Kế toán công ty lắp đặt điều hòa năm 2024

  • 1. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 1 LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển như vũ báo của khoa học kĩ thuật, sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế việt nam đang từng bước đẩy mạnh hòa nhập và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế. Theo tiến trình đó,việc đô thị hóa đất nước ngày càng cao, hàng loạt các công trình kiến trúc, cơ sở hạ tầng được xây dựng. Có thể nói tốc độ phát triển của lĩnh vực đầu tư xây lắp là chưa từng có ở nước ta và xu hướng sẽ phát triển mạnh hơn ở tương lai không xa. Trước sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường cùng với đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản là vốn đầu tư lớn thời gian thi công thường kéo dài,trải qua nhiều khâu,….vấn đề đặt ra là phải quản lý vốn thật tốt và hiệu quả đồng thời, khắc phục được tình trạng thất thoát, láng phí trong quá trình sản xuất, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Mối quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp làm sao cho kinh doanh hiệu quả và thu được lợi nhuận.Lợi nhuận quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của doanh nghiệp.Chính vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp đưa ra thị trường nhưng sản phẩm có tính cạnh tranh cao về giá cả phù hợp với người tiêu dùng. Để làm được điều này ngoài việc doanh nghiệp nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng doanh nghiệp còn phải có biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.Chi phi sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt đối lập. Ta không thể bỏ chi phí ra ít mà thu về được nhiều lợi nhuận, vấn đề ở đây là chi phí bỏ ra phải phù hợp với sản xuất để thu được mức lợi nhuận tối đa. Đứng trước thực tế đó công ty công nghệ điện lạnh Vinashin không ngừng đổi mới, tìm ra những biện pháp để hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vì nó là giải pháp hữu hiệu nhất góp phần quản lý và hạch toán tốt công tác kế toán của công ty. Qua thời gian thực tập tại phòng kế toán của công ty cổ phần công nghệ điện lạnh Vinashin nhận được sự giúp đỡ của GS.TS .Ngô Thế Chi cùng các cô chú ở phòng kế toán, đồng thời tiếp cận với thực tế công tác kế toán đặc biệt là công tác tập hợp chi phí sản xuất. Nhận thức được tầm quan trọng và cấp thiết của hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong toàn bộ
  • 2. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 2 công tác kế toán của doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết của mình em xin được trình bày đề tài “Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần công nghệ điện lạnh Vinashin ” Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được chia làm 3 chương : Chương 1 : Lý luận chung về công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. Chương 2 : Tình hình thực tế về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần công nghệ điện lạnh VINASHIN. Chương 3 : Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sảnxuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần công nghệ điện lạnh VINASHIN. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn kế toán, đặc biệt là Gs - Ts Ngô Thế Chi đã giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu Mặc dù có rất nhiều cố gắng song thời gian tiếp cận thực tế và trình độ lý luận còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, mong được sự đóng góp của các thầy cô, đó sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho công tác thực tế sau này. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, tháng 4 năm 2010 Sinh viên Nguyễn Thị Hằng
  • 3. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 1.1. Sự cần thiết tổ chức công tác kế toánchi phí sảnxuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 1.1.1. Đặc điểm ngành Xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp tác động đến công tác kế toán. *Đặcđiểm vềtổ chức sản xuất. Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất có vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Xây dựng cơ bản là quá trình xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo, hiện đại hoá, khôi phục công trình, nhà máy, xí nghiệp, đường xã, nhà cửa nhằm phục vụ cho đời sống, sản xuất xã hội. Chi phí đầu tư cho xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng Ngân sách của Nhà nước cũng như của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp xây lắp thường có địa bàn hoạt động rộng, sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất thường diễn ra ngoài trời, chịu sự tác động trực tiếp của khí hậu, thời tiết nên việc thi công ở mức độ nào đó mang tính thời vụ. Các điều kiện để sản xuất như: xe, máy, nhân công, thiết bị, phương tiện thi công, phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Do đặc điểm này nên trong quá trình thi công cần quản lý lao động, vật tư chặt chẽ, thi công nhanh đúng tiến độ khi điều kiện môi trường thời tiết thuận lợi. *Đặc điểm về sản phẩm xây lắp. Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng,vật kiến trúc… mang tính riêng lẻ, đơn chiếc, mỗi sản phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế kỹ thuật, kết cấu hình thức địa điểm xây dựng khác nhau. Bên cạnh đó do sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công kéo dài nên trong quá trình xây lắp tuy chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử dụng nhiều vật tư, nhân lực vốn nên việc quản lý đỏi hỏi phải lập dự toán, thiết kế và thi công để theo dõi, kiểm tra quá trình sản xuất, thi công, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và đảm bảo chất lượng công trình.
