Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thành tựu và bài học kinh nghiệm

QPTĐ-Trong 5 năm qua, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh chóng với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và chưa có tiền lệ. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn tận dụng được thời cơ, hóa giải được thách thức, tiếp tục tạo những kết quả toàn diện, với nhiều dấu ấn nổi bật trên nhiều lĩnh vực. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Trong tổng thể các thành tựu của đất nước có sự đóng góp không nhỏ của đối ngoại và hội nhập quốc tế. 

Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thành tựu và bài học kinh nghiệm

Triển lãm thành tựu đối ngoại qua các thời kỳ. (Ảnh: Internet)

Dấu ấn trong công tác đối ngoại

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 14/12/2021, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc nhằm quán triệt sâu sắc, toàn diện đường lối, chủ trương, quan điểm về đối ngoại của Đảng, nhất là những nội dung mới, thể hiện sự phát triển về tư duy đối ngoại của Đảng ta trong quá trình phát triển mới của đất nước, tạo nhận thức thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự đồng lòng của người Việt Nam ở nước ngoài và tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Từ đó, cụ thể hóa và tổ chức bằng các chiến lược, kế hoạch, chương trình, đề án đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Việt Nam là đất nước độc lập, tự cường, luôn có khát vọng và tầm nhìn phát triển, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở. Vì vậy, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào công việc chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, "dĩ bất biến ứng vạn biến"; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện, tích lũy, nâng tầm được cả thế và lực nhất định, uy tín ngày càng gia tăng trên trường quốc tế, đã tạo ra những tiền đề quan trọng và vị thế thuận lợi để phát triển.

Trong đó, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Chiến lược đối ngoại của Việt Nam đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn kết hài hòa, chặt chẽ, có hiệu quả với đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự phát triển của đất nước vào dòng chảy của thời đại, từ đó xây dựng, triển khai các đường lối, chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá và dự báo đúng tình hình trong nước và quốc tế, tinh thần không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc và xu thế thời đại.

Thành công trong công tác đối ngoại còn là kinh nghiệm trong việc nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước, từ phá thế bao vây cấm vận, tiến tới chủ động thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thành tựu và bài học kinh nghiệm

Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định nguyên tắc nền tảng và tư tưởng chỉ đạo của đối ngoại thời kỳ đổi mới là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Cùng với đó, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Kết hợp chặt chẽ giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh để tạo thế chân kiềng vững chắc, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước; giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc ngoại giao Việt Nam kết hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khoa học, lý luận ngoại giao Việt Nam; đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, du lịch, qua đó đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở, nêu lên một số nội dung lớn liên quan đến công tác đối ngoại. Theo đó, cần tiếp tục thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc diễn biến tình hình để kịp thời đổi mới tư duy và có giải pháp thích hợp trong công tác đối ngoại; cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước, song phương cũng như đa phương. Sử dụng  hình ảnh cây tre Việt Nam, mềm mại, nhưng rất kiên cường như tính cách của con người, dân tộc Việt Nam linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh quan điểm về “Quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại và ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc và trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam”.

Song Hà
 

(Bqp.vn) - Sau gần 30 năm đổi mới, với vị trí và vai trò của một Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, góp phần đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, trong đó, đường lối đối ngoại của Đảng mang nhiều dấu ấn đậm nét.

Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thành tựu và bài học kinh nghiệm

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đường lối đổi mới, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. (ảnh tư liệu)

Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Quan hệ chính trị quốc tế có những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến lược đối ngoại của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa nhận những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện. Về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định là phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [1].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới về tư duy đối ngoại. Trước hết là rút ra những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng là “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”; nhận thức được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội” [2].

Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” [3]. Theo cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, “Nghị quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị là một cuộc đổi mới mạnh mẽ tư duy trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta” [4].

Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Theo đó, việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách; đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất lúc này vào các mạng thế giới là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.

Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990, Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa quan trọng, mở cửa giao lưu hợp tác với bên ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước trong quan hệ quốc tế.

Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi. Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta xác định trọng tâm của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung được quyết nghị, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết” [5].

Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn. Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia nhập ASEAN, một tổ chức khu vực mà trong đó các thành viên đều không cùng ý thức hệ và chế độ chính trị, xã hội với Việt Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 28/6 - 1/7/1996, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển [6]. Đại hội nêu rõ chủ trương: Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ đối ngoại của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp, với nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Trong bối cảnh đó, tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp, nhận định tổng quát sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội (1991 - 2000), “đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội; phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [7]. Với phương châm này, lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương “xây dựng quan hệ đối tác” trong đường lối đối ngoại. Đây là điều có ý nghĩa quan trọng, bởi mô hình quan hệ đối tác chiến lược được coi là mô hình hợp tác ở mức độ cao và quan trọng hơn so với hợp tác quốc tế thông thường.

Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/1/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07/NQ-TW Về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhanh chóng đưa Việt Nam vào các thể chế kinh tế, trước hết là AFTA và sau đó là WTO trên tinh thần “phát huy tối đa nội lực”. Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt, là “kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta trên con đường hội nhập, một con đường không ít chông gai mà chúng ta phải vượt qua và nhất định vượt qua để giành lấy cơ hội cho phát triển” [8].

Tuy nhiên, nếu như chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chiến lược lâu dài, thì những diễn biến của tình hình thế giới, khu vực và trong nước xảy ra thường xuyên, Đảng liên tục có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Theo đó, tháng 7/2003, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp và ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng về nguyên tắc xác định đối tác và đối tượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, nhấn mạnh: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam; bất kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.

Có thể nói, từ khi đổi mới năm 1986, sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX là tài liệu thứ hai có tầm quan trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; đã xác định nguyên tắc và phương thức đối ngoại của Việt Nam với tất cả các nước trong khu vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển. Trong cuộc trả lời phỏng vấn Báo Vietnamnet ngày 8/1/2011, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khi đó khẳng định: “Tôi tin đây là Nghị quyết đi vào lịch sử bảo vệ Tổ quốc trong hòa bình như Nghị quyết 15 trong chiến tranh chống Mỹ” [9].

Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thành tựu và bài học kinh nghiệm

Một góc Thủ đô Hà Nội hôm nay. (ảnh: TTXVN)

Trên cơ sở những thành tựu đạt được, tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được triệu tập tại Hà Nội. Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đã nêu chủ trương lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. So với đường lối đối ngoại Đại hội IX, Đại hội X đã điều chỉnh, bổ sung một số nội dung như: Thứ nhất, khẳng định việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển (bổ sung cụm từ hòa bình, hợp tác và phát triển); Thứ hai, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế (coi đa phương hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của chính sách đối ngoại rộng mở); Thứ ba, nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh thần “chủ động” mà còn phải “tích cực”, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác; Thứ tư, quan điểm của Đại hội X vừa tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, vừa thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.

Tiếp theo đường lối đối ngoại của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X (15/1/2007) đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Trên cơ sở quan điểm biện chứng, phát triển, Ban Chấp hành Trung ương cho rằng những cơ hội, thách thức khi Việt Nam là thành viên của WTO có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng cơ hội thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu cùng còn tùy thuộc vào nỗ lực và khả năng vượt qua của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các thách thức thì không những chúng ta sẽ vượt qua được thách thức mà còn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.

Tháng 1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra tại Hà Nội. Đại hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu về đối ngoại từ năm 2011 - 2015 là “mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” [10]. So với nhiệm vụ đối ngoại được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, thì chủ trương đối ngoại trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã thể hiện bước phát triển mới về tư duy, chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” lên “hội nhập quốc tế” - hội nhập toàn diện, đồng bộ từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh. Đây là bước ngoặt đổi mới về tư duy và chính sách đối ngoại của Đảng ta, là kết quả bước chuyển từ tư duy đối ngoại thời kỳ chiến tranh lạnh sang đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới cho thấy, đường đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã được các Đại hội và các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI đến khóa XI tiếp tục bổ sung, phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, thể hiện ở mục tiêu đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại và phương châm đối ngoại. Đường lối đó đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Cũng từ đường lối đúng đắn đó, Việt Nam đã tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương.

[1], [8], [9]. Phạm Quang Minh: Chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam (1986 - 2010), Nxb Thế giới, Hà Nội. 2012, tr. 53, tr. 111, tr. 117.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1987, tr. 30 - 31.

[3], [4]. Nguyễn Cơ Thạch: Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí Quan hệ Quốc tế, số 1, tháng 1/1990, tr. 7, tr. 9.

[5]. Lê Mậu Hãn: Đảng Cộng sản Việt Nam - Các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb CTQG, Hà Nội. 1998, tr. 171.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.1996, tr. 120 - 121.

[7], [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. 2001, tr. 119, tr.189.

Lê Nguyên An, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam