Hoàng trung thông là ai

- Nhà thơ Hoàng Trung Thông sinh ngày 05.05.1925, .mất năm 1993 tại Hà Nội.

- Quê gốc: xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Trong kháng chiến chống Pháp, lúc đầu ông hoạt động văn nghệ ở Liên khu IV, sau ra công tác ở Hội văn nghệ Trung ương.

- Ông từng là Vụ trưởng Vụ Văn nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương, Thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ, Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ, Viện trưởng Viện Văn học thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Văn học, Ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam các khóa I, và II.

- Hoàng Trung Thông thuộc lớp các nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp [1946-1954]. Ông tiếp tục làm thơ và xuất bản thơ trong và sau những năm chống Mỹ cứu nước

 1. Tác phẩm:

- Quê hương chiến đấu [thơ – 1055],

- Đường chúng ta đi [thơ – 1960],

- Những cánh buồm [thơ – 1964],

- Đầu sóng [thơ – 1968],

- Trong gió lửa [thơ – 1971],

- Như đi trong mơ [thơ – 1977],

- Chiến công tuốt thơ [thơ – 1983],

- Những ngày thu ở Liên Xô [bút ký – 1983],

- đường mới của văn học chúng ta [phê bình tiểu luận – 1961],

- Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống [phê bình tiểu luận – 1979].

2. Phong cách:

- Thơ ca của ông giúp con người sống tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, đánh thức tình yêu với con người, nỗ lực đấu tranh vì những lý tưởng nhân đạo và sự tiến bộ của con người.

- Thơ Hoàng Trung Thông ảnh hưởng mạnh mẽ và tác động tới đời sống nhiều thế hệ.

[Congannghean.vn]-Nhà thơ Hoàng Trung Thông [SN 1925] và vợ là bà Hồ Thị Hoa sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu nhưng phần lớn cuộc đời sinh sống tại đất Hà Thành. Về làng Quỳnh Đôi bây giờ, các thế hệ con cháu vẫn truyền tai nhau câu chuyện về mối tình đặc biệt của nhà thơ Hoàng Trung Thông và vợ. Đặc biệt bởi hai ông bà đều không biết mặt nhau, hai người nên duyên từ sự mối lái của cha mẹ. Thế nhưng, về sau tình yêu ông bà dành cho nhau ngày càng đậm sâu. Là thi sĩ nổi tiếng vốn mang danh “đào hoa”, nhưng ông vẫn luôn một lòng với người vợ tảo tần.

Mối lương duyên trời định

Bà Hồ Thị Hoa sinh ra trong gia đình danh giá bậc nhất ở làng Quỳnh Đôi, là cháu ngoại quan Thượng thư, cháu nội ông Nghè. Thời ấy, với sự giáo dục khắt khe của gia đình, bà nổi tiếng một vùng bởi sự dịu dàng, mẫu mực, giỏi nữ công gia chánh. Chuyện tình cảm, lấy chồng của bà cũng do cha mẹ quyết định, theo truyền thống “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Thi sĩ Hoàng Trung Thông ngày ấy cũng là một trong hai người của làng đỗ Trường Quốc học Vinh, là ngôi trường nổi tiếng bậc nhất của Nghệ An lúc bấy giờ. Cả nhà thơ Hoàng Trung Thông và bà Hoa đều không hề biết rằng, gia đình hai bên đã gặp gỡ, bàn bạc về chuyện đám cưới.

Đến năm Hoàng Trung Thông tròn 18 tuổi, đang học tại Trường Quốc học Vinh, còn bà Hoa mới 15. Lúc này, một đám cưới giản dị diễn ra trong không khí ấm cúng, dù không có mâm cao cỗ đầy và không có... chú rể vì đang bận học xa, chỉ có họ hàng hai bên và chén nước chè nhạt. Phải hơn một năm sau khi chú rể tốt nghiệp và cô dâu bước sang tuổi 16 thì bên nhà trai mới đón dâu về ở cùng. Đêm tân hôn, cô dâu và chú rể lần đầu biết mặt nhau nên ai cũng ngượng ngùng.

Nhà thơ Hoàng Trung Thông vô cùng bất ngờ vì không nghĩ vợ mình trẻ tuổi đến vậy, bởi trước đó, cha mẹ ông đã “dạm” cho vài ba “mối” nhưng ai cũng đáng tuổi chị, bởi họ quan niệm con trai nên lấy vợ lớn tuổi để tiện bề chăm sóc cha mẹ già. Câu chuyện tâm tình trong đêm tân hôn khiến bà Hoa ngay trong lần đầu gặp mặt chồng đã thật sự đem lòng yêu thương người con trai rất đỗi chân thành ấy. Cưới nhau được một thời gian ngắn, Hoàng Trung Thông tham gia cách mạng, đến khi giải phóng thủ đô thì đưa cả vợ con ra Hà Nội sinh sống để phục vụ chiến đấu. Cũng từ đó, hai vợ chồng ông gắn bó với đất Hà thành cho đến nay.