  • 4. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 4 Do thời gian thi công kéo dài nên kỳ tính giá thành sản phẩm thường không xác định hàng tháng như trong sản xuất công nghiệp mà xác định theo thời điểm từ khi công trình, hạng mục công trình thi công đến khi hoàn thành. Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện cần thiết khác cho sản xuất như các loại xe máy, thiết bị, nhân công… phải di chuyển theo địa điểm đặt công trình. Mặt khác, việc xây dựng còn chịu tác động của địa chất công trình và điều kiện thời tiết, khí hậu của địa phương…cho nên công tác quản lý và sử dụng tài sản, vật tư cho công trình rất phức tạp, đòi hỏi phải có mức giá cho từng loại công tác xây, lắp cho từng vùng lãnh thổ. Nhận thầu là phương pháp chủ yếu trong công tác xây lắp. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hay giá thỏa thuận với chủ đầu tư do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ. *Đặc điểm về cơ chế khoán trong xây lắp. Trong các doanh nghiệp xây lắp, cơ chế khoán đang được áp dụng rộng rãi với các hình thức giao khoán khác nhau: khoán gọn công trình, khoán theo từng khoản mục chi phí. cho nên phải hình thành bên giao khoán, bên nhận giao khoán và giá khoán. Các đơn vị nhận khoán [ Xí nghiệp, đội, tổ... ] có thể nhận khoán gọn khối lượng công việc hoặc hạng mục công trình và phải chịu trách nhiệm về mặt nội dung, tính hợp pháp của bản vẽ hoàn công, hồ sơ quyết toán công trình, bên nhận khoán có trách nhiệm thi công đảm bảo hiệu quả kinh tế, tổ chức bộ máy thi công tại công trình đảm bảo an toàn lao động, đúng tiến độ, chất lượng, kỹ mỹ thuật theo hồ sơ thiết kế đã phê duyệt do chủ đầu tư cung cấp. Bên giao khoán có quyền đình chỉ thi công khi bên nhận khoán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các điều khoản của hợp đồng…Đồng thời tính và thanh quyết toán cho bên nhận khoán theo giá trị giao khoán trên cơ sở phiếu nghiệm thu, phiếu tính giá thành thanh quyết toán đã được chủ đầu tư phê duyệt.
