Lãi suất bán vốn là gì năm 2024

FTP [Fund Transfer Pricing] – Giá chuyển vốn nội bộ là một thuật ngữ chắc hẳn không còn xa lạ đối với những ai đang công tác tại các ngân hàng, tuy nhiên, với các bạn là sinh viên thì nó khá mới mẻ. Việc nắm, hiểu và biết nguyên tắc vận hành cơ chế này sẽ giúp ích rất nhiều không chỉ cho sinh viên mà còn đối với cán bộ nhân viên hiện đang công tác tại ngân hàng. Trong khuôn khổ bài viết, mình chỉ tập trung khái quát cơ chế vận hành mà không đi sâu vào phần kỹ thuật tính toán.

Để hiểu về cơ chế này, chúng ta cùng xem xét một số tình huống được đặt ra như sau:

  • Trong đợt tổng kết cuối năm, một ngân hàng X [bao gồm n chi nhánh [CN] X1, X2, X3…] đang xem xét chia thưởng cho những ĐVKD có lợi nhuận cao. Tuy nhiên để cho đơn giản thì ta chỉ xét hoạt động kinh doanh ngân hàng X này chỉ có huy động và cho vay thôi nhé! Giả định chi nhánh X1 cho vay rất nhiều tuy nhiên huy động lại rất ít, ngược lại chi nhánh X2 lại mạnh về huy động hơn cho vay. Hiển nhiên, một cách thông thường có thể thấy X1 sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận hơn cho X vì các khoản thu lãi từ cho vay là rất lớn trong khi chi phí huy động không đáng kể, ngược lại sự đóng góp X2 cho X có thể là không có bởi lợi nhuận có thể bị âm [chi phí huy động quá nhiều]. Như vậy, sau tổng kết, Ngân hàng X đã khen thưởng cho đơn vị X1 mà không khen thưởng cho đơn vị X2. Phải chăng ra sự công bằng trong ghi nhận hiệu quả hoạt động của các ĐVKD là chưa có???
  • Chuyển sang tình huống thứ 2: Khảo sát cho thấy 70% lợi nhuận của ngân hàng là thu thuần từ lãi [hoạt động cho vay], và để duy trì hoạt động này thì bắt buộc ngân hàng phải huy động thêm vốn bởi nguồn vốn tự có của ngân hàng là chưa đủ. Quay lại tình huống 1, CN X1 huy động rất ít, vậy nguồn vốn nào để X1 thực hiện cho vay nhiều như vậy? Hẳn là lấy từ HO? Nhưng nếu giả định vốn từ HO đã phân bổ hết cho các đơn vị khác, vậy X1 sử dụng nguồn nào? Chắc chắn sẽ là nguồn từ X2. Vậy cần phải có cơ chế ghi nhận việc chuyển vốn từ X2 sang X1 để X1 thực hiện cho vay.
  • Vì mục tiêu lợi nhuận, ĐVKD phải tối ưu hóa chi phí đầu vào và tối đa hóa lợi nhuận từ đầu ra, nghĩa là huy động vốn với chi phí thấp, có thể thực hiện được bằng cách huy động chủ yếu kỳ hạn ngắn [lãi suất huy động ngắn hạn thường có mức lãi suất thấp hơn các khoản dài hạn] và cho vay ở các kỳ hạn dài hạn. Nếu hàng loạt các ĐVKD đều thực hiện điều này, chắc chắn nguồn chủ yếu của ngân hàng X chỉ toàn nguồn vốn ngắn hạn, cho vay lại dài hạn. Khi có quá nhiều khoản huy động đến hạn thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất thanh khoản [rủi ro thanh khoản]; đồng thời chênh lệch các kỳ hạn là khá lớn, ngân hàng hứng chịu rủi ro lãi suất là khá cao. Một ngân hàng bị rủi ro sẽ dẫn đến ảnh hưởng hệ thống ngân hàng, tác động vĩ mô đến nền kinh tế là rất lớn. Do đó đòi hỏi phải có cơ chế để theo dõi và giám sát sự mất cân đối này.

Đó là những lý do chính mà cơ chế FTP được đưa vào vận hành trong hệ thống ngân hàng hiện nay. Vậy FTP là gì? Nó góp phần giải quyết các tình huống trên như thế nào?

FTP là lãi suất “mua” vốn và “bán” vốn giữa Hội sở [HO_Head Office] với các ĐVKD. Cơ chế hoạt động dựa trên nguyên tắc toàn bộ tài sản nợ [điển hình Huy động vốn] được bán về HO để hưởng lãi, toàn bộ tài sản có [điển hình khoản cho vay] được mua từ HO, ĐVKD phải trả lãi với các tài sản này. Theo đó, các CN/PGD trở thành các ĐVKD, thực hiện mua và bán vốn với HO. Thu nhập và chi phí của từng CN/PGD được xác định thông qua chênh lệch mua bán vốn với trụ sở chính, tập trung rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất về HO.

Sơ đồ cơ chế FTP đơn giản như sau:

Một ví dụ đơn giản: CN X2 huy động 100 đồng với LS 5%, khi thực hiện bán vốn về HO với lãi suất 7% thì sẽ hưởng chênh lệch LS 2%. Lúc này lợi nhuận X2 là 2 đồng. Tương tự cho khoản vay 100 đồng với lãi suất 11%, đơn vị cho vay X1 phải mua vốn từ HO với lãi suất 8%, hưởng chênh lệch LS 3%. Lúc này lợi nhuận X1 là 3 đồng.

Như vậy cơ chế này đã đánh giá khách quan hơn hiệu quả hoạt động của ĐVKD vì đã ghi nhận được đóng góp của X2 mang về lợi nhuận cho X là 2 đồng. Đồng thời cơ chế này cũng cho phép kiểm soát cơ cấu danh mục nguồn và sử dụng nguồn của ngân hàng bởi với bất kỳ một giao dịch huy động hay cho vay nào cũng đều thực hiện mua bán vốn về HO, do đó toàn bộ rủi ro sẽ tập trung về HO, HO sẽ dể dàng kiểm soát và cân đối nguồn & sử dụng nguồn. Trường hợp bị mất cân đối, HO có thể điều chỉnh lại lãi suất [bao gồm lãi suất huy động, cho vay, FTP mua bán vốn] ở các kỳ hạn để khuyến khích các đơn vị cân đối điều chỉnh lại các hạng mục huy động cho vay nhằm mang lại mức lợi nhuận cao nhất.

Như vậy, một hệ thống FTP được xây dựng tốt sẽ giúp ngân hàng xác định được các rủi ro, kiểm soát và phân bổ nguồn vốn kịp thời, nâng cao hiểu quả sử dụng vốn, đưa ra những chính sách lãi suất FTP phù hợp thúc đẩy cho ĐVKD hoạt động hiệu quả, đồng thời ghi nhận khách quan và công bằng về sự đóng góp của các ĐVKD.

…Vâng, trên đây là những gì mình khái quát nhất về cơ chế FTP, về các phương pháp vận hành cơ chế FPT hay kỹ thuật tính lãi suất mua bán vốn, mình xin hẹn lại các bạn trong bài viết kỳ tới.

Một gợi ý nhỏ với những bạn sinh viên hoặc những ai yêu thích mảng này trong ngân hàng thì đòi hỏi phải có kiến thức tảng về các hoạt động trong ngân hàng; nắm vững và hiểu ro Bảng CĐKT ngân hàng, từng hoạt động phát sinh phải biết nó tác động thế nào danh mục tài sản và ghi nhận mục nào ở Bảng CĐKT vì như mình đã nói, nguyên tắc vận hành của cơ chế này là toàn bộ Tài sản nợ được bán vốn về HO, toàn bộ Tài sản có phải thực hiện mua vốn từ HO chứ không đơn thuần là bán các khoản huy động vốn và cho vay; một kỹ năng không thể thiếu nữa đó là kỹ năng Office, dĩ nhiên dân văn phòng không ai không biết kỹ năng này nhưng làm mảng này thì excel và lập trình phải giỏi vì lượng dữ liệu xử lý là khá lớn, các bạn cũng biết hệ thống 1 ngân hàng rất nhiều CN và PGD, mỗi CN và PGD lại phát sinh rất nhiều nghiệp vụ nên cần thao thác nhanh, dùng nhuần nhuyễn các hàm trong office; bên cạnh đó phải luôn update bản thân, cập nhật các kiến thức kinh tế, các đối thủ cạnh tranh để có thể đưa ra các tham mưu phù hợp. Những phòng ban liên quan mảng này: QUẢN TRỊ VỐN, QUẢN LÝ TÀI SẢN NỢ, ALCO.

Lãi suất vốn là gì?

Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của tiền vốn gửi vào/cho vay mà đơn vị nhận tiền gửi/người vay phải chi trả cho người gửi tiền/đơn vị cho vay trong một khoảng thời gian cụ thể [thường là theo năm]. Trong đó, các đối tượng gửi tiền/nhận tiền, cho vay/vay có thể là cá nhân, doanh nghiệp hoặc ngân hàng.

Lãi suất tái cấp vốn hiện tại là bao nhiêu?

Theo Quyết định 1123/QĐ-NHNN năm 2023, từ ngày 19/6/2023, quy định các mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như sau: 1. Lãi suất tái cấp vốn: 4,5%/năm.

Lãi suất hoàn vốn là gì?

Lãi suất hoà vốn là thước đo lạm phát mà nhà đầu tư kỳ vọng - mặc dù với số lượng hạn chế các loại trái phiếu cũng như ảnh hưởng của các yếu tố khác làm lãi suất hoà vốn không phải lúc nào cũng phản ánh đúng đánh giá của các nhà đầu tư.

Lãi suất huy động khác gì lãi suất cho vay?

Lãi suất huy động là tỷ lệ giữa số tiền lãi với số vốn huy động. Lãi suất cho vay là tỷ lệ giữa số tiền lãi và số tiền cho vay. Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất của các giao dịch vốn thực hiện giữa các ngân hàng với nhau.

Chủ Đề