Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Thành công rực rỡ, Muranishi nhắm đến những mục tiêu còn tham vọng hơn – thề ra mắt kênh truyền hình vệ tinh riêng. Nhưng anh càng bay cao thì những rủi ro càng lớn.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Đừng quên để like page của Muzipa để cập nhật anime mỗi ngày

Từ khóa: Đạo diễn trần trụi (Phần 2), The Naked Director (Season 2),

Thiết bị màn hình gập đầu tiên của Apple được cho là iPad thay vì iPhone, có thể ra mắt trong hai năm tới nhưng có giá đắt đỏ.

Theo Ming-chi Kuo, nhà phân tích đưa ra nhiều thông tin chính xác về các thiết bị chưa ra mắt của Apple, công ty Mỹ sẽ trình làng một sản phẩm "cỡ iPad" vì một thiết bị kích thước lớn sẽ dễ chế tạo và gặp ít rủi ro hơn so với iPhone.

Trước thông tin Apple sẽ ngừng sản xuất iPad mini dưới 10 inch sau khi iPad gập xuất hiện, Kuo cho rằng điều này sẽ không xảy ra. Theo ông, iPad mini hiện ở phân khúc giá rẻ và tiếp cận nhóm người dùng muốn mua máy tính bảng ở giá phải chăng. Trong khi đó, iPad gập "rất đắt" do được trang bị màn hình mới và nhiều công nghệ hàng đầu.

"Giá của iPad gập cao hơn nhiều so với bản mini. Chúng không hướng đến phân khúc thị trường giống nhau. Do đó, việc hoán đổi hai sản phẩm không hợp lý", ông viết trên Weibo ngày 28/12.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Một ý tưởng về iPad gập. Ảnh: MacRumors

Cũng theo "chuyên gia tin đồn" này, Apple đang phát triển một iPad mini mới, với điểm nhấn là chip xử lý tốc độ cao. Máy có thể bắt đầu xuất xưởng cuối năm 2023 hoặc nửa đầu 2024.

Trước đó, một số báo cáo cho biết Apple sẽ hợp tác với hai thương hiệu lớn của Hàn Quốc là Samsung và LG để sản xuất tấm nền OLED có thể gập lại với kích thước từ 20 tới 25 inch. Những tấm nền này được dự đoán sẽ trang bị cho iPad trong tương lai.

Hồi tháng 10, CSS Insight cũng dự đoán sản phẩm có thể gập lại của Apple sẽ không phải iPhone mà là tablet. Mẫu máy tính bảng gập này có thể được trang bị modem 5G do Apple sản xuất, cấu hình mạnh và có giá tới 2.500 USD, đắt gấp đôi iPhone 14 Pro Max cao cấp nhất hiện nay.

Ra mắt sản phẩm nhỏ giọt và doanh số không tốt nhưng Sony vẫn sẽ duy trì mảng sản xuất smartphone trong thời gian tới.

LG và HTC từng là hai hãng điện thoại danh tiếng nhưng tụt dốc, thua lỗ, cuối cùng chọn cách đóng mảng kinh doanh smartphone để cắt lỗ. Tình trạng tương tự khiến có nhiều tin đồn rằng Sony có thể chung số phận khi doanh số kém khả quan trong nhiều năm. Tuy nhiên, thông tin mới cho thấy hãng Nhật Bản vẫn đang có kế hoạch dài hơi để tăng sức cạnh tranh trong mảng này.

Trong thông báo ngày 23/6, Qualcomm khẳng định tiếp tục hợp tác với Sony để cung cấp chip xử lý Snapdragon cho smartphone trong tương lai. Theo GSMArena, đây là hợp đồng có thời hạn "nhiều năm" và đủ dải sản phẩm từ flagship tới tầm trung. Các model thuộc phân khúc cấp thấp, giá rẻ không được đề cập.

"Sony và Qualcomm sẽ chung tay đưa công nghệ cao trên chip trên Snapdragon vào các dòng sản phẩm phù hợp thời gian tới", thông báo có đoạn.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Sony Xperia 1V. Ảnh: Gsmarena

Smartphone cao cấp nhất của Sony hiện là Xperia 1 V, ra mắt tháng 5/2023 và được trang bị chip Snapdragon 8 Gen 2 với giá tương đương 36 triệu đồng tại thị trường châu Âu. Theo ông Tsutomu Hamaguchi, Giám đốc mảng kinh doanh Viễn thông của Sony, sản phẩm nhận được nhiều sự quan tâm của người dùng, do đó hãng kỳ vọng tiếp tục hợp tác với Qualcomm trên smartphone thế hệ sau.

Theo 9to5Google, smartphone của Sony ít được chào đón tại các thị trường lớn, đặc biệt ở Mỹ. Toàn bộ máy đều bán dưới dạng không hợp đồng và giá rất cao so với sản phẩm thương hiệu khác, như Xperia 1 V có giá bán 1.400 USD, đắt gần gấp rưỡi Galaxy S23 Ultra. Sony hiện chỉ bán smartphone ở một số ít quốc gia, trong khi ở quê hương Nhật Bản - nơi smartphone của hãng có tình hình bán hàng khả quan nhất, thị phần cũng sụt giảm đáng kể hai năm qua.