  • 5. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 5 Giá nhận khoán gọn bao gồm cả chi phí tiền lương, vật liệu, công cụ, dụng cụ thi công, chi phí chung. 1.1.2. Khái niệm, bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 1.1.2.1.khái niệm, bản chất Chi phí sản xuất. * khái niệm: Trong quá trình tiến hành hoạt động thi công, các doanh nghiệp xây lắp luôn phải có đủ các yếu tố : tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong đó tư liệu lao động và động tượng lao động đóng vai trò lao động vật hoá còn sức lao động đóng vai trò lao động sống. Những yếu tố này đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ và được xác định là chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chi ra để tiến hành thi công công trình. Như vậy, chi phí sản xuất được hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra tiến hành hoạt động sản xuất trong một thời kì nhất định được biểu hiện bằng tiền * bản chất : Chi phí sản xuất là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào đốitượng tính giá nhất định nhưng nó khác với chi tiêu và cũng khác với vốn. Chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất và được bù đắp bằng thu nhập hoạt động sản xuất kinh doanh; chi tiêu là việc dùng tiền để chi cho các hoạt động ngoài sản xuất kinh doanh, có thể lấy từ các quỹ của doanh nghiệp và không được bù đắp. Còn vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất với mục đíchsinh lời nhưng không phải đều là phí tổn. 1.1.2.2. Giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ những chi phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí bằng tiền khác mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình theo quy định. Trong doanh nghiệp xây dựng , Để quản lý có hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động thi công công trình, doanh nghiệp luôn cần biết số chi phí đã chi ra cho
  • 6. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 6 từng loại hoạt động, từng loại công trình là bao nhiêu, số chi phí chi ra đã cấu thành trong công trình hoàn thành là bao nhiêu, tỷ trọng từng loại chi phí, khả năng hạ thấp các loại chi phí này… Chỉ tiêu thoả mãn được những thông tin mang các nội dung trên chính là giá thành sản phẩm. Như vậy, giá thành sản phẩm được xác định bao gồm những chi phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác được dùng chosản xuất, thi công hoàn thành một công trình, hạng mục công trình nhất định. Giá thành sản phẩm chính là sự dịch chuyển giá trị của những yếu tố chi phí bên trong nó, còn chi phí là cơ sở để hình thành nên giá thành. Trong kế toán quản trị thì giá thành sản phẩm xây dựng là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, việc tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, nhân công, rút ngắn thời gian thi công sử dụng hợp lý vốn sản xuất cùng với các giải pháp kinh tế kỹ thuật áp dụng trong toàn doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp quản lý, sử dụng chi phí hợp lý hạ giá thành ở mức tối đa. 1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất là hai chỉ tiêu có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất thi công,chiphí sản xuất là đầu vào là nguyên nhân dẫn đến kết quả đầu ra là giá thành sản phẩm . Việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất quyết định đến tính chính xác của giá thành sản phẩm. Chi phí biểu hiện hao phí còn giá thành biểu hiện kết quả sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một vấn đề vì vậy chúng giống nhau về bản chất là: giá thành và chi phí đều bao gồm các chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên chi phí và giá thành khác nhau trên hai phương diện: - Về mặt phạm vi: Chi phí sản xuất gắn với một thời kỳ nhất định, không phân biệt là cho loại công trình nào, đã hoàn thành hay chưa còn giá thành sản phẩm
  • 7. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 7 là xác định một lượng chi phí sản xuất nhất định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định. - Về mặt lượng: Tại thời điểm tính giá thành có thể có một công trình chưa hoàn thành, chứa đựng một lượng chi phí cho nó, đó là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Tương tự, đầu kỳ có thể có một khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành ở kỳ trước chuyển sang để tiếp tục thi công, chứa đựng một lượng chi phí trong nó, đó là chi phí dở dang đầu kỳ. Như vậy mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm có thể khái quát qua công thức sau: Tổng giá thành sản phẩm = Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Trong trường hợp đặc biệt khi chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ bằng chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ hoặc không có sản phẩm làm dở thì tổng giá thành bằng tổng chi phí sản xuất trong kỳ. 1.1.4. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuấtvà tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. Tổ chức kế toán hợp lý chi phí sản xuất xây lắp và tính đúng, tính đủ giá thành công trình có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành xây dựng trong việc kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung và các tổ đội xây dựng nói riêng. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng công trình, từng hạng mục công trình của quá trình sản xuất kinh doanh. Qua đó có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
