD. Nguyễn Đình Chiểu khi viết “Truyện Lục Vân Tiên” không chỉ quansát mọi hiện tượng, vấn đề của cuộc sống khách quan [những tên quan xu nịnh,những kẻ xấu xa, gian xảo, những người phụ nữ phẩm tiết cao đẹp...] mà còn lắngnghe và ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức của chính mình để xây dựngcác hình tượng nhân vật, đặc biệt là nhân vật Lục Vân Tiên. Bởi lẽ, nhân vật LụcVân Tiên dường như là sự hóa thân của Nguyễn Đình Chiểu, có nhiều nét tươngđồng với cuộc đời nhà văn.VD. Để viết được “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Tử phải biết lắng nghe mộtcách tinh tế những rung động trong sâu thẳm tâm hồn mình. Hàn Mặc Tử từng cómột mối tình đơn phương với Hoàng Cúc – người con gái xứ Huế. Khi ở trongtrại phong Quy Hòa, ông sống trong sự cô đơn, lạnh lẽo, bị người đời xa lánh.Bức ảnh sông nước xứ Huế mà Hoàng Cúc gửi kèm theo mấy lời hỏi thăm đã gợihứng để thi sĩ sáng tác “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là sự trải lòng đầy chân thànhcủa thi sĩ. Có cả niềm yêu đời và nỗi đau đời khi bị đời xa lánh.*.. Các nhà văn quan sát và thu thập tài liệu, nhưng không phải thụđộng trước tài liệu. Ngược lại, nhà văn chủ động tìm kiếm tài liệu cần thiết đốivới mình về cuộc sống; chọn lọc từ hàng hà sa số các sự việc những cái vữngchắc, tiêu biểu, điển hình.VD. Để viết tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao phải quan sát rất chi tiết mọihoạt động, suy nghĩ, cảm xúc, thái độ của những người nông dân ở làng ông vànhững làng xung quanh. Nhưng không phải tất cả những gì quan sát được NamCao đều đưa vào tác phẩm mà tác giả sẽ chọn lọc những chi tiết tiêu biểu nhất, đủkhả năng làm nên sự điển hình của nhân vật, thể hiện tính cách của nhân vật vànói lên tư tưởng, quan điểm của mình.VD: Chi tiết bát cháo hành. Chi tiết ChíPhèo vừa đi vừa chửi..Như vậy, óc quan sát của nhà văn khác con người bình thường là ở chỗtìm ra được sự kiện, những sự việc, những con người, những chi tiết có ýnghĩa lí thú, khái quát. Dovgienko đã phát biểu về điều này một cách lí thú:Hai người cùng nhìn xuống, một người chỉ nhìn thấy vũng nước, người kia lạithấy được những vì sao.2.3. Trí tưởng tượng sáng tạo- Năng lực tưởng tượng không phải là vương quốc riêng của người nghệsĩ.Tuy vậy, đối với sáng tạo nghệ thuật, tưởng tượng [hay sức hình dung] làđặc biệt quan trọng. Trí tưởng tượng sáng tạo là dấu hiệu quan trọng nhất củatài ba nghệ thuật, là một trong những sức mạnh chủ yếu của quá trình sángtạo.Gorky coi sức tưởng tượng như là một trong những biện pháp quan trọngnhất của kỹ thuật xây dựng hình tượng.- Nhờ tưởng tượng mà nhà văn mới sống cuộc đời của hàng trăm nhân vậtkhác. Balzac tưởng tượng về những người dưới đáy xã hội đến mức: cảm thấytrên lưng mình có những quần áo rách nát, còn dưới chân thì có những đôi giàyhá mõm, thủng lỗ của những con người nghèo đói mà tác giả đang viết về họ.VD. Khi viết tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao dường như đã nhập thân vàonhân vật để có được những lời văn sâu sắc, lay động tình cảm của người đọc.“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi….Mẹkiếp! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất. Thế thì có phí rượu không, thếthì có khổ hắn không….” Trong đoạn văn có những lời văn nửa trực tiếp, ngườiđọc nhiều khi khó phân biệt đó là lời của Chí Phèo hay là lời của tác giả? Nhàvăn bằng trí tưởng tượng sáng tạo dường như đang sống cuộc đời của nhân vật,nói những lời nói của nhân vật… cho nên những lời nói đều rất chân thật, gây sựxúc động trong lòng người.