Milan Kundera, nhà văn nổi tiếng quốc tế với những tác phẩm văn học bất đồng chính kiến ở Tiệp Khắc thời Cộng Sản. Trong Tập sách cái cười và sự lãng quên - Le Livre du rire et de l'oubli là những cái cười « ra nước mắt », còn « sự lãng quên » là « cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực, là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên ». Sinh năm 1929 tại Brno ông đã định cư tại Pháp từ năm 1975 do sách của ông bị kiểm duyệt và tác giả đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản Tiệp Khắc. Khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, Tiệp Khắc trở thành hai quốc gia Cộng Hòa Séc và Slovakia.Hai trong số rất nhiều tác phẩm của ông đã được dịch giả Trịnh Y Thư dịch sang tiếng Việt, đấy là Tập sách Cái cười và sự lãng quên - Le Livre du rire et de l'oubli (1978) và Đời nhẹ khôn kham -L'insoutenable légèreté de l'être (1984).Trong bài tưởng niệm nhà văn Kundera vừa qua đời tại Paris hồi tháng 7/2023, dịch giả Trịnh Y Thư đã nhắc lại « Đời nhẹ khôn kham, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Kundera, mở đầu với cảnh xe tăng Liên Xô nghiến nát đường phố Praha, thủ đô của Cộng hòa Séc, là quê hương của tác giả cho đến khi ông sang Pháp chọn cuộc đời lưu vong từ năm 1975. Đan xen các chủ đề về tình yêu và sự lưu vong, chính trị mang tính cá nhân sâu sắc, tiểu thuyết của Kundera đã giành được sự tán thưởng của giới phê bình, giúp ông có được lượng độc giả rộng rãi chẳng những ở phương Tây mà còn khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam ».Cùng với dịch giả Trịnh Y Thư mời quý vị cùng tìm đến với Tập sách cái cười và sự lãng quên, được ông dịch sang tiếng Việt, xuất bản tháng 1/2021. *****RFI : Xin kính chào dịch giả Trịnh Y Thư, Le livre du rire et de l'oubli là một cuốn tiểu thuyết với cấu trúc lạ kỳ, với những câu chuyện khác nhau và đôi khi tác giả tưởng chừng là « lười biếng » khi cần đặt tựa cho mỗi truyện ngắn của ông : Trịnh Y Thư : Kundera viết Tập sách cái cười và sự lãng quên vào quãng giữa thập niên 70. Tác phẩm có bẩy phần. Gọi mỗi phần là một truyện ngắn cũng đúng, nhưng theo chính Kundera, ta nên xem nó là một tổ khúc, như tổ khúc âm nhạc gồm bẩy biến tấu mà mỗi biến tấu là một cuộc truy tìm hiện hữu khác nhau. Khác nhau nhưng vẫn có sự liền lạc chặt chẽ bởi mô-típ thắt buộc toàn tác phẩm : Cái cười và Sự lãng quên. Những phần của sách nối tiếp nhau như những chặng đường chuyến du hành dẫn đến cái nội tại của chủ đề, nội tại một suy tưởng, nội tại một tình huống duy nhất, giản dị, mà cái hiểu cứ dần dà trôi mất về cõi xa, ra khỏi tầm nhìn của chính tác giả.Nếu bạn đọc cuốn sách này một cách kiên nhẫn và thành tâm, nó có thể thay đổi cuộc đời bạn.RFI : Nửa thế kỷ từ ngày tác phẩm này được xuất bản, giờ đây điều gì có thể thôi thúc độc giả tìm đến với Tập sách cái cười và sự lãng quên ?Trịnh Y Thư : Lý do giản dị lắm, thưa chị, vì đó là một tác phẩm cực hay. Tôi xin mượn phát biểu của ba nhà văn, nhà phê bình Mỹ nói về cuốn sách này của Kundera. John Updike từng đánh giá đây là cuốn sách xuất sắc và độc sáng, được viết với sự trong trẻo và minh triết, nó mời mọc chúng ta trực tiếp đi vào. Còn John Leonard thì quan niệm Tập sách cái cười và sự lãng quên tự gọi là một cuốn tiểu thuyết, mặc dù nó là một phần truyện thần tiên, một phần phê bình, một phần chính luận, một phần nhạc học, một phần tự truyện. Nó có thể gọi bất kỳ cái gì nó muốn, bởi tổng thể cuốn sách là một thiên tài. Ted Solotaroff nhận xét, ảo diệu… Nếu bạn đọc cuốn sách này một cách kiên nhẫn và thành tâm, nó có thể thay đổi cuộc đời bạn.Thiết tưởng, với những lời ca ngợi ấy, cuốn sách rất xứng đáng được nằm trên kệ sách của tất cả những ai quan tâm đến chữ nghĩa.Milan Kundera : « Con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác »RFI : Về « cái cười » và về « sự lãng quên » : chúng ta có dễ tìm đến với « cái cười » của Kundera hay không ? Còn « sự lãng quên », những nguyên nhân nào dẫn tới « cái quên » đó và các nhân vật trong tiểu thuyết của Kundera cần « quên » cái gì ?Trịnh Y Thư : Đọc Kundera, chúng ta dễ dàng nhận ra tính hài (và ở chừng mực nào đó, châm biếm) thấm đẫm trong văn ông. Kỳ thực, đối với ông, hài là một thuộc tính bất khả tách ly của văn chương. Tập sách cái cười và sự lãng quên không thiếu những mạch đoạn khiến người đọc cười chảy nước