  • 8. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 8 Chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp được chủ động hành động theo phương hướng riêng và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. để có thể cạnh tranh được trên thị trường. Như vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phần không thể thiếu được khi thực hiện chế độ kế toán, hơn nữa nó còn có ý nghĩa to lớn và chi phối chất lượng công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp. 1.1.5. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuấtvà tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp xây lắp Trong doanh nghiệp xây lắp chi phí xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp là những chỉ tiêu quan trọng luôn được các doanh nghiệp quan tâm vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đặc thù riêng của ngành XDCB và của sản phẩm xây lắp nên việc quản lý công tác đầu tư và xây dựng gặp rất nhiều khó khăn. Để hoạt động này diễn ra có hiệu quả các công tác ty quản lý nhà nước đã sử dụng điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. Trong điều lệ này chính phủ đã nêu rõ: - Công tác đầu tư và xây dựng phải đảm bảo đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác nguồn tài nguyên tiềm năng lao động đất đai và mọi tiềm năng khác, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái. - Xây dựng phải theo quy hoạch, kiến trúc và thiết kế được duyệt, đảm bảo độ bền vững, mỹ quan, thực hiện cạnh tranh trong xây dựng nhằm áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý và thực hiện bảo hành công trình. Để đạt được điều này các nhà quản lý phải có biện pháp quản lý thích hợp, chặt chẽ chi phí sản xuất, tìm cách giảm tối thiểu chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm thành nhưng chất lượng xây dựng không giảm mà vẫn thu được nhiều lợi nhuận. Bên cạnh đó một mặt phải cải tiến kỹ thuật để tăng năng suất, tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trọng tâm là quản lý chi phí sản xuất. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay bên cạnh phương thức quản lý XDCB truyền thống [quản lý tập trung] còn có một phương thức quản lý mới đó là phương thức giao khoán sản phẩm xây lắp cho các đơn vị cơ sở, các tổ đội thi công. Phương thức quản lý này rất phù hợp với điều kiện cơ chế thị trường vì:
  • 9. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 9 + Gắn liền với lợi ích vật chất của người lao động, tổ đội thi công với khối lượng, chất lượng và tiến độ thi công công trình. + Xác định rõ trách nhiệm vật chất trong xây dựng. + Mở rộng quyền tự chủ về mặt hạch toán kinh doanh + Phát huy khả năng sẵn có trên nhiều mặt của các đơn vị cơ sở. Các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng chủ yếu hai hình thức khoán sau: Hình thức khoán gọn công trình Theo phương thức này đơn vụ giao khoán khoán toàn bộ giá thành sản phẩm trị công tác trình cho bên nhận khoán. Khoán trọn gói toàn bộ các khoản mục chi phí bao gồm vật liệu, nhân công tác, máy thi công và các kkhoản mục khác cho đội nhận khoán. Đội nhận khoán tự tổ chức thực hiện theo tiến độ được quy định cụ thể, tự chịu trách nhiệm về chất lượng công trình, tiến độ an toàn. Khi công trình hoàn thành bàn giao quyết toán sẽ đựoc thanh toán toàn bộ giá thành sản phẩm trị công trình nhận khoán. Đội nhận khoán nộp lại doanh nghiệp số phải nộp ngân sách, số trích quỹ doanh nghiệp. Hình thức khoán theo từng khoản mục chi phí Khi bên giao khoán tiến hành giao khoán từng khoản mục chi phí cho đội nhận khoán theo hợp đồng giao khoán [vật liệu, nhân công, sử dụng máy thi công]. Đội nhận khoán thực hiện các khoản mục chi phí được giao khoán, các khoản mục khác bên giao khoán có trách nhiệm thực hiện các khoản mục chi phí không giao khoán đồng thời tiến hành giám sát chất lượng công trình. Khi khối lượng công việc công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao, đội nhận khoán sẽ được thanh toán khoản chi phí nhận khoán theo giá thành sản phẩm giao khoán. Tổ chức kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm một cách khoa học, hợp lý và đúng đắn có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm. Việc tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp, ở từng bộ phận, từng đối tượng, góp phần tăng cường quản lý tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn một cách tiết kiệm, hiệu quả. Mặt khác, tạo điều kiện phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành. Đó là một trong những điều kiện quan trọng tạo cho doanh nghiệp một ưu thế trong cạnh tranh. Mặt khác, giá thành sản phẩm còn là cơ sở để định giá bán sản phẩm, là cơ sở để đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, phân tích chi phí, đồng thời còn là căn cứ để xác định kết quả kinh doanh kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm với
