Kinh tế chính trị xã hội văn hóa kếp hợp

Tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đánh giá cao những kết quả Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Bình đạt được. Sau hơn 30 năm tái lập, Ninh Bình từng bước phát triển khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trở thành tỉnh tự cân đối ngân sách và có nhiều thành quả trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an sinh, an toàn xã hội... Nét đặc biệt trong quá trình phát triển của Ninh Bình những nhiệm kỳ gần đây là sự nhất quán trong tư duy phát triển: Không phát triển kinh tế bằng mọi giá mà hài hòa, bền vững giữa phát triển kinh tế và bảo tồn di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, di tích lịch sử, giữ ổn định xã hội, lấy người dân làm trung tâm của phát triển.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải mong muốn trong thời gian tới, Ninh Bình sẽ kế thừa, phát huy những thành tựu để có nhiều hơn nữa những giải pháp mang tính đột phá, ứng dụng cao, nâng cao đời sống nhân dân, khơi dậy và hiện thực hóa khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Văn Hồi phát biểu tại Hội nghị.

Tại buổi làm việc, các đại biểu tập trung thảo luận các vấn đề: Nhận thức về phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người Việt Nam qua các kỳ Đại hội và trong các Nghị quyết có liên quan; đánh giá sự phát triển về nhận thức, tư duy sáng tạo, đột phá của Đảng bộ tỉnh về xây dựng, hoàn thiện các chủ trương, cơ chế, chính sách giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội và xây dựng con người Việt Nam; đánh giá thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người Việt Nam trên địa bàn Tỉnh; dự báo bối cảnh mới, phương hướng, quan điểm, mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và đề xuất, kiến nghị, định hướng giải pháp và khâu đột phá.

Theo các đại biểu, thời gian tới, tỉnh Ninh Bình cần làm rõ hơn đặc trưng này của tỉnh, quan tâm hơn đến việc đổi mới, sáng tạo trong các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, lựa chọn những ngành, lĩnh vực trọng tâm trọng điểm trên tinh thần phát huy giá trị văn hóa, con người, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa nhằm góp phần phát triển du lịch, trong đó có du lịch văn hóa. Tỉnh cần giữ gìn di sản, phát huy giá trị của di sản, lễ hội của địa phương; phát huy vai trò của người dân trong bảo tồn phát huy vai trò của văn hóa.

Quang cảnh buổi làm việc.

Theo báo cáo của Tỉnh ủy Ninh Bình, những năm qua, địa phương nỗ lực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Bình thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, gắn kết hài hòa giữa giá trị truyền thống và các giá trị văn hóa hiện đại, mang đặc trưng của con người vùng đất Cố đô Hoa Lư thân thiện, hiền hòa, thanh lịch, mến khách. Tỉnh lấy bảo tồn phát huy giá trị văn hóa, lịch sử cùng truyền thống tốt đẹp của con người vùng đất cố đô và giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An làm nguồn lực và động lực phát triển, hướng tới trở thành trung tâm văn hóa lịch sử, du lịch cấp quốc gia mang giá trị toàn cầu.

Ninh Bình hướng tới phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển, nâng cao đời sống vật chất và hưởng thụ văn hóa cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các miền và các giai tầng trong xã hội. Hiện toàn tỉnh có trên 98% xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa và thể thao, trên 97% thôn, xóm, phố có địa điểm sinh hoạt văn hóa. Ninh Bình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang dịch vụ du lịch hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững đã phát huy sức sống, tiềm năng và giá trị di sản để di sản thực sự là của cộng đồng, do cộng đồng bảo vệ và gìn giữ. Di sản Tràng An được UNESCO đánh giá là mô hình mẫu mực trong việc coi chính sách văn hóa là đòn bẩy mạnh mẽ cho các hành động của quốc gia, địa phương.

Tỉnh ủy Ninh Bình kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, tham mưu đề xuất và ban hành cơ chế, chính sách để đảm bảo mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần chủ trì, phối hợp các bộ, ngành nghiên cứu, tham mưu, đề xuất rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nghiên cứu, tham mưu, đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách đối với các hoạt động đặc thù của lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

, nhất là thập niên gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị về văn hóa. Đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5, Khóa 8 [1998], Kết luận của Hội nghị Trung ương 10, Khóa 9 và Nghị quyết Trung ương 9, Khóa 11. Đại hội XII của Đảng [2016] đã tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới ở nước ta; Đại hội XIII [2021] tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh, trong đó đều đề cập đến văn hóa. Đảng ta đã nhận định: Các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách văn hóa, con người từng bước được đổi mới, hoàn thiện. Từ năm 1998 đến nay, Quốc hội đã ban hành 16 luật, Chính phủ đã ban hành 68 Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Thông tư Văn hóa. Qua đó, đường lối văn hóa của Việt Nam đã được xác định rõ ràng. Tiêu biểu là:

- Xác định văn hóa Việt Nam là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển.