mắt, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta hiểu chủ ý của ông là chọc cười độc giả. Để hiểu tính hài của Kundera, ta phải tìm hiểu tính hài trong văn Kafka. Vâng, chính Kafka đã cho ông nguồn cảm hứng bất tận đem tính hài vào văn chương. Kafka lấy mặt nạ của cái khả lý đeo lên cái bất khả lý, trong lúc tuyệt đối duy trì tính chính xác tâm lý, nó khiến tiểu thuyết của ông mang vẻ mê hoặc, huyền ảo lạ lùng. Chuyện bông đùa, giai thoại, chuyện hài hước: chúng là những bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy giữa cảm quan nhạy bén của hiện thực và thần trí tưởng tượng, tiểu thuyết liều lĩnh đi vào cái bất khả lý. Kundera bảo như vậy.Còn « Sự lãng quên », cụm từ này có ý nghĩa gì trong tác phẩm ? Ta hãy nghe chính Kundera định nghĩa như sau về « sự lãng quên » và nó chính là chủ đề tái hiện hoài hoài suốt cuốn sách. Kundera bảo : « Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên ». Về điểm này, Kundera nói rõ trong tập tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết : « Con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác ». Ông cũng nói thêm, nó không phải sự lừa dối, nó tuyệt đối không có công lý trong đó, nhưng cùng lúc nó đem lại nguồn an ủi.Kundera không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. RFI : Ngoài « cái cười » và « sự lãng quên » tiểu thuyết này của Milan Kundera đầy thi vị và có thể nói là một Kundera đã viết về tình yêu ? Tuy nhiên bối cảnh chính trị thời kỳ Chiến Tranh lạnh, hình bóng của một chế độ toàn trị luôn ẩn hiện trong các tác phẩm của ông. Đọc Kundera dưới lăng kính đó, không thể phủ nhận là sách của ông rất mang tính thời sự. Trịnh Y Thư : Đúng vậy, thưa chị, mặc dù tiểu thuyết Kundera không thiếu những mạch đoạn viết về chính trị – đúng hơn lịch sử chính trị – và ông không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. Ông có vẻ dị ứng với tất cả những điều đó.Với ông, lịch sử chỉ là tấm phông trừu tượng mà ông ví tiểu thuyết gia như nhà thiết kế sân khấu kịch sử dụng một cách dè sẻn để kiến dựng một tiết kịch. Câu nói « Tiểu thuyết gia không phải kẻ hầu của sử gia » thường được ông nhắc đi nhắc lại trong những bài tiểu luận. Cũng như hầu hết các tiểu thuyết gia tầm vóc khác của thế giới, Kundera cương quyết chống lại mọi chủ thuyết luận đề trong văn chương. Tuy vậy, bàng bạc trong những tác phẩm của ông, người ta nhận thấy những chủ đề sau hiển lộ rõ ràng : cuộc sống lưu vong ; căn tính, đời sống vượt qua lằn ranh biên thùy (bên kia tình yêu, bên kia nghệ thuật, bên kia sự nghiêm túc) ; lịch sử như cái gì liên tục trở lại ; và lạc thú của một đời sống ít có những điều « quan trọng ».Bởi, như phần lớn chúng ta, Kundera chẳng thể nào đứng ngoài những biến động lịch sử khốc liệt của thế hệ ông. Thế kỷ XX, châu Âu của ông chứng kiến sự đổ nát kinh hoàng chưa từng thấy trước đó bao giờ. Hai cuộc Thế chiến, Lò thiêu, Quốc xã, Quân phiệt, Cộng sản, như những bóng ma, cho đến tận bây giờ vẫn ám ảnh tâm tư người dân lục địa đó. Bohemia của ông – miền đất tuy nhỏ bé nép mình giữa hai cường quốc Đức và Nga nhưng lại là giao điểm chính trị và văn hóa quan trọng – luôn luôn là mảnh đất chịu thiệt thòi và bị giẫm nát trong bất kỳ cuộc tương tranh lớn nhỏ nào. Ở châu Âu, ngoài Ireland, Bohemia có lẽ là quốc gia duy nhất mà nền văn học bao giờ cũng trĩu nặng tính thời đại và lịch sử. Dù sao chăng nữa, Kundera khó lòng hoàn toàn đi chệch ra khỏi quy luật đó.« (...) Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết »RFI : Nhưng nếu lịch sử chính trị chỉ là bối cảnh, chỉ là cái phông của tiết kịch, thì cái gì chiếm cứ phần trọng đại nhất trong tiểu thuyết Kundera ?Trịnh Y Thư : Câu trả lời giản dị lắm : Đó chính là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. Đưa ra một định nghĩa cho tiểu thuyết, ông nói : « Ngay khi bạn tạo dựng một hiện hữu tưởng tượng, một nhân vật, tự động bạn đối đầu câu hỏi : Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết ». Kundera cả quyết rằng sự nảy sinh của nhân vật tiểu thuyết không giống sự ra đời của con người nơi cuộc sống bên ngoài ; « họ có mặt do một tình huống, một câu văn hay một ẩn dụ bên trong cái vỏ bọc hàm chứa những khả thể cơ bản liên quan đến con người mà tác giả nghĩ rằng chưa ai khám phá hay đề cập điều gì trọng yếu về nó ». Xem thế, tính sáng tạo trong tiểu thuyết Kundera chủ yếu nằm ở điểm này. Và qua tác phẩm chúng ta thấy ông truy xét cái bản ngã đó đến tận cùng. Bản ngã bị ông lật trái lật phải, lật ngang lật dọc đến chóng mặt. Nhưng không phải vì thế ông nắm bắt được điều muốn tìm kiếm; bản ngã vẫn vuột khỏi tầm tay, và ông thú nhận cuộc truy tìm bao giờ cũng chấm dứt trong nghịch lý.