  • 10. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 10 nội dung chủ yếu thuộc về kế toán quản trị, cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp. Song nó lại là khâu trung tâm của toàn bộ công tác kế toán trong doanh nghiệp, chi phối đến chất lượng các phần hành kế toán khác cũng như chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý kinh tế tài chính trong doanh nghiệp. Để quản lý chi phí có hiệu quả trước tiên phải nhận định và hiểu cách phân loại của từng loại chi phí nhằm kiểm soát tổng chi phí và các chi phí riêng biệt. Xây dựng định mức chi phí và quản lý chi phí theo định mức để có thể xác định các khoản chi tiêu là tiết kiệm hay lãng phí để kịp thời điều chỉnh. Phải quản lý chi phí theo từng loại chi phí và địa điểm phát sinh chi phí, có như vậy mới đảm bảo được việc tiết kiệm ở từng bộ phận sử dụng chi phí. Trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì yêu cầu quản lý khác nhau. Vì vậy, cần không ngừng hoàn thiện và nâng cao tính hữu hiệu trong quản lý. 1.2. Phân loại chi phí sản xuất và các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp 1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp Đối với doanh nghiệp xây dựng thì việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ dựa vào các số liệu tổng hợp về chi phí mà còn căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí theo từng công trình , hạng mục công trình ở từng thời điểm nhất định. Do vậy, việc phân loại chi phí sản xuất là yêu cầu tất yếu đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp, giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý chi phí sản xuất. Tùy theo yêu cầu của từng mặt quản lý, giác độ xem xét chi phí... mà các loại chi phí được sắp xếp, phân loại theo các cách thức sau đây : 1.2.1.1.. Phân loại căn cứ vào nội dung, tính chất kinh tế của chi phí Các chi phí có cùng nội dung và tính chất kinh tế vào một loại gọi là yếu
  • 11. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 11 tố chi phí, mà không phân biệt chi phí đó phát sinh ở đâu và có tác dụng như thế nào. Theo chế độ kế toán hiện hành tại Việt Nam khi quản lý và hạch toán chi phí sản xuất các doanh nghiệp phải theo dõi được chi phí theo 5 yếu tố: -Chi phí nguyên liệu vật liệu : [gồm chi phí nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ] như: Xi măng, cát, gạch sắt thép và các vật liệu phụ như que hàn, ... -Chi phí nhân công : Yếu tố chi phí nhân công là các khoản chi phí về tiền lương phải trả cho người lao động, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tiền lương của người lao động. -Chi phí khấu hao máy móc thiết bị : Là toàn bộ số tiền trích khấu hao của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất của doanh nghiệp. -Chi phí dịch vụ mua ngoài : Là số tiền phải trả cho các dịch vụ mua ngoài phục vụ cho các hoạt động thi công của doanh nghiệp. -Chi phí khác bằng tiền : Là các khoản chi phí bằng tiền phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí nói trên. Cách phân loại này chỉ tính chi phí phát sinh lần đầu, không tính chi phí luân chuyển nội bộ. Cách phân loại cho biết nội dung, kết cấu tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã sử dụng vào quá trình thi công trong tổng chi phí của doanh nghiệp. Từ đó là cơ sở để xây dựng các dự toán chi phí sản xuất, xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp… 1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng kinh tế Theo cách phân loại này, mỗi khoản mục chi phí bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí có nội dung kinh tế như thế nào. Mỗi loại chi phí thể hiện điều kiện khác nhau của chi phí sản xuất, thể hiện nơi phát sinh chi phí, đối tượng gánh chịu chi phí làm cơ sở cho việc tính