Căn gác nhỏ tầng 2 ở 70 Ngô Quyền [Hà Nội] là nơi sinh sống của vợ chồng ông bà cùng 5 người con. Cả 5 người con đều được ông bà đặt tên của những loài hoa: Bích Hồng, Bích Liên, Bích Hà, Hướng Dương và Phượng Vĩ. Hoàng Trung Thông là nhà thơ nổi tiếng thành đạt bởi ông đã từng giữ rất nhiều chức vụ, thế nhưng cuộc sống của gia đình vẫn kham khổ. Bà Hoa phải làm thuê đủ thứ việc để nuôi 5 người con ăn học trưởng thành nhưng không một lời ca thán, ngược lại, bà luôn cảm thông, chia sẻ với chồng. Nhà thơ Hoàng Trung Thông là người tự lập, không thích luồn cúi và ông luôn hướng con cái đến phẩm chất này.

Vợ chồng nhà thơ Hoàng Trung Thông năm 1970 - Ảnh tư liệu

Khi con trai duy nhất tốt nghiệp trường kiến trúc, ông để cho cậu đi bốc vác thuê, trong khi ông là Viện trưởng, với mối quan hệ của mình thì có thể dư sức xin cho con vào một cơ quan Nhà nước. Nhà thơ Hoàng Trung Thông chỉ mê thơ, làm bạn với rượu, còn chức tước, bổng lộc, ông chẳng màng. Ông nghiện rượu nhưng bà chẳng chê trách, bởi bà hiểu “tâm can” ông, nên dù vất vả đến đâu vẫn dành tiền mua rượu và đồ nhắm cho chồng, đến nỗi con trai bà là họa sĩ Phượng Vĩ đã từng phải thốt lên: “Cả đời bà phải chịu đựng 2 kẻ nghiện rượu đó là chồng và con trai”.

Thi sĩ “gàn” xứ Nghệ

Hoàng Trung Thông tham gia cách mạng từ sau năm 1945 cho đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng. Cũng như nhiều thi sĩ xứ Nghệ khác, dù sống ở thủ đô nhiều năm nhưng ông vẫn giữ được chất “gàn” trong tính cách. Trong giới văn nghệ sĩ cùng thời kỳ, Hoàng Trung Thông là nhà thơ có sự nghiệp vẻ vang nhất khi giữ nhiều chức vụ quan trọng như Tổng Biên tập báo Văn nghệ và tạp chí Tác phẩm mới, Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ - Ban Tuyên giáo Trung ương và Viện trưởng Viện Văn học kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Văn học từ năm 1976 - 1985. Ông cũng là nhà thơ có nhiều bài thơ được nhiều thế hệ biết đến qua sách giáo khoa như “Bài ca vỡ đất”, “Bài ca báng súng”, “Bộ đội về làng”, “Những cánh buồm”…

Hoàng Trung Thông là lãnh đạo duy nhất của Viện Văn học và tất cả các cơ quan từ xưa đến nay không có phòng làm việc. Ngày ấy, tòa nhà Pháp 20 Lý Thái Tổ, tầng 1 dành cho Viện Văn học, tầng 2 là Viện Ngôn ngữ học [Viện trưởng là GS. Hoàng Tuệ, thân sinh nhà văn Bảo Ninh]. Mỗi khi trao đổi, chỉ đạo, ký duyệt gì, ông lại đến từng phòng. Ông kiến nghị nâng lương cho cán bộ, còn mình đạp xe Thống Nhất đi làm, cuốc bộ từ 70 Ngô Quyền đến cơ quan, dù tiêu chuẩn có xe ôtô Lada trắng đưa đón. Hoàng Trung Thông sống cuộc đời thanh bạch, không chút điều tiếng. Ông quan tâm đến đời sống của tất cả anh em cán bộ, không màng tư lợi, thế nên cuộc sống của gia đình lúc nào cũng thiếu thốn.

Hoàng Trung Thông “gàn” đến nỗi đã từng được đề nghị phong hàm Giáo sư nhưng lại từ chối, bởi ông tâm niệm: “Làm một nhà thơ cũng đủ lắm rồi”. Năm 1976, ông viết thư gửi Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh và Bí thư Đảng đoàn khối Văn học nghệ thuật Hà Huy Giáp xin thôi vào Ủy viên Trung ương Đảng khi tự nhận mình “chuyên môn vững vàng nhưng sinh hoạt bê tha”. Sự bê tha ấy là nghiện rượu, bởi ông thích được tự do “chén chú chén anh” với những người bạn. Vậy nên có ai đó nói “Cuộc đời ông khắc nghiệt nhất khi phải làm quan” có lẽ không sai, bởi ông chỉ yêu thơ và rượu. Ngoài thời gian làm việc nước, ông dành trọn thời gian còn lại cho thơ. Thi sĩ Hoàng Trung Thông để lại cho đời 9 tập thơ và nhiều bút ký. Trong đó những câu thơ như “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” đã trở thành châm ngôn sống của biết bao thế hệ.