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Là một trong những bộ phim được liệt vào hàng “phải xem” trước thềm lễ trao giải Oscar 2022, Nightmare Alley - tạm dịch là “Con hẻm ác mộng” - của đạo diễn đình đám Guillermo del Toro (điện ảnh Hollywood) thật sự đã không khiến cho người ta thất vọng. Chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn W.Lindsay Greshem được viết vào năm 1946, kịch bản phim được sáng tạo lại từ chính Guillermo và vợ là Kim Morgan, mang đậm dấu ấn phong cách riêng có một không hai của ông. Vượt lên trên bản đầu tiên do Edmund Goulding làm vào năm 1947, “Nightmare Alley” của vợ chồng Guillermo được cho là trung thành với bản gốc hơn nhưng đồng thời cũng khiến cho người xem thấy được những nét riêng trong sự sáng tạo độc đáo về cả cốt truyện, cảnh quay, không gian và những sự ẩn dụ xâm chiếm.Với những tín đồ của dòng phim tâm lí tội phạm giật gân, “Noir thriller”, thì màn mở đầu theo kiểu kinh điển với một cái xác bị kéo lê, một cảnh đốt nhà và một khung cảnh lễ hội diễn ra ngay sau đó, người ta biết rằng đã ngồi đúng rạp. Việc cần làm tiếp theo chỉ là thưởng thức bữa tiệc Điện Ảnh đúng nghĩa mà thôi. Truyện phim diễn ra vào khoảng những năm 40 của thế kỉ trước, kể về 2 năm cuộc đời của Stan, một người mà, theo như bác sĩ tâm lí Lilith đã gọi, là một gã nhà quê với hàm răng trắng đều tăm tắp, từ kẻ lang thang, giết cha, tự đốt nhà mình, trở thành một người biểu diễn thuật tâm linh, thậm chí, một thầy Đồng. Biết bao sự kiện đã xảy ra, để rồi sau đó, Stan đã phải trả giá cho những tham vọng ngông cuồng và dối trá ngu dốt của mình một cách cay đắng nhất. Những mơ hồ mộng tưởngKết cấu của “Nightmare Alley” được chia làm hai phần khá rõ ràng. Phần đầu tiên là lúc Stan bỏ trốn sau khi đã gián tiếp gây ra cái chết của người cha và tự đốt nhà mình. Anh ta lưu lạc tới đoàn xiếc của Clem và từ đây, những mộng tưởng mơ hồ bỗng chốc ngự trị cả bộ phim.Phần một giống như là sự chuẩn bị cho những tương lai và lựa chọn sau này, đồng thời nó thể hiện một chút gì lấp lánh trong bản chất của Stan. Người ta mơ hồ về quá khứ, mơ hồ cả về con người của anh ta. Người ta thấy đó là một chàng trai nhanh nhẹn, tháo vát, thậm chí có chút lòng trắc ẩn khi tỏ ra cảm thông với “kẻ quái dị” cắn cổ gà sống trong đoàn xiếc. Dường như chỉ một mình Stan là chú ý và để tâm tới kẻ quái dị khốn khổ kia, nói chuyện với anh ta, cho anh ta hút thuốc cùng mình, không nỡ bỏ anh ta dưới màn mưa và đã thốt lên “ôi linh hồn đáng thương” một cách đồng cảm nhất. Cũng chỉ một mình Stan dành thời gian suy nghĩ làm mới màn trình diễn “cô gái điện” của Molly để thu hút khách hơn và cũng mình anh ta để tâm tới việc xin Pete dạy nghề biểu diễn tâm linh cho mình.Vậy Stan là người tốt hay xấu? Anh ta vốn sinh ra đã là kẻ ngông cuồng hay cái gì xô đẩy anh ta? Hay ma lực của con hẻm ác mộng, ma lực của đồng tiền, của danh vọng đã cuốn anh ta đi, tha hóa cùng cực con người thông minh đầy khao khát này, biến anh ta thành kẻ mà không ai muốn trở thành?Cái không gian mơ hồ không chỉ ở Stan mà còn hiện diện ở khắp thế giới nhỏ bé mà anh ta vừa lọt vào. Đó là Clem, một ông chủ gánh xiếc chuyên sưu tập những cái quái thai trong những chiếc lọ thủy tinh kì quái và sở hữu thứ rượu gỗ mê hoặc. Là Pete và Zeena, hai vợ chồng người biểu diễn ảo thuật tài hoa nhưng không bao giờ dám tỉnh rượu chỉ vì sợ mình sẽ lao vào cái vòng luẩn quẩn của sự lừa đảo và dối trá. Là Bruno, Mayjor tận tâm nhưng sợ sự thay đổi. Và là một Molly khao khát cuộc sống mới bên ngoài đoàn xiếc.Tình yêu khởi nguồn của Stan và Molly có vẻ là điều duy nhất “Thật” xuyên suốt bộ phim. Ban đầu là cứu cánh, là lối đi mới với đầy những hi vọng cho Stan nhưng rồi, cuối cùng, vẫn bị những mơ hồ ngông cuồng cuốn trôi trong tích tắc.Đôi cánh sáp của IcarusCái độc đáo của Guillermo là như vậy. Không cần những cảnh máu me hiểm họa ghê gớm, chính câu chuyện và những chi tiết ông đưa ra khiến cho người ta phải trầm trồ hoảng sợ. Có nhà phê bình phim đã ví Stan như là hình tượng Icarus trong thần thoại Hy Lạp cổ xưa, kẻ quá ngạo mạn và tự tin vào khả năng của mình, giang thẳng đôi cánh vươn tới mặt trời mà không hề nhớ rằng những chiếc lông chim trên đôi cánh ấy chỉ được dính với nhau bằng Sáp. Mặt trời của những khát khao sai lầm đã hạ gục Stan, cái năng lượng của sự tham lam và thù hận vụn vặt đã tước đôi cánh trên lưng anh ta, vứt anh ta từ trên trời xuống vực thẳm cay nghiệt.Phần hai của phim trở nên gay cấn hấp dẫn hơn, là một cách thể hiện khác với nhịp điệu nhanh và nhiều thắt mở hơn khi Stan bước ra khỏi đoàn xiếc, mang theo Molly và những gì đã học được từ Pete để làm mới cuộc đời họ. Nhưng số phận đã dẫn anh ta tới đối diện với Lilith, nhà tâm lí học lắm mưu nhiều mẹo và… rõ ràng… Stan đã “làm điều xấu với đúng người”, theo như cái cách mà Lilith đã cảnh báo anh ta. “Cô không đủ mạnh mẽ” – câu nói có vẻ chỉ để làm màu cho màn trình diễn bóc mẽ Lilith của Stan lại là khởi nguồn của mọi hận thù trong Lilith, người đàn bà cao ngạo tài trí.Bắt nguồn từ bước ngoặt khi Stan cứu thua cho đoàn xiếc khỏi sự giải tán của cảnh sát, bằng vào trí thông minh và tài ứng phó nhanh nhạy của mình, Stan tự tin bước vào thế giới với tương lai tươi sáng cùng Molly sát cánh ở bên. Nhưng cái mơ hồ tham lam và tham vọng quá lớn khiến Stan mờ mắt. Anh ta bắt tay với bác sĩ Lilith hòng bước xa hơn. Anh ta rơi vào cái mà ông Pete vốn vẫn hoảng sợ né tránh, đó là mê cung của sự dối trá không có đường ra. Stan thề không uống rượu, không bao giờ, tuy nhiên, anh ta không thể né tránh bản chất của mình, bản chất của một gã lưu manh đã ăn vào máu. Thì ra, cái lòng trắc ẩn mà Stan dành cho gã “quái nhân” trong đoàn xiếc chỉ là một đốm lấp lánh nhỏ mà chỉ một cơn sóng trào của tiền tài danh vọng có thể dập tắt nó nhanh chóng.Chẳng mấy chốc, Stan bị Lilith dắt mũi từ kế hoạch này sang kế hoạch khác. Anh ta nhắm mắt bước đi vì tin rằng đã có cô ả là Đôi Mắt của mình, không quan tâm tới hậu quả từ những việc mình làm. Và rồi, cái gì đến cũng phải đến. Sự trả thù của đàn bà mới ghê gớm làm sao. Molly đã rời bỏ Stan, tiền tài rời bỏ anh ta, chỉ còn lại lòng hận thù của Lilith bắn anh ta một phát đạn chí mạng, tước đi tất cả và dồn đẩy anh ta đến với một đoàn xiếc khác, kết thúc với nụ cười cay đắng vang vọng và thân phận của một kẻ quái dị sẽ sống trong lồng.Tuyệt tác của những ẩn dụKhông mấy khó khăn để nhận ra “Nightmare Alley” là một tác phẩm tuyệt vời với những hình ảnh mang tính ẩn dụ sâu sắc. Đây chính là dấu ấn mà Guillermo tạo nên và ấn định mình vào bộ phim. Ấn tượng nhất, có lẽ là hình ảnh Con mắt lặp đi lặp lại trong phim. Người ta có thể thấy hình ảnh con mắt ở khắp mọi nơi, từ đầu tới cuối, lúc Stan bước chân vào Nhà Ma để tìm gã Quái nhân, lúc anh ta dùng cái bịt mắt có hình con mắt để biểu diễn và cái bào thai mang tên Enoch quỷ quyệt của Clem cũng có một con mắt ngay giữa trán. Chưa hết, một số cảnh quay trong phim cũng giống như là có ai đó – một người thứ ba – dõi theo Stan. Con mắt này hẳn là muốn nói tới “cái nhìn khác”, là Nhân quả, là “trời biết, đất biết” những việc mà Stan cho rằng chỉ là bí mật của riêng anh ta, là cái giá mà trước sau gì anh ta cũng phải trả cho những hành động sai lầm của mình. Để có được tới 4 đề cử Oscar, “Nightmare Alley” không chỉ sở hữu những cảnh quay đẹp, hình ảnh mang tính biểu trưng với ánh sáng tuyệt mỹ mà còn là bữa tiệc diễn xuất tuyệt vời của nam diễn viên chính Bradley Cooper trong vai Stan và những xuất thần của Cate Blanchett trong vai bác sĩ Lilith. Nếu Bradley Cooper hóa thân trọn vẹn theo từng giai đoạn của phim, từ lúc là kẻ tiểu nhân hại chết cha ruột, đốt nhà, cho tới người thanh niên nhanh nhạy ham học hỏi và sáng tạo, cho tới một Stan sang trọng bí ẩn trên sân khấu lớn và kẻ tàn tạ sắp trở thành quái nhân trong rạp xiếc… thì Cate Blanchett lại khiến người ta sởn da gà với gương mặt lạnh lùng đẹp hoàn hảo như một pho tượng sáp nhưng ánh mắt vô cùng biểu cảm long lanh chất chứa những huyền bí khó tả. Đây là nhân vật duy nhất không có quá khứ cũng hầu như không có tương lai. Bao bọc xung quanh cô ả chính là sự mơ hồ không rõ ràng, khi tối khi sáng khó đoán biết. Có lẽ, đây chính là hình ảnh ẩn dụ lớn nhất trong phim, là “con hẻm ác mộng” mà Stan đã lỡ bước chân vào và không thể rút ra. Khi Lilith cầm khẩu súng trong tay và thốt lên rằng “Giờ tôi đã đủ mạnh mẽ với anh chưa” thì người ta hiểu đâu là cái kết dành cho Stan.