-Trí tưởng tượng giúp nhà văn phối hợp tổ chức toàn bộ tác phẩm với tínhtoàn vẹn của nó. Tưởng tượng giúp nhà văn tìm ra được những bố cục hợp lý,những hình thức hài hòa, cân đối và sinh động.2.4. Trí nhớ tốt- Trí nhớ tốt là cần thiết cho tất cả mọi người và là phẩm chất quan trọngcho những người hoạt động trên lĩnh vực tinh thần nói chung: các nhà khoa họcvà nghệ thuật. Nhưng nếu như đối với các nhà khoa học có trí nhớ tốt là người cókhả năng ghi giữ lâu bền những số liệu, những kết luận, những công thức định lí,định luật v.v… nói chung là những tri thức khái quát trừu tượng thì, đối với nhàvăn, trí nhớ tốt là khả năng ghi giữ lâu bền những ấn tượng, những hình ảnh,những chi tiết … những hiện thực đời sống do mình đã kinh qua.Trí nhớ củanhà văn là một cái kho chứa giữ những ấn tượng về thế giới của anh ta, đó là khovật liệu để từ đó nhà văn cơ cấu nên tác phẩm nghệ thuật.Dẫn chứng:Những nhà văn lớn thường là những nhà văn có trí nhớ tốt.Balzac nhớ rõ họ tên 2000 nhân vật do ông sáng tác và hình dung được một cáchrõ ràng đậm nét những sự vật và con người như đang chứng kiến. Gớt có thểnhắc lại rành rọt nội dung một tác phẩm định viết dở dang từ hơn ba mươi nămtrước. Pautovski khẳng định: Một trong những điều kiện của việc làm văn là trínhớ tốt.2.5. Cá tính độc đáo- Nếu trong khoa học, cá tính của nhà khoa học không có mặt trong cáccông thức, định lí định luật thì ngược lại, trong nghệ thuật, qua tác phẩm màngười ta nhận ra bộ mặt tác giả.Nghệ thuật yêu cầu người nghệ sĩ phải có cátính sáng tạo, có tiếng nói, giọng nói riêng. Bản sắc, cá tính sáng tạo là một tưchất vô cùng quan trọng, quan trọng tới mức nó là tiêu chuẩn về sự sống còncủa nghệ sĩ. Cá tính mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệuriêng thì đó là sự tự sát trong văn học.L.Tolstoi xác nhận giá trị của bản sắc sáng tạo của người nghệ sĩ: Thực rakhi chúng ta đọc hoặc xem một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới thì câuđầu tiên chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: nào anh làcon người như thế nào đây? Anh có gì khác với những con người mà tôi biết …còn đối với một nhà văn đã quen thuộc thì câu hỏi không phải là anh là ngườinhư thế nào? Mà sẽ là Nào, anh có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới? Bây giờanh sẽ lí giải cho tôi cuộc sống từ khía cạnh nào?.Khái quát lại:Trên đây là một số tư chất quan trọng của người nghệ sĩ.Song chưa phải là tất cả. Mặt khác các tư chất của một người nghệ sĩ không baogiờ tồn tại độc lập, tách rời mà tồn tại một cách hữu cơ, xuyên thấm bổ sung vàchi phối lẫn nhau. Tâm hồn nhạy cảm của nhà văn nếu không dựa trí tưởngtượng phong phú thì không thể nào tạo ra được “thiên nhiên thứ hai” trong tácphẩm. Trí tưởng tượng nếu không dựa trên cơ sở quan sát và tự quan sát thìcũng dễ mông lung, huyễn hoặc. Khiếu quan sát tinh tường nếu không được trínhớ ghi dấu lại thì cũng hoài phí. Và tất cả những cái đó lại không tách rời vớicá tính sáng tạo của nhà văn, bởi vì chính nó sẽ góp phần quy định chiều hướng,cách thức của tưởng tượng, rung động, quan sát, kí ức…II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN1.Rung động trước cuộc sống-2.Trước cuộc sống với những vận động phức tạp, nhà văn luôn có nhữngcảm nhận, suy nghĩ, rung