- Văn hóa có vị trí “soi đường cho quốc dân đi”, là một đặc trưng tạo nên chủ nghĩa xã hội, là thành tố hữu cơ không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Bác Hồ dạy “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Nghị quyết Trung ương 9 Khóa XI nhấn mạnh “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Do vậy, phải phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, chú ý đầy đủ yếu tố văn hóa, con người trong phát triển kinh tế, thực thi chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế…

- Chức năng của văn hóa là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, nâng cao dân trí, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lối sống lành mạnh, hướng con người tới chân thiện mỹ. Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa và xây dựng con người ngày càng sâu sắc hơn. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển.

- Tính chất văn hóa Việt Nam là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ 1943, đã xác định các đặc trưng dân tộc, khoa học đại chúng; nay nâng lên là dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học.

Đó là hệ quan điểm đúng đắn, rõ ràng, nhất quán trong các văn kiện, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa.

Một góc TPHCM ngày nay. [Ảnh: Nguyễn Hoàng]

  1. Vậy, tại sao từ đánh giá chính thức của Nhà nước đến dư luận xã hội đều nhận định là trong lúc kinh tế đất nước có sự phát triển khá, đời sống vật chất của nhân dân không ngừng được cải thiện, vận nước cũng tăng lên nhưng văn hóa ngày càng sa sút. Nhẹ thì cho rằng “so với những thành tựu đạt được về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu phát triển văn hóa, xây dựng con người chưa tương xứng”. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn hạn chế, chưa bền vững, chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả đến quá trình xây dựng con người và các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là tư tưởng, đạo đức, lối sống. Những yếu kém hạn chế trong lĩnh vực văn hóa được nhận ra từ lâu, nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng chậm được khắc phục. Không những vậy, trong những năm gần đây một số mặt có chiều hướng trầm trọng hơn, làm giảm niềm tin của dân chúng. Dư luận cho rằng một số loại hình văn hóa cụ thể như văn học nghệ thuật, môi trường văn hóa, các thiết chế văn hóa, xây dựng con người, phát triển giáo dục, đào tạo… có ít chuyển biến nhất là trong 10 năm qua.

Có ý kiến cho rằng sở dĩ văn hóa chưa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội như lời dạy của Bác Hồ là vì “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” trong các thời kỳ không có thuật ngữ “văn hóa”, nên văn hóa “có” cũng được, “không” cũng không sao [xem kỳ họp Quốc hội Khóa XV, lần thứ 2, trong phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư]. Đây là sự “bắt mạch” không chuẩn xác, vì thuật ngữ “kinh tế - xã hội” trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…” đã hàm chứa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, môi trường, quốc phòng, an ninh đối ngoại”. Vậy nên cần truy suất từ các hướng khác để có thể tìm ra đúng nguyên nhân của nó. Xin mạo muội trao đổi một số ý kiến.