“Khi mà người ta tin vào điều dối trá mà họ nói ra thì đó là lúc họ đánh mất mình”. Bài học lớn nhất mà Pete cố dạy Stan thì anh ta đã không thể học được và đôi cánh Sáp cuối cùng vẫn chỉ là một thứ giả tạo đi mượn không hơn.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Không ồn ào với những mâu thuẫn dồn đẩy, gay cấn hay những cao trào mạnh mẽ thúc giục, “Kẻ du mục” lặng lẽ êm ái luồn khẽ vào tâm tưởng người xem bằng khối năng lượng tích cực khổng lồ. Người ta có thể nói đó là một bộ phim buồn, có thể nói nó là sự cô đơn nhưng thật tình, tác phẩm tuyệt vời này chính là câu trả lời cho điều nhiều người còn thắc mắc… “Nhà là Gì?” Dựa trên cuốn sách của nữ nhà văn Mỹ Jessica Bruder, ra mắt năm 2020, tác phẩm của Hollywood này đã khiến cả thế giới bùng cháy khi nữ đạo diễn, biên kịch đồng thời là dựng phim người Mỹ gốc Hoa – Triệu Đình – đã trở thành người nữ đạo diễn thứ hai và nữ đạo diễn châu Á đầu tiên cùng lúc nhận được 6 đề cử tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 93, 4 đề cử tại Lễ trao giải Quả Cầu Vàng lần thứ 78 và rất nhiều giải thưởng danh giá khác. Tác phẩm này không chỉ gặt hái được cơn mưa giải thưởng mà còn nhận được nhiều đánh giá tích cực từ phía khán giả toàn cầu. Đó là một trong những bộ phim hiếm hoi không quá tách biệt và hàn lâm, người ta tự đặt ra câu hỏi và rồi sẽ tự tìm được câu trả lời trong suốt hành trình của nhân vật chính, cũng là chuyến đi của chính mình.“Kẻ du mục” chậm rãi kể về hành trình của Fern, người phụ nữ trung niên đã lựa chọn cuộc sống du mục trên chiếc xe van sau cái chết của người chồng. Fern chất mọi kỉ vật của chồng, của cha mẹ lên xe, coi đó là Nhà và bắt đầu cuộc sống “đi tới đâu làm việc tới đó”, rong ruổi khắp miền Tây nước Mỹ. Xuyên suốt chặng đường ấy, Fern không chỉ hiểu ra ý nghĩa thật sự của việc cô đang làm mà còn khẳng định một điều tưởng như đơn giản nhưng lại rất quan trọng với mỗi người chúng ta, rằng “Nhà là một Mái Nhà hay là nơi ở trong tim”.Vô gia cư hay Không có nhà?Điều này dường như là thắc mắc của tất cả khán giả khi từ phút đầu phim đã thấy Fern rong ruổi trên chiếc van, đi vệ sinh ngay bên vệ cỏ và “nhảy việc” từ thị trấn này qua thị trấn khác. Ở vào tuổi của cô, phần lớn mọi người đã bắt đầu nghĩ tới việc nghỉ hưu, dùng số tiền dành dụm được cả đời vất vả để sống ấm êm dưới một Mái nhà, nên hình ảnh đưa ra khiến người ta liên tưởng tới một phụ nữ vô gia cư thiếu nơi nương tựa. Tuy nhiên, câu trả lời được đưa ra ngay sau đó, khi Fern gặp lại người quen cũ. Hai đứa trẻ đã từng được cô nhận dạy kèm hỏi cô có phải là người vô gia cư không. Fern khẽ cười, không, cô không vô gia cư, cô chỉ không có nhà. Rõ ràng, cái định nghĩa này đã thay đổi tất cả. Home – tiếng Anh là Nhà, House – cũng là Nhà. Nhưng Home còn được hiểu là Gia đình, là Mái Ấm, trong khi House chỉ đúng nghĩa đen là cái Nhà mà thôi. Fern đã lên án em rể là kẻ vô lương tâm, người làm nghề bất động sản dụ dỗ mọi người mua một căn nhà mà cả đời họ không thể trả nổi cho nó, phải mang nợ tới khi nhắm mắt xuôi tay.Thế nào là sự ổn định? Thế nào là một Mái Nhà? Fern có thể là người Không có Nhà, nhưng cô mang theo Mái Ấm của mình ở trong tim, ở những kỉ vật mà cô nâng niu của Cha mẹ, của Bob, người chồng yêu thương của cô. Cuộc suy thoái kinh tế đã khiến cho công ty nơi hai vợ chồng Fern làm việc phải đóng cửa. Thay vì ngồi yên một chỗ gặm nhấm nỗi buồn mất chồng và mất việc thì Fern chất tất cả lên chiếc van và du ngoạn cái thế giới nhỏ bé mà cô hình dung ra. Fern chọn cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, rời xa xã hội với đầy rẫy những tham vọng, ham muốn… để làm quen với hội nhóm những người du mục. Đi tới đâu cô xin việc tới đó, công việc thời vụ không nhiều tiền nhưng bù lại lại được thoải mái về thời gian và thuận tiện cho việc thường xuyên di chuyển của Fern. Ở nơi đó, Fern nghe được những câu chuyện đầy cảm động, nơi mà ai cũng có mất mát riêng và tìm cách tự chữa lành vết thương của mình. Đó là người con chứng kiến ba mẹ qua đời vì ung thư chỉ cách nhau vài tuần, lúc nhắm mắt vẫn mang trong mình mong ước được đi chu du ngắm nhìn thế giới. Đó là người vợ chỉ mới hôm qua còn nắm tay chồng thì hôm nay đã mất ông mãi mãi và chiếc thuyền nhỏ của ông vẫn buộc trên nóc xe để ở lề đường, chưa bao giờ được dùng tới. Họ vượt qua mọi định kiến xã hội, vượt qua cái nhìn kì thị của những người được cho là bình thường để sống cuộc sống của họ, cuộc sống không quá phụ thuộc vào tiền bạc, sự nghiệp… sống gần gũi với thiên nhiên và vô tư gắn kết với nhau như trẻ nhỏ.