động. Đến một lúc nào đó, tâm hồn nhà vănnhư ứa đầy những cảm xúc mãnh liệt và có nhu cầu cần giải thoát nộitâm. Chính điều này đã thôi thúc tác giả sáng tác văn chương, tìm mộtcon đường để kí gửi những tâm trạng, gửi những tâm tư đến người đờiđể kiếm tìm sự đồng điệu. Giai đoạn này diễn ra âm thầm mà vô cùngmãnh liệt trong tâm hồn và trí óc người nghệ sĩ.Hình thành ý đồ sáng tác- Nhờ có tình cảm làm nền tảng, thôi thúc, tác giả bắt đầu hình thành ýđồ sáng tác. Ý đồ sáng tác là một ý định và động cơ cụ thể, có tácdụng xác định phương hướng chung cho một quá trình sáng táccụ thể.- Ý đồ sáng tác được khơi nguồn muôn màu muôn vẻ. Đó có thể lànhững niềm xúc động trực tiếp trước một con người hay sự kiệnmang ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống. VD. Bài “Bác ơi!” của Tố Hữuđược khơi nguồn cảm hứng từ sự yêu kính và khâm phục của nhà thơtrước cuộc đời, phẩm chất của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài “Đàn ghi-tacủa Lorca” của Thanh Thảo được khơi nguồn cảm hứng từ tài năngvà niềm bi phẫn của cuộc đời Lorca. Bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của HànMặc Tử được gợi hứng từ bức ảnh sông nước xứ Huế mà Hoàng Cúcgửi cho thi sĩ khi thi sĩ đang ở trại phong Quy Hòa. Bài “Việt Bắc”được Tố Hữu sáng tác nhân sự kiện Chính phủ, trung ương Đảng rờichiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội.- Ý đồ sáng tác có thể bắt nguồn trực tiếp từ nhiệm vụ giáo dục và đấutranh tư tưởng. VD: Ngồi trong tù, Secnusepxki viết tiểu thuyết “Làmgì?” nhằm giáo dục cho thanh niên nhận rõ mục đích và triển vọngcủa cách mạng.- Có những ý đồ sáng tác bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian, một líthuyết khoa học, một hồi tưởng hay một liên tưởng nào đó trong cuộcđời.VD: Lưu Quang Vũ viết “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Tác phẩmđược gợi hứng từ một câu chuyện dân gian cùng tên. Nhưng, LưuQuang Vũ đã phát triển để mang đến những ý nghĩa sâu xa về mốiquan hệ giữa hồn và xác.- Ý đồ sáng tác không đứng yên mà có thể thay đổi và phát triển,nhất là trong những tác phẩm tự sự được hoàn thành trongthời gian dài, nhà văn phải đối diện với nhiều biến cố trong cuộcsống.VD. Kim Lân viết “Vợ nhặt”. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xómngụ cư”, viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nhưng3.4.bị mất bản thảo. Đến 1954, dựa vào phần bản thảo còn lại, Kim Lânviết “Vợ nhặt”VD. Trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Visnhepxki có ý định viếtmột tác phẩm về số phận bi thảm của thủy thủ, nhưng trải qua cuộcCách mạng tháng Mười, nhà văn đã mục kích và xúc động trước cuộcđấu tranh vì lí tưởng xã hội chủ nghĩa của quần chúng nên đã viết vở“Bi kịch lạc quan” với nhân vật trung tâm là chính ủy, đảng viên cộngsản đã hi sinh anh hũng cho sự toàn thắng của cách mạng.Thu thập tài liệu- Đây là giai đoạn tiếp theo rất cần thiết, nhất là đối với tác phẩmtự sự. Các tác giả có thể thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khácnhau, trong đời sống thường ngày hoặc trong sách vở.VD. Để viết“Vỡ bờ”, Nguyễn Đình Thi đã nghiên cứu cẩn thận các tác phẩm củaChủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt khác, đọctoàn bộ giáo trình về lịch sử Đảng của trường Nguyễn Ái Quốc trungương, để tìm hiểu những nhận định chính thống về từng sự kiện lịchsử có liên quan đến nội dung cuốn tiểu thuyết. Ông còn đọc không