Ông yêu thơ và rượu nhưng vẫn “không quên” yêu thương vợ, cả cuộc đời một mực thủy chung với bà. Với ông, bà là người đã chia ngọt sẻ bùi, hy sinh cả cuộc đời để ông được sống với cái “gàn” của mình. Cuối đời ông đã viết tặng cho bà rất nhiều vần thơ, trong đó có những câu mới chỉ đọc, ta đã thấy hiện rõ hình ảnh người vợ tảo tần của ông cũng như cảm được tình yêu sâu nặng mà ông dành cho bà: “Còn anh chơi rượu, em xuôi ngược/ Lo lắng ngày đêm không nghỉ ngơi/ Cả một đời anh chỉ một người/ Yêu anh rất mực, giận rồi cười/ Bạn bè, con cái em săn sóc/ Chỉ nói thương em dạ chẳng rời”.

.

.

Hoàng Trung Thông [1925-1993], bút danh khác: Đặc Công, Bút Châm, là một gương mặt thơ tiêu biểu có vị trí đại diện cho nền thơ cách mạng của nước Việt Nam mới; nguyên Tổng biên tập báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam; nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Văn học; nguyên Vụ trưởng Vụ Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương, nguyên Viện trưởng Viện Văn học [1976-1985].

                                             Hoàng Trung Thông [nguồn internet]

Cuộc đời

  • Hoàng Trung Thông sinh ngày 05 tháng 05 năm 1925 tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thuở nhỏ ông theo học chữ Hán và được coi như một thần đồng nổi tiếng khắp vùng. Đến năm 12 tuổi, ông theo học trường Quốc Học Vinh, một trong những trường danh giá thời bấy giờ. Sớm thoát ly tham gia cách mạng trong phong trào Việt Minh, trong Kháng chiến chống Pháp ông từng cùng Hải Triều, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên lãnh đạo Hội văn nghệ Khu IV.
  • Từ 1945 cho đến cuối đời, bên cạnh sáng tác thi ca và nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, viết thư pháp, Hoàng Trung Thông đảm nhiệm các chức trách quan trọng như cán bộ văn nghệ của khu ủy Liên khu IV, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Nghệ An, Ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương; Thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam; Tổng biên tập báo Văn nghệ, báo Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam; Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương và Viện trưởng Viện Văn học [giai đoạn 1976-1985].
  • Hoàng Trung Thông mất ngày 04 tháng 01 năm 1993 do bệnh phổi và gan tại Hà Nội. Mặc dù giữ nhiều trọng trách trong văn nghệ nhưng cả đời ông sống nghèo nàn, thanh bạch. Cuối đời, ông thường nói một mình trong đêm với tượng Lý Bạch,Lỗ Tấn, Pushkin.
  • Tham khảo thủ tục ==> Thành lập công ty tại Nghệ An

Sự nghiệp

Trong các thi sĩ Việt Nam Thế kỷ 20, Hoàng Trung Thông là người có học vấn uyên bác. Thơ ca của ông giúp con người sống tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, đánh thức tình yêu với con người, nỗ lực đấu tranh vì những lý tưởng nhân đạo và sự tiến bộ của con người. Thơ Hoàng Trung Thông ảnh hưởng mạnh mẽ và tác động tới đời sống nhiều thế hệ. Nhà nghiên cứu – giáo sư Phan Ngọc đã từng viết về ông: “Trong thâm tâm, anh là con người nhỏ bé, của những con người nhỏ bé. Trong thơ, anh chỉ là nhà thơ của những người nhỏ bé” và “Chỉ có một Hoàng Trung Thông nhỏ bé, không hài lòng với chính mình. Đó là cái lớn của Hoàng Trung Thông”.

Ông viết nhiều bài nghiên cứu, phê bình văn học, giới thiệu thơ Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu, Đỗ Phủ, Lục Du, Puskin, Xuân Diệu, Chế Lan Viên v.v.

Hoàng Trung Thông [nguồn internet]

Tác phẩm chính

Tiểu luận phê bình

  • Chặng đường mới của văn học chúng ta [1961]
  • Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống [1979]
  • Những người thân những người bạn [2008]

Thi ca

  • Quê hương chiến đấu [1955]
  • Đường chúng ta đi [1960]
  • Những cánh buồm [1964]
  • Đầu sóng [1968]
  • Trong gió lửa [1971]
  • Như đi trong mơ [1977]
  • Hương mùa thơ [1984]
  • Tiếng thơ không dứt [1989]
  •  Mời trăng [1992]

Video liên quan

Chủ Đề