Giá trị pháp lý của quyết định thanh tra

Thanh tra lại? Quy định của pháp luật về thanh tra lại? Quyết định thanh tra và nội dung thanh tra lại?

Trong hoạt động quản lý của nhà nước, thanh tra là nội dung không thể thiếu có vai trò quan trọng trong việc kiểm định, đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước. Qua thanh tra sẽ có các kiến nghị khắc phục những sơ hở, yếu kém và đề xuất những biện pháp đổi mới góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sửa đổi các cơ chế, chính sách của Nhà nước. Trong quá trình thanh tra không thể tránh khỏi những sai xót vậy nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể chịu tác động bởi hoạt động thanh tra thì Nhà nước ta đã ban hành các quy định về thanh tra lại. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu về bản chất của thanh tra lại và các đối tượng than gia vào hoạt động thanh tra lại.

Luật sư tư vấn pháp luậttrực tuyến miễn phí: 1900.6568

Mục lục bài viết

  • 1 1. Thanh tra lại:
    • 1.1 1.1. Thanh tra lại là gì?
    • 1.2 1.2 Các dấu hiệu đặc trưng của thanh tra lại:
  • 2 2. Quy định của pháp luật về thanh tra lại:
    • 2.1 2.1. Căn cứ thanh tra lại:
    • 2.2 2.2. Thẩm quyền quyết định thanh tra lại:
  • 3 3. Quyết định thanh tra và nội dung thanh tra lại:
    • 3.1 3.1. Nội dung thanh tra lại:
    • 3.2 3.2. Thời hạn thanh tra lại:
    • 3.3 3.3. Về đối tượng thanh tra lại:

1.1. Thanh tra lại là gì?

Hoạt động thanh tra lại được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành khi phát hiện vụ việc thanh tra trước đó mà đã có kết luận thanh tra có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật của hoạt động thanh tra trước đó được xác định trên các cơ sở sau đây:

– Tính trái pháp luật của hành vi được thực hiện như thành viên đoàn thanh tra đã vi phạm pháp luật thanh tra.

– Tính có lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm, cố ý thực hiện hành vi vi phạm có bàn bạc để làm sai lệch hồ sơ, bỏ qua sai phạm.

– Hành vi thanh tra trước đó cấu thành đầy đủ các yếu tố của vi phạm pháp luật.

Theo các quy định trong các văn bản pháp luật, thanh tra lại được hiểu là việc xem xét, đánh giá, xử lý kết luận thanh tra khi các cơ quan Nhà nước phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra, ra kết luận thanh tra.

Như vậy, ta có thể nhận thấy, thanh tra lại không chỉ được hiểu đơn giản là việc xem xét lại kết luận thanh tra mà nó còn là quá trình cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp dưới mà trước đó việc xem xét, đánh giá, xử lý trước đó phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật làm thay đổi sai lệch  và ảnh hưởng đến bản chất của vụ việc.

1.2 Các dấu hiệu đặc trưng của thanh tra lại:

Trên cơ sở bản chất của thanh tra, thanh tra lại vừa mang đặc điểm đặc trưng riêng có của nó, bao gồm hai đặc trưng cơ bản sau đây:

– Đặc trưng đầu tiên của hoạt động thanh tra lại là thanh tra lại mang các đặc điểm chung của thanh tra, bao gồm:

Xem thêm: Thanh tra, kiểm tra thuế là gì? Quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế?

+ Thanh tra lại là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước.

+ Thanh tra lại phải bảo đảm tính khách quan.

+ Ngoài ra còn phải mang tính độc lập tương đối và thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, là công cụ của quản lý Nhà nước, vừa là một giai đoạn nằm trong chu trình quản lý hành chính Nhà nước.

– Thanh tra lại còn mang nét đặc trưng thứ hai, đó là thanh tra lại có các dấu hiệu đặc trưng riêng của mình, bao gồm:

+ Thanh tra lại là phương thức quan trọng trong quản lý Nhà nước về công tác thanh tra. Qua thanh tra lại giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, xem xét, đánh giá và xử lý, kiến nghị xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt động thanh tra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động công vụ – thanh tra.

+ Thanh tra lại là phương thức hữu hiệu trong việc kiểm soát quyền lực của cơ quan thanh tra, bảo đảm tính hợp pháp, ngăn ngừa việc lộng quyền, lạm quyền hoặc không thực hiện không đúng quyền lực của thanh tra viên cũng như đối với hoạt động của đoàn thanh tra dựa trên các căn cứ của thanh tra lại.

+ Thanh tra lại có mối quan hệ mật thiết với kiểm tra, thanh tra trách nhiệm, giám sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thanh tra.

2. Quy định của pháp luật về thanh tra lại:

2.1. Căn cứ thanh tra lại:

Theo Khoản 1, Điều 47 của Nghị định 86/2011/NĐ-CP quy định về việc thanh tra lại như sau:

Xem thêm: Phân biệt hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân

1. Thanh tra lại là việc xem xét, đánh giá, xử lý kết luận thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra, ra kết luận thanh tra.”