- Trước hết, là do chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm “văn hóa”, hiểu chưa bao quát hết phạm vi rộng lớn, tính đa dạng và phong phú của văn hóa. Trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước ta, từ “văn hóa” cũng nhiều nghĩa, lúc thì biểu thị nghĩa rộng nhất, lúc chỉ nói đến một thành tố, một dạng thức, một phần giá trị của văn hóa, lúc lại hiểu là những hoạt động văn hóa cụ thể hay chỉ một lĩnh vực quản lý nhà nước. Từ đó, chưa hiểu sâu sắc vai trò của văn hóa đối với phát triển. Hiện nay thường nói “văn hóa và phát triển”, ví dụ “phát triển kinh tế đồng thời với phát triển văn hóa” hoặc “khi phát triển kinh tế cũng phải phát triển có văn hóa”, nghĩa là vẫn tách biệt. Các nhận định chính thống cũng phản ánh sự tách biệt đó, ví như “chưa tương xứng giữa văn hóa với kinh tế, chính trị…”. Trong lúc đó văn hóa nằm bên trong phát triển và văn hóa hàm chứa các nội dung mang tính chính trị, kinh tế. Ví như Nghị quyết Trung ương 5, Khóa VIII, nội hàm văn hóa gồm cả tư tưởng, đạo đức, khoa học, công nghệ và các loại hình văn học nghệ thuật, thiết chế, môi trường văn hóa… Văn hóa không đứng ngoài dù có đứng bên cạnh phát triển, nó nằm bên trong sự phát triển, là yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Phát triển đúng là phát triển luôn vì lợi ích con người, mà con người là chủ nhân văn hóa, nên vai trò chủ đạo là tính tất yếu vốn có của văn hóa. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là chính sách làm cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào quá trình sáng tạo của con người trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Văn hóa giữ vai trò định hướng, làm kim chỉ nam “soi đường”, đồng thời làm nền cho việc xác định các mô hình phát triển, điều tiết và quản lý quá trình phát triển. Mọi chủ trương, mô hình phát triển, kể cả những dự án phát triển cụ thể, nếu hàm lượng giá trị văn hóa cao thì càng có khả năng đạt hiệu quả cao, bảo đảm phát triển bền vững. Bởi vậy, phải kiến tạo được mô hình phát triển, trong đó “cái kinh tế” và “cái phi kinh tế” như là chính trị, xã hội, văn hóa, sinh thái hòa vào nhau thành một tổng thể, kết thành một dòng chảy hướng về một mục tiêu chung.

- Do tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan trong cơ chế của kinh tế thị trường, các thành tố quan trọng của văn hóa Việt Nam đều có sự sa sút so với trước đây.

Đạo đức vừa là gốc vừa là biểu hiện quan trọng nhất của văn hóa, của nhân cách con người. Trong chương trình nghiên cứu lý luận của Hội đồng Lý luận Trung ương mang mã số KX.04 đã tiến hành trong các nhiệm kỳ liên tiếp từ 2006 đến nay đều có đề tài nghiên cứu về hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con ngời Việt Nam, nhưng vẫn chưa được định chuẩn chính thức. Trong lúc đó thì “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi tiền tài, làm giảm sút lòng tin của nhân dân”[1] … Nhận định trên đã mang tính khái quát và có sự đồng thuận cao, ở mọi tầng lớp nhân dân, không cần phải minh chứng gì thêm.

- Giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giáo dục – đào tạo không những mang lại tri thức cho con người, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mà còn “dạy làm người” tức đào tạo chủ nhân văn hóa. Vậy mà giáo dục – đào tạo ở nước ta còn muôn ngàn khó khăn, hạn chế và yếu kém mà ai cũng có thể đánh giá, nhận xét được. Điều làm cho mọi người thực sự băn khoăn, lo lắng là tại sao giáo dục – đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” mà chất lượng đào tạo ngày càng sa sút. Kiến thức thì chưa tiên tiến, đào tạo nhân cách chưa coi trọng. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc đã được cảnh báo bao lần trên phương tiện thông tin đại chúng, cả trong nhiều văn bản nhà nước, nhưng rồi vẫn không được chú ý về nội dung và phương pháp, chưa xây dựng được chuẩn mực văn hóa, hình mẫu văn hóa trong giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.

Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. [Ảnh minh họa. Ảnh: Thanhuytphcm.vn]

- Văn học - nghệ thuật là bộ phận quan trọng của văn hóa, có chức năng nhận thức, giáo dục thẩm mỹ, giải trí, giao tiếp, tổ chức và điều chỉnh xã hội, tác động đến tâm hồn, tình cảm của con người, góp phần hình thành phẩm chất, phát triển nhân cách. Trong thời gian qua, số lượng tác phẩm văn học nghệ thuật không ít, song còn ít tác phẩm có giá trị cao, sâu sắc về tư tưởng và nghệ thuật. Khuynh hướng văn học nghệ thuật giải trí, sính ngoại, bắt chước, thậm chí nghiêng về khai thác mặt tiêu cực, “cái tôi” nhỏ mọn, hạ thấp chức năng giáo dục tư tưởng và thuần mỹ, ngày càng phổ biến. Có người cầm bút đã có tiếng tăm nay lại bỏ công sức khai thác những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống thường ngày lấy đòi hỏi tầm thường của cá nhân mình làm nguồn cảm hứng cho sáng tạo. Một số văn nghệ sỹ đăng tải những tác phẩm bôi đen hiện thực cuộc sống, thậm chí lật lại vấn đề lịch sử với góc nhìn phiến diện, chủ quan, ác ý.

- Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước luôn đề cập đến vấn đề xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, tạo điều kiện để mọi người được hưởng thụ văn hóa và văn hóa thấm sâu trong từng người, từng gia đình, từng khu dân cư, từng công sở… Song, môi trường văn hóa có nhiều yếu tố thiếu lành mạnh, các phong trào mang nặng tính hình thức và không có gì mới tạo ra tâm lý “nhờn” nhàm chán. Các tệ nạn xã hội, sự xâm lấn, thậm chí “xâm lăng văn hóa” của các luồng văn hóa ngoại lai khá mạnh. Môi trường học đường, đời sống gia đình, “tình làng nghĩa xóm” diễn biến theo chiều hướng ngày càng xuống cấp. Tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực phụ nữ, trẻ em, giết người cướp của từ đô thị phồn hoa đến nông thôn hẻo lánh trở thành ám ảnh, bất an của dân chúng.

Các thiết chế văn hóa và sự hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp nhân dân, nhất là ở các khu chế xuất, khu công nghiệp còn quá chênh lệch. Sự quản lý các loại hình hoạt động văn hóa như ca nhạc, vũ trường, karaoke dường như bị buông lỏng, nặng về kinh doanh, không quan tâm đúng mức về khía cạnh văn hóa.

- Báo chí - xuất bản bên cạnh sự phát triển nhanh toàn diện với những thành tựu rất đáng trân trọng cũng còn nhiều hạn chế, thiếu sót, gây tác động tiêu cực không nhỏ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sản phẩm báo chí, xuất bản là sản phẩm văn hóa đặc biệt, trong đó tiêu chí đầu tiên là trung thực, chính xác bởi nó làm chức năng thông tin. Nhưng một số trường hợp thông tin về một số vấn đề vốn phức tạp, nhạy cảm chính trị lại không được xem xét, cân nhắc chỉn chu, toàn diện mà cố tình thể hiện theo định kiến riêng, thậm chí thông tin sai sự thật, dẫn dắt dư luận theo hướng lệch lạc, gây tác động xấu trong đời sống văn hóa tư tưởng. Thông tin không trung thực, thiếu chính xác, giật gân theo kiểu “báo lá cải” là không làm tròn chức năng của báo chí là thông tin, định hướng, giáo dục. Gần đây thông tin mạng ào ạt ra đời nhiều loại hình với nội dung hết sức đa dạng, phức tạp, thậm chí phản động, phản văn hóa với ngôn ngữ xô bồ, lai căng, phản cảm nhưng dường như chưa có giải pháp quản lý hữu hiệu gây tác động tiêu cực khá lớn đối với sự nghiệp phát triển văn hóa quốc gia, dân tộc.

- Ở Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung “đạo làm gương” rất quan trọng, nhất là trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, nhân cách con người. Chính vì vậy, nhân dân ta vốn có kinh nghiệm “chọn mặt gửi vàng”, chọn cán bộ thường nghiêng về đức độ, vì “đức trị” là quan trọng hơn cả. Nhưng hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái như trên đã nói, nên thiếu “gương”, thiếu người để “gửi vàng” thì khủng hoảng, sa sút niềm tin là lẽ đương nhiên. Chịu trách nhiệm chính về sự sa sút văn hóa nêu trên là đội ngũ làm công tác văn hóa. Đảng ta nhận định “công tác quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, phát huy đội ngũ cán bộ văn hóa chưa đúng tầm. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, tham mưu cho văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ”. Có những “thủ lĩnh” các lĩnh vực văn hóa lại thiếu hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ. Việc bố trí cán bộ không có chuyên môn, không hiểu biết về lĩnh vực làm công tác quản lý văn hóa dẫn đến công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chưa có một nhà văn hóa thực thụ làm “thủ lãnh” đích thực của ngành văn hóa. “Mọi thành bại trong công việc đều do cán bộ tốt hay kém”. Đó là gốc của mọi vấn đề đã được nêu ra trên đây.

PGS.TS Phan Xuân Biên

Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

_______________

[1] Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XI. NXB Chính trị Quốc gia. 2012. 21-22

Chủ Đề