sótmột hồi kí cách mạng nào vì ông cho rằng những hồi kí ấy giúp ôngnhìn thấy những cái bên trong và đằng sau những sự việc mà ôngđược biết. L.toonxxtoi nói, có khi chỉ viết có 5 dòng cho đúng, ông phảiđọc rất nhiều cuốn sách.Lập sơ đồ tác phẩm- Giai đoạn này nhằm hệ thống hóa những điều quan sát và thuthập được, những ấn tượng, hình ảnh và cảm nghĩ vào trongmột chỉnh thể. Nó là “phương án tác chiến”, là bản phác thảo chonhà văn trước khi viết.Người đọc thường đọc tác phẩm xong mớiphác họa lại sơ đồ tác phẩm, còn tác giả thì hình thành sơ đồ trướckhi viết tác phẩm.- Nói chung các nhà văn đều coi trọng giai đoạn lập sơ đồ và rất dụngcông trong việc tạo dựng và chọn lựa phương án hoàn thiện nhất quanhiều sơ đồ khác nhau. VD: Về cuốn “Chiến tranh và hòa bình”,L.tonxtoi viết: “Phải suy đi tính lại tất cả những gì có thể xảy ra vớitất cả những nhân vật tương lai trong tác phẩm sắp vết, một tácphẩm rất lớn và phải nghĩ ra hàng triệu cách phối hợp có thể được,để rồi trong số đó chỉ chọn lấy một phần triệu mà thôi, thật là mộtđiều kinh khủng”.Tuy nhiên, có nhiều tác giả, nhất là những nhà thơ thường quan niệmsáng tác nghệ thuật không có sơ đồ lập trước.5. Viết tác phẩm- Viết không chỉ là bồi đắp da thịt cho sơ đồ đã định sẵn, mà có khiphải điều chỉnh lại ít nhiều. Vì tác phẩm có thể được thai nghén từrất lâu, nhưng đến lúc viết, nhà văn mới thực sự sống với thế giớihình tượng, mới thực sự “nhập vai” với nhân vật của mình.- Giai đoạn viết là giai đoạn khó khăn nhất. Nhà văn phải vật lộn từngchữ, từng cách diễn đạt, nhiều khi “ba năm mới nghĩ được một chữ,mười năm mới nghĩ được một bài” mà vẫn không tự bằng lòng được.Nguyễn Đình Thi thì “dòng nào, trang nào cũng làm đi làm lại, xóa, kéomóc, thêm bớt chi chít như mắc cửi trên giấy”.- Tuy nhiên, cũng có nhà văn viết rất nhanh. VD. Xtangdan đọc cho ngườikhác chép “Tu viện thành Pácmo” trong 42 ngày. Puskin có ngày viếtđược 168 câu thơ trong tiểu thuyết “Epgheni Ôneghin”. Đa số nhữngtrường hợp này, xét đến cùng đã có một quá trình viết cũng khá giannan diễn ra trước trong óc họ.6. Sửa chữa và hoàn thiện tác phẩm- Ở đây chỉ hạn chế trong phạm vi sửa chữa bản thảo lần đầu chưa côngbố.Bước vào giai đoạn này, nhà văn mới có cơ hội nhìn lại thànhquả của mình, hoàn thiện nó để đạt đến tính tư tưởng và tính nghệthuật theo ý đồ và mong muốn mới nhất và cao nhất lúc đó. Trừ mộtsố trường hợp, còn tuyệt đại đa số các nhà văn đều coi trọng sửa chữa.VD. Gorki đã chỉnh lý hơn 4000 chỗ trong tiểu thuyết “Người mẹ”. Hainongồi hàng tuần để sửa chữa một bài thơ.=> Quá trình sáng tác cho thấy công việc sáng tác văn chươngkhông hề đơn giản, nhẹ nhàng. Tác giả thực sự là một người phuchữ nhọc nhằn, miệt mài trên trang giấy. Cũng như một người mẹsinh con, nhà văn cũng phải trải qua một quá trình thai nghén đầydằn vặt, nhọc nhằn và một quá trình sinh nở đầy vật lộn mới có thểcho ra đời một tác phẩm văn chương – một sinh mệnh nghệthuật.Và bắt đầu từ đay, nhà văn lại dõi theo mỗi bước đường của đứacon đẻ tinh thần ấy, để xem số phận của nó trong bàn tay độc giả như thếnào.