  • 12. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 12 giá thành sản phẩm xây lắp theo khoản mục, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành … -Chi phí NVLTT: là chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ, vật kết cấu và các thiết bị đi kèm với vật kiến trúc như thiết bị vệ sinh, thông gió, điều hoà nhiệt độ… -Chi phí NCTT : bao gồm tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp kể cả công nhân của doanh nghiệp và công nhân thuê ngoài. -Chi phí sử dụng máy thi công: là chi phí liên quan đến việc sử dụng máy thi công trực tiếp cho việc thực hiện sản phẩm xây lắp bao gồm: chi phí khấu hao máy thi công, tiền thuê máy thi công, tiền lương của công nhân điều khiển máy thi công; chi phí nhiên liệu, động lực, dầu mỡ dùng cho máy thi công; chi phí sửa chữa máy thi công… -Chi phí sản xuất chung: là các chi phí khác ngoài các khoản chi phí trên phát sinh ở tổ đội, công trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội; các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và tiền ăn ca của công nhân viên toàn đội xây dựng; vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng chung cho đội xây dựng; khấu hao tài sản cố định dùng chung cho đội xây dựng; chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền dùng chung cho đội xây dựng. 1.2.1.3. Phânloại chi phí sản xuất kinh doanh theo khả năng quynạp chiphí vào các đối tượng kế toán chi phí -Chi phí trực tiếp : Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí [như từng loại công trình, đơn đặt hàng…]; chúng ta có thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí
  • 13. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 13 -Chi phí gián tiếp : Là những chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí khác nhau nên không thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng tập hợp chi phí được mà phải tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí khi chúng phát sinh, sau đó quy nạp cho từng đối tượng theo phương pháp phân bổ gián tiếp. Cách phân loại này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật quy nạp chi phí vào đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, giúp cho việc kiểm soát chi phí được thuận lợi hơn. 1.2.1.4. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động -Chi phí khả biến [chi phí biến đổi] : là những chi phí thay đổi về tổng số khi có sự thay đổi mức độ hoạt động của doanh nghiệp. -Định phí [chi phí cố định] : Là những chi phí mà về tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động của đơn vị. -Chi phí hỗn hợp : Là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố định phí và biến phí. Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết kế, xây dựng mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn cũng như ra các quyết định kinh doanh quan trọng. Mặt khác, còn giúp nhà quản trị doanh nghiệp xác định đúng đắn phương hướng để nâng cao hiệu quả chi phí, là cơ sở để xây dựng dự toán chi phí hợp lý. 1.2.2. Các loại giá thành trong doanh nghiệp xây lắp 1.2.2.1. Căn cứ vào thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành sản phẩm
  • 14. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 14 - Giá thành dự toán : Là tổng chi phí dự toán để hoàn thành sản phẩm xây lắp. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức và đơn giá chi phí do Nhà nước quy định [đơn giá bình quân khu vực thống nhất]. Giá thành này nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần thu nhập chịu thuế tính trước và thuế giá trị gia tăng đầu ra : Giá thành dự toán công Giá trị dự toán Thu nhập Thuế trình, hạng mục = công trình, hạng mục - chịu thuế - GTGT công trình công trình tính trước đầu ra - Giá thành kế hoạch : Là giá thành được xây dựng trên cơ sở những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, biện pháp tổ chức thi công. Giá thành kế hoạch thường nhỏ hơn giá thành dự toán ở mức hạ giá thành kế hoạch. giá thành kế hoạch được xác định theo công thức: Giá thành kế hoạch của CT, HMCT = Giá thành dự toán của CT, HMCT - Mức hạ giá thành kế hoạch - Giá thành thực tế : Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế để hoàn thành sản phẩm xây lắp. Giá thành này được tính trên cơ sở số liệu kế toán chi phí sản xuất tập hợp được cho sản phẩm xây lắp thực hiện trong kỳ. Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào lắp đặt, bởi vì thiết bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho doanh nghiệp nhận thầu xây lắp. Giá thành sản phẩm bàn giao được xác định theo công thức : Giá thành thực của KL xây lắp HT bàn giao = CP thực tế KL xây lắp dở dang đầu kỳ - CP thực tế phát sinh trong kỳ - CP khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ
  • 15. tËp Häc viÖn tµi chÝnh SV : NguyÔn ThÞ H»ng CQ 44/ 21. 01 15 Mỗi loại giá thành trên đều được xác định cụ thể cho từng công trình, hạng mục công trình nhất định.Cũng cần phải nói thêm rằng, muốn đánh giá được chất lượng của công tác xây lắp, ta phải tiến hành so sánh các loại giá thành với nhau. Nói chung, để đảm bảo có lãi, về nguyên tắc khi xây dựng kế hoạch giá thành và tổ chức thực hiện kế hoạch giá thành phải đảm bảo mối quan hệ sau. Giá thành thực tế

Chủ Đề