Ngoài ra, tại Điều 48 của Nghị định 86/2011/NĐ-CP có quy định rõ về căn cứ để tiến hành thánh tra lại như sau:

“1. Có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong tiến hành thanh tra.

2. Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra.

3. Nội dung kết luận thanh tra không phù hợp với những chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành thanh tra.

4. Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, Thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc hoặc cố ý kết luận trái pháp luật.

5. Có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của đối tượng thanh tra chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra.”

Như vậy, bản chất của thanh tra lại là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý kết luận thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra, ra kết luận thanh tra. Còn đối tượng của thanh tra lại là kết luận của thanh tra trước có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Xem thêm: Thanh tra gồm những ai? Các cơ quan thanh tra Nhà nước bao gồm?

Trước hết, để thanh tra lại một vụ việc, cần phải dựa trên cơ sở các căn cứ của thanh tra lại. Theo quy định của pháp luật thanh tra, việc thanh tra lại được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau đây:

– Thực hiện thanh tra lại khi có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong tiến hành thanh tra.

– Thực hiện thanh tra lại khi có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra.

– Thực hiện thanh tra lại khi nội dung kết luận thanh tra không phù hợp với những chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành thanh tra.

– Thực hiện thanh tra lại khi người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra, thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc hoặc cố ý kết luận trái pháp luật.

– Thực hiện thanh tra lại khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của đối tượng thanh tra chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra.

2.2. Thẩm quyền quyết định thanh tra lại:

Theo Luật Thanh tra quy định Thủ trưởng các cơ quan Thanh tra nhà nước, tùy từng trường hợp có trách nhiệm báo cáo người có thẩm quyền quyết định hoặc tự mình ra quyết định thanh tra lại.

Thẩm quyền thanh tra lại được quy định cụ thể tại các khoản 2,3,4,5 Điều 47 Luật Thanh tra với nội dung như sau:

Xem thêm: Đối tượng thanh tra là gì? Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra?

+ Tổng Thanh tra Chính phủ có thẩm quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

+ Chánh Thanh tra Bộ có thẩm quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Bộ trưởng giao.

+ Chánh Thanh tra sở có thẩm quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Giám đốc sở giao.

+ Chánh Thanh tra tỉnh có thẩm quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Giám đốc sở kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra huyện kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

3. Quyết định thanh tra và nội dung thanh tra lại:

3.1. Nội dung thanh tra lại:

Quyết định thanh tra lại bao gồm các nội dung quy định cụ thể tại Điều 44, Điều 52 của Luật Thanh tra nhưng nội dung của quyết định thanh tra lại cần phải ghi rõ phạm vi, đối tượng, nội dung thanh tra lại.

Về phạm vi và nội dung thanh tra lại được xác định trên cơ sở căn cứ vào dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra và ra kết luận thanh tra.

Nội dung và phạm vi cuộc thanh tra lại có thể là toàn bộ nội dung cuộc thanh tra trước đó, nếu rơi vào trường hợp vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra hoặc hành vi của thành viên đoàn thanh tra cố ý làm sai lệch bản chất vụ việc.

Hoặc nội dung thanh tra có thể chỉ tập trung vào một số dấu hiệu vi phạm trong áp dụng pháp luật của cuộc thanh tra trước, thì phạm vi nội dung thanh tra lại chỉ tập trung vào quá trình phân tích, lập luận, củng cố và đánh giá chứng cứ.

Xem thêm: Thanh tra chuyên ngành là gì? Hoạt động thanh tra chuyên ngành?

3.2. Thời hạn thanh tra lại:

Chậm nhất là 5 ngày, kể từ ngày ký quyết định, người có thẩm quyền thanh tra lại phải gửi quyết định thanh tra lại cho người đã ký kết luận thanh tra, đối tượng thanh tra lại.

Quyết định thanh tra lại phải được công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ký và phải được đoàn thanh tra lập biên bản.

3.3. Về đối tượng thanh tra lại:

Các đối tượng thanh tra lại cũng chính là đối tượng của cuộc thanh tra đi bởi vì xét về bản chất của thanh tra lại chính là tìm lại bản chất của vụ việc thanh tra chưa được làm sáng tỏ thông qua hoạt động thanh tra lại.

Theo những phân tích ở trên, để đảm bảo hoạt động thanh tra lại chính xác và đúng thủ tục thì pháp luật thanh tra lại cần xác định rõ đối tượng của thanh tra lại là ai và ban hành các quy định cụ thể để tìm ra sự thật khách quan mà vụ việc thanh tra trước đó chưa được xem xét, đánh giá và xử lý sự việc đó một cách khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quy trình tiến hành thanh tra lại. Sự thay đổi trong hậu quả pháp lý của báo cáo kết quả thanh tra lại, kết luận thanh tra lại đang là một trong những vấn đề rất cơ bản còn chưa được cụ thể hóa và còn thiếu những văn bản pháp quy để quy định chi tiết bảo đảm tính khả thi trong thực trạng thực thi pháp luật về thanh tra lại hiện nay.

Chủ Đề