ĐỀ LUYỆN TẬPĐề 1: Nhà thơ vĩ đại của Ấn Độ Rabinddranat Tagor từng bày tỏ: “Ngọngió nhà thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra tiếng nói riêng củamình” [Những con chim bay lạc]Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy đi tìm tiếng nói riêng củaNguyễn Du trong bài “Độc Tiểu Thanh kí”Đề 2. Beelinxki đã viết: “Bất cứ thi sĩ nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đaukhổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xãhội; bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhânloại”[Dẫn theo Lý luận văn học, Phương Lựu, NXB Giáo dục 1997, tr361]Từ ý kiến trên, anh /chị hiểu như thế nào về sự vĩ đại của Nguyễn Du quatác phẩm “Truyện Kiều”?Đề 3. Nhà văn I.X Tuocghenhev khẳng định:“Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cáigiọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng củabất kì một người nào khác”Anh/ chị hiểu quan niệm trên như thế nào? Phân tích truyện ngắn “Haiđứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam để làm sáng tỏ quan niệm đó.Đề 4.Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ.Hãy phân tích trong sự đối sánh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liêntrong Hai đứa trẻ [Thạch Lam] và nhân vật văn sĩ Hộ trong Đời thừa[Nam Cao] để thấy được những nét riêng của mỗi nhà văn về vấn đề nóitrên.Đề 5.“Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đườngriêng của mình. Nhưng…tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữathì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quyluật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòngsông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông”[Lã Nguyên, Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duynghệ thuật / Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm; NXB GD; HàNội; 2007, trang 395]Anh / chị hiểu nhận định trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua truyện ngắnHai đứa trẻ của Thạch Lam và Chí Phèo của Nam Cao.Đề 1:“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” [Trích lời tựa cuốn “Cổ kim hoà catập”]Anh [chị] hiểu ý kiến trên như thế nào? Dùng một số bài ca dao về tình yêu nam nữđể chứng minh.GỢI Ý1. MB- Dẫn dắt: Có thểđi từ vai trò, ý nghĩa của thơ ca đối với cuộc sống, hoặcđi từđặc trưngcủa thơ ca- Nêu vấn đề: “Thơ ca bắt rễ….từ ngữ”VD: Không phải ngẫu nhiên, nhà nghiên cứu Hoài Thanh lại cho rằng: “Thích một bàithơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm,một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người”. Phải chăng vì thơ ca “là tiếngnói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người” [Tố Hữu], là sự kí thác của những tấm lòngvới nguồn xúc cảm nhiều cung bậc. Những tâm tư, tình cảm lạiđược diễnđạt bằng ngônngữ thơ trữ tình, sâu lắng, thiết tha. Nói như tác giả lời tựa cuốn “Cô kim hoà ca tập”thì “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”.2. TBa. Giải thích lời nhận định* Thơ ca bắt rễ từ lòng người- Thơ ca là một thể loại trữ tình, là sự kí thác những tâm tư, tình cảm của thi sĩ trước cuộcđời.- Rễ: cái gốc, mạch nguồn cảm hứng sáng tạo NT  “Bắt rễ” vừa là khởi nguồn từ cáigốc, vừa là bám chặt vào cái gốcấy. Mà cội nguồn gốc rễ của thơ ca là tấm lòng ngườinghệ sĩ, là chính tâm hồn, trái tim giàu cảm xúc của chủ thể trữ tình. Người nghệ sĩ vốncó trái tim, tâm hồn nhạy cảm. Trước cuộc đời, họ có bao cảm xúc, suy tư. Nó mãnhliệt, dâng trào, cuộn xoaý trong trái tim chứ không hề im lìm, nhạt nhòa. Những tìnhcảm mãnh liệt từ trong đáy lòng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất thôi thúc ngườinghệ sĩ trải lòng mình thành những trang thơ đầy tâm huyết. Nếu ví thơ ca như một câyxanh tràn đầy sức sống thì lòng người là mảnhđất trữ tình màu mỡ với muôn ngàn cungđiệu cảm xúc nuôi dưỡng cây thơ, dâng lên cho đời. Cây xanh bén rễ từđất lành như“Thơ ca khởi phát tự lòng người” [Lê QuíĐôn] vậy.