Định kiến xã hội thể hiện rõ nhất ở trường đoạn Fern về thăm gia đình em gái Dolly. Những câu hỏi mang tính mỉa mai, những cái nhìn kì cục mà chồng Dolly cũng như bạn bè của họ ném về phía Fern khiến người ta không khỏi khó chịu và xót xa cho cô. Tuy nhiên, với sự ủng hộ của em gái, Fern vẫn kiên định và ngẩng cao đầu với lựa chọn của mình, bởi, cô là một phần của nước Mỹ, của lối sống Mỹ. Sẽ gặp lại nhau trên đường Đây là câu nói thường trực trên môi của những người du mục. Chưa bao giờ có một lời từ biệt cuối cùng, bởi họ sẽ gặp lại nhau trên đường, con đường đưa họ đi từ vùng đất này tới vùng đất khác, thẳng tắp, hay vòng vèo, nhưng rồi họ sẽ gặp lại nhau. Giống như cuộc sống của chúng ta, một lúc nào đó, ta sẽ gặp lại nhau. Người sáng lập Hội người du mục đã nói với Fern như thế, rằng một ngày, cô cũng sẽ gặp lại Bo, tên gọi thân thương của người chồng quá cố của cô, dù họ đã bị chia lìa bằng cái chết. Bởi, cuối cùng, họ sẽ vẫn gặp nhau tại một điểm, là điểm cuối của chặng đường đời.Trong phim, ta thấy Fern gặp lại khá nhiều người trên hành trình của mình. Là Swankie, một người du mục bước qua tuổi 75, bị ung thư phổi di căn lên não và đã chọn tự lái xe van cho tới giây phút cuối cùng. Để rồi, bà sẽ trở lại Alaska, nơi có những tổ chim núp dưới những vách đá chông chênh, bà mơ sẽ nằm lại đó, tưởng tượng mình chao nghiêng dưới cánh chim đầy tự do và bạn bè trong nhóm du mục trên khắp nước Mỹ sẽ ném những viên đá cuội nhỏ vào ngọn lửa cho linh hồn của bà khi nghe tin bà đã ra đi.Là Linda May, bạn chu du của Fern, người làm cùng Fern ở nhiều nơi khắp miền Tây, mỗi lúc gặp lại Fern là một lần vui, chia sẻ với nhau từng công việc, từng giây phút thật tự do.Là chàng thanh niên ngoài 20 tuổi bỏ nhà đi lang thang, được Fern tặng cho cái bật lửa và khi gặp lại, cậu tặng lại Fern một chiếc bật lửa khác, nghe nói là được làm từ xương khủng long. Cuối cùng, là Dave, người đàn ông du mục có sự quan tâm đặc biệt tới Fern. Người đã làm vỡ chiếc đĩa do Cha cô để lại cho cô và thật chẳng ngờ, sau này, ông đã tạo ấn tượng tốt với cô, thậm chí, có lúc đã khiến cô muốn dừng lại. Người ta thấy có vẻ như câu chuyện sẽ rẽ qua hướng khác, một giây phút mong Fern tìm được bến đỗ và một Mái Nhà thật sự sau chừng ấy chặng đường.Họ cùng nhau làm việc ở một khu bảo tồn thiên nhiên, Fern và Linda làm công việc dọn vệ sinh trong khi Dave là hướng dẫn viên. Khi mùa vụ qua đi, họ lại di chuyển trên những chiếc van và một ngày, như là định mệnh, lại gặp nhau trên đường. Dave trở thành đầu bếp và giới thiệu cho Fern làm trong bếp cùng mình. Fern vẫn cố giữ vẻ ương ngạnh khác thường khi Dave kể về gia đình con trai của ông và đứa cháu nội sắp chào đời, ngỏ ý mời cô về thăm gia đình ông. Bước ngoặt lớn hơn vào Lễ Tạ Ơn, Fern bất ngờ xuất hiện ở nhà con trai Dave. Đây dường như là nút thắt đáng kể nhất từ đầu phim, để cho người ta phải chờ đợi và hi vọng. Liệu Fern có dừng lại? Ở nơi mà tất cả thành viên trong gia đình con trai Dave, cả bạn bè của họ đều chào đón cô? Nơi có nhiều phòng ngủ, có trang trại, có biết bao không gian và sự tự do thừa đủ cho hai người? Nơi có một ngôi nhà thật sự? Nơi mà Dave đặt đứa cháu nội vào tay Fern nhờ cô trông giùm phút chốc… khi Fern ôm đứa trẻ trong lòng, bàn tay bé xíu nằm gọn trong bàn tay Fern…Biết bao chi tiết dược dày công dựng lên. Biết bao dòng thoại cổ xúy cho lối sống du mục. Biết bao khó khăn khi chu du một mình trên chiếc xe van cũ kĩ lúc hỏng săm, lúc rét cóng giữa đồng không mông quạnh… Khán giả có quyền hi vọng lắm chứ, rằng Fern sẽ dừng lại…Nhưng… có lẽ còn rất nhiều điều, rất nhiều người mà Fern muốn gặp lại trên con đường cô sẽ đi, nên cô lên xe giữa lúc trời còn chưa sáng, để lời từ biệt trở nên dễ dàng hơn.Fern trở về ngôi nhà xưa cũ, ngắm nhìn tất cả một lần nữa, rồi bước tới bờ biển, nơi những đàn chim làm tổ dưới gờ đá và cùng tung cánh vút lên thật tự do. Lần này thì Fern đem cho tất cả những thứ cô vẫn giữ, những kỉ vật của Cha mẹ và của cả Bo. Fern lái chiếc van đi, tiếp tục hành trình. Nhà không phải là những vật chất ấy mà Nhà là nơi ở trong tim cô.Hẹn gặp lại trên đường.

hollywood house home alaska lt li bi gi nh hai ng cha kh trong thay khi tuy

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Paris có đến hai bảo tàng lớn nhất nước Pháp dành riêng cho nghệ thuật châu Á : bảo tàng quốc gia Guimet và bảo tàng Cernuschi. Nằm ở quận 8, bảo tàng Cernuschi, trực thuộc thành phố, còn là bảo tàng lớn thứ năm dành cho nghệ thuật Trung Quốc tại châu Âu. Quá trình hình thành bảo tàng được tái hiện qua triển lãm Retour d'Asie. Henri Cernuschi, un collectionneur au temps du japonisme (Từ châu Á trở về. Henri Cernuschi, nhà sưu tập thời trào lưu Nhật Bản) từ ngày 06/10/2023 đến 04/02/2024. Từ khi mở cửa đón công chúng năm 1898, bảo tàng Cernuschi, mang tên nhà sưu tập, vị mạnh thường quân người Pháp gốc Ý, hiện có gần 15.000 đồ vật liên quan đến Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Henri Cernuschi (1821-1896) là ai ? Tại sao lại là “giai đoạn trào lưu Nhật Bản” ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với giám đốc bảo tàng Eric Lefebvre, tại lễ khai trương triển lãm ngày 05/10/2023.“Henri Cernuschi là người có cuộc sống muôn mặt, một cuộc đời đầy phiêu lưu và sự kiện. Ông sống ở Milan (Ý) thời trẻ và trải qua một giai đoạn vô cùng quan trọng : Năm 1848, ông tham gia phong trào cách mạng để lập nền Cộng Hòa ở Milan và tham gia nhóm lãnh đạo phong trào phản đối quân đội Áo. Sau đó, Cernuschi cũng rất năng động trong thời kỳ Cộng Hòa ngắn ngủi ở Roma. Phong trào cách mạng thất bại, ông đến Pháp bắt đầu một cuộc đời mới. Ông là nhà thầu trong rất nhiều lĩnh vực và cuối cùng giầu lên nhờ lĩnh vực tài chính. Dù vậy, ông vẫn luôn đam mê với tư tưởng chính trị, đến mức vào cuối Đế Chế 2 và khi nền Đệ Tam Cộng Hòa ra đời ở Pháp, ông nhập quốc tịch Pháp, dù sau đó, ông bị ám ảnh về những sự kiện bi thương giai đoạn Công Xã Paris. Sau Công Xã, lúc 50 tuổi, Cernuschi bắt đầu hành trình đến châu Á. Tại sao lại vượt Đại Tây Dương, băng qua Mỹ và Thái Bình Dương để đến châu Á ? Cần sống lại bối cảnh thời đó. Cả một bầu không khí mới mẻ, thịnh hành lúc đó, mà người ta gọi là “trào lưu Nhật Bản”. Ai cũng biết là giới nghệ sĩ, trí thức Pháp trong nửa sau thế kỷ 19 bị ảnh hưởng bởi xu hướng này. Qua đồ gốm sứ, các nghệ sĩ Pháp phát hiện ra tranh vẽ Nhật Bản nổi tiếng. Loại hình nghệ thuật này ảnh hưởng rất lớn đến các nghệ sĩ theo trường phái Ấn Tượng. Ở nửa sau thế kỷ 19, rất nhiều nhà trí thức và nghệ sĩ bắt đầu chu du đến châu Á. Cernuschi cũng vậy. Ông đến Nhật Bản trước tiên, sau đó đến Trung Quốc, Indonesia, Sri Lanka và Ấn Độ”.Cernuschi : Doanh nhân Pháp mang tâm hồn châu ÁỞ tuổi 50, Henri Cernuschi chu du thế giới với nhà báo Théodore Duret, cũng là một người Cộng Hòa. Chuyến đi kéo dài 16 tháng, từ tháng 07/1871 đến tháng 01/1873, đưa họ đi từ Liverpool (Anh) vượt Đại Tây Dương đến New York, đi xuyên Hoa Kỳ sang bờ Tây để từ San Francisco vượt Thái Bình Dương và đến Yokohama, Nhật Bản vào tháng 10/1871. Sau gần ba tháng ở Nhật Bản (Tokyo, Kobe, Osaka, Kyoto và Nara), họ đến Hoa lục (Bắc Kinh, Nội Mông, Hàng Châu, Thiên Tân, Nam Kinh), Hồng Kông, đảo Java (Jakarta, Bandung và Yogyakarta), Sri Lanka, đến Ấn Độ (Madurai, Calcutta, Agra, Rajastan, Ellora) và từ Mumbay về Liverpool (Anh).Hành trình của Cernuschi được thể hiện một cách sinh động, kết hợp âm thanh, hình ảnh, đồ vật trưng bày, cùng với lời bình của một hướng dẫn viên trong vòng một tiếng rưỡi để khách tham quan không bị nhàm chán. Giám đốc Eric Lefebvre cho biết tiếp :“Chúng tôi kỉ niệm một sự kiện quan trọng. Tròn 150 năm Henri Cernuschi kết thúc chuyến chu du châu Á, cho nên đây là dịp để tái hiện lại chuyến đi và để hiểu thêm về bộ sưu tập đặc biệt. Chỉ trong tầm16 tháng, ông sưu tập khoảng 5.000 đồ vật, sau đó chia sẻ với công chúng Pháp trên đại lộ Champs-Elysée vào năm sau và cuối cùng là xây tòa nhà này chỉ để dành trưng bày bộ sưu tập. Đó là điều rất đặc biệt mà chúng tôi kỉ niệm ở bảo tàng”.Nhật Bản được Henri Cernuschi chọn làm điểm khởi đầu chuyến chu du bởi quần đảo mở cửa giao thương với thế giới ngay từ năm 1854, xã hội chuyển mình mạnh mẽ nhờ những biện pháp cải cách dưới thời Minh Trị (Meiji). Henri Cernuschi còn đi trước thời đại khi ông sưu tập đồ đồng sau khi khám phá ra quy mô và trình độ đúc đồng của các nghệ nhân Nhật Bản trong khi giới nghệ sĩ châu Âu vẫn đang say sưa với sơn mài và gốm sứ.Trong bộ sưu tập của ông có bức tượng Phật Amida cao lớn, sau này trở thành một trong những vật chủ đạo hình thành bảo tàng và hiện được trưng bày ở tầng hai. Bức tượng phản ánh kĩ năng điêu luyện của các nhà đúc đồng Nhật Bản, cũng như sự quan tâm của Cernuschi đến nghệ thuật Phật giáo. Rất nhiều đồ vật, tranh, sách liên quan đến Phật giáo được ông bổ sung trong bộ sưu tập sau này.Khi đến Bắc Kinh, tiếp xúc với những người buôn đồ cổ ở phố Lưu Li Xưởng (Liulichang), Cernuschi quan tâm đến quá trình phát triển nghệ thuật đúc đồng của Trung Quốc. Không có đủ hiện vật để bắt đầu từ nguồn cội, dù ông có một đồ vật có từ thế kỷ II-TCN, nhà sưu tập Pháp nhấn mạnh đến cách sưu tập của người Trung Quốc, những ký tự được khắc trên đồ đồng hoặc tài liệu liên quan đến đồ đồng cổ dù ông không hiểu chữ Hoa.1.800 đồ vật trong Bộ sưu tập Việt Nam Bốn gian phòng triển lãm mới chỉ trưng bày được một phần rất nhỏ hiện vật được lưu trong kho của bảo tàng. Henri Cernuschi không đến Việt Nam nhưng bộ sưu tập Việt Nam trong bảo tàng có đến 1.800 đồ vật, chiếm 10% số đồ vật của bảo tàng, trải dài 2500 năm, từ thế kỷ V-TCN. Theo giám đốc Eric Lefebvre, bộ sưu tập Việt Nam không ngừng được mở rộng.“Henri Cernuschi không thăm được hết các nước châu Á. Bộ sưu tập của ông chủ yếu liên quan đến Nhật Bản và Trung Quốc. Sau khi ông qua đời, bảo tàng tiếp tục hoạt động và mở rộng các bộ sưu tập. Đặc biệt là trong những năm 1920-1930, bộ sưu tập Việt Nam được hình thành, chủ yếu liên quan đến Việt Nam cổ đại nhờ những công trình khảo cổ được tiến hành ở Việt Nam trong giai đoạn đó.Trước hết là những tác phẩm có từ