*.. “thơ ca nở hoa nơi từ ngữ..”- Cây xanh nở hoa và khoe sắc hương ở cánh hoa, nhị hoa, nhuỵ hoa, còn thơ “nở hoanơi từ ngữ”. Hoa tượng trưng cho cái đẹp, cho giá trị thẩm mĩ. Giá trị thẩm mĩ của thơtrước hếtđược thể hiệnở ngôn ngữ thơ bởi “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của tác phẩmvăn học” [M. Gorki]. Thơ ca thể hiện lòng người nhưng đó k phải là sự diễnđạt thôngthường bởi nếu thế thơ chỉ còn là thứ phiên bản nhạt nhẽo, vô vị. Muốnđược côngchúngđón nhận, yêu mến tác phẩm, thi sĩ phải lựa chọn cho mình một cách diễnđạt mớimẻđộcđáo mà thật sâu sắc. Ngôn ngữ chính là phương tiện hữu hiệu nhấtđể thơ cađượcđi vào lòng người và cũng là yếu tố thể hiện tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ.[Cách lựa chọn từ ngữ k chỉ thể hiện cá tính sáng tạo của thi nhân mà còn thể hiện đặcđiểm của từng tầng lớp, giai cấp cụ thể. Nếu thơ bắt rễ từ tâm hồn những trí thức Hánhọc, những vương tôn, quý tộc, ngôn ngữ được nở hoa sẽ mang tính ước lệ, tượngtrưng. Còn nếu thơ bắt rễ từ tâm hồn người dân lao động trong cuộc sống đời thường,ngôn ngữ sẽ nôm na, giản dị, trong sáng, dễ nhớ, dễ thuộc như ca dao, dân ca.]=> Lời nhậnđịnh là sựđúc rút những kinh nghiệm từ thực tế thơ ca cổ, kim, đông, tây,đã diễnđạt thật chính xác một đặc trưng cơ bản của thơ ca: Thơ ca khởi phát từ lòngngười và thể hiện tình cảm của con người qua vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ. Mỗi tácphẩm thi ca là sự kết hợp của nội dung và nghệ thuật, cái tài và cái tâm của nghệ sĩ.b. Chứng minh* Khái quát về ca dao và ca dao về tình yêu nam nữ- Trong kho tàng thơ ca VN, ca dao là một thể loại k thể thiếu, là một hình tháiđặc biệt,thuộc loại hình trữ tình của văn học dân gian, diễn ta đời sống tâm hồn, tư tưởng, tìnhcảm của người dân lao động. Bắt rễ từ tâm hồn những bình dân nên ngôn ngữ ca daovừa mang nhữngđặc trưng chung của ngôn ngữ thơ ca dân tộc, vừa có những nét riêng.Đó là thứ ngôn ngữđời thường của quần chúng nhân dân nhưng được sử dụng theophương thức trữ tình của thơ ca nên mang tính nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ.- Bên cạnh những bài ca dao than thân cất lên từ cuộcđời nhiều xót xa, cay đắng, nhữngbài ca dao về tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình là những bài ca về tìnhyêu đôi lứa.Tình yêu là một tình cảm tinh tế, thiêng liêng của con người. Tình yêu đivào ca dao hết sức tự nhiên, thoải mái như một thứâm điệu tuyệt vời làm cho những bàica dao thêm đượm chất trữ tình. Tình yêu của con người lao động thật thà chất phácnhưng cũng thật nên thơ.* Chứng minh nhận định qua một số bài ca dao tiêu biểu về tình yêu nam nữBài 1: Hôm qua tát nước đầu đình- Hôm qua tát nước….cành hoa senChàng trai kể về sự việc mấtáo, rất cụ thể về thời gian [hôm qua], địađiểm [đầu đình] vàvị tríđể quên áo [cành hoa sen]. Nhưng cái vị trí “cành hoa sen” khiến ta phải nghi ngờvì sen làm gì có cành? Mà ai lỡ nào vắt chiếcáo lên cành sen yếuớt? Sự phi lí, lấp lửngkhiến lời thơ chuyển hướng, đi từ tư duy đời thường sang tư suy nghệ thuật. Chàng traimuốn nóiđiều gì qua sự phi lí nàyđây?- “Em được…..trong nhà”Lời nói của chàng trai trở nên táo bạo, bất ngờ. Chàng cất lời xin áo đầy dịu ngọt, âuyếm, thiết tha “Em được…xin”. Câu chuyện xin áo tưởng đến đây là kết thúc, nhưng cáithông minh, khéo léo của chàng trai là ở chỗ đưa thêm một câu hỏi tu từ “Haylà….?”Một sự hoài nghi, băn khoăn, nhưng k buồn bã vì có thể k nhận lại được áo mà lờica thoáng niềm hi vọng, khát khao. Phải chăng chàng trai cố tình để quên áo để có cớ đilại với nàng? Phải chăng khát vọng yêu đương cháy bỏng đang được cố nén trong câu hỏitu từ kia? Đó, chính tình yêu nồng cháy tự sâu thẳm đáy lòng là cội nguồn của những lờithơ trữ tình ngọt ngào ấy.- “Áo anh sứt chỉ…..cho cùng”Tình yêu và khát vọng hạnh phúc giúp chàng tìmđựoc hình thức phù hợpđể bày tỏ tấmlòng. Chàng nêu đặcđiểm nhậndiện chiếcáo rồi giãi bày gia cảnh của mình. Gia cảnhcủa chàng có liên quan gìđến việc xin áođâu? Nhưng lại thật cần thiết để mở lối tìnhyêu vào trái tim cô gái. Lời thơ giản dị, những từ ngữ rất gần gũi nhưng thực sựđã nởhoa nghệ thuật trong lời tỏ tình của chàng trai. Hai tiếng “côấy” cất lên thân thương,trìu mến, làm rung động, xốn xang trái tim thiếu nữ.- “Khâu rồi anh sẽ trả công …….buồng cau”Mạch thơ lôgíc, ý tứ của chàng trai cũngđược thể hiện ngày một rõ ràng. Mượn khâu rồitrả công là lẽ thường tình, nhưng chàng trai k trả ngay màđợiđến khi “em đi lấy chồng”mới trả. 4 tiếng“em đi lấy chồng” cất lên k có chút buồn khổ, thất vọng vì k lấyđượcngười mình yêu, mà có chút hăm hở, nhiệt tình. Chàng hứa, “a sẽ giúp cho”, k phải trảcông nữa, mà là giúp. Nếu là một người bạn bình thường sao lại giúp “xôi vò, rượu tăm,chăn, chiếu, tiền cheo, buồng cau”? Thì ra, lời nói xin trả công ấy chính là lời cầu hônđầyý nhị, kínđáo, thành thật của chàng trai Bài ca dao là lời tỏ tình tế nhị, đáng yêu của một chàng trai nông thôn, được cất lêntừ trái tim yêu say đắm mà kínđáo của chàng với nàng. Bài ca nói về sự việc hỏi xinchiếcáođể quên của chàng trai nhưng đó chỉ là cái cớđể chàng bày tỏ tình yêu. Chínhtình yêu – tình cảm xuất phát từ tậnđáy lòng mới là căn nguyên gốc rễ cho sự ra đời củabài ca dao ấy.Bài 2: bài “Khăn thương nhớ ai”- Viết về tình yêu, ca dao thường hay diễn tả nỗi nhớ. Trong tình yêu, nỗi nhớ là cungbậc tình cảmđằm sâu nhất, nên khi nỗi nhớ khơi lên ý thơ thì ngôn ngữ hàm chứa tìnhcảmấy cũng tha thiết,lắng sâu k kém.- Nỗi nhớ người yêu nơi cô gái nhuốm vào sự vật, lan toả theo k gian và thường trựctrong mọi thời gian.- Lời ca được bén rễ từ tấm lòng cháy bỏng yêu thương, nhung nhớ của cô gáiđối vớingười yêu. Cũng chính những tình cảmấy khiến ngôn ngữ dân gian được nở hoa, nhữngchiếc khăn, chiếcđèn cũng trở thành thấmđượm tình người.Bài 3:“Có oản anh tình phụ xôi….Có nhân ngãi mới anh quên em rồi”hoặc “Trèo lên cây bưởi hái hoa…….biết thuở nào ra”c. Tiểu kết- “Thơ ca là người thư kí trung thành của trái tim ”. Khi những trái tim yêu thương hạnhphúc hay buồnđau, thương xót cũng là khi tiếng thơđược ngân rung trong lòng người.Mỗi cảm xúcấy là cội nguồn của thơ ca.- Ngôn ngữ là chất liệuđể xây dựng hình tượng văn học, cũng là phương tiệnđể ngườinghệ sĩ kí thác lòng mình. Sự kí thác bằngấyđâu chỉđể lòng ngườiđược nhẹ nhàng hơnmà còn tạo nên những công trình ngôn ngữ nghệ thuật [tác phẩm thơ] giàu giá trị thẩmmĩ.- Đọc ca dao về tình yêu đôi lứa, ta được lắng nghe những cung bậc tế vi nhất củanhững trái tim yêu. Ngôn từ ca dao thể hiện tình yêu đôi lứa k cầu kì, trái lại rất giản dị,mộc mạc mà sâu sắc, thấmđượm nghĩa tình.3.KB- Khẳng địnhđặc trưng của thơ ca,ý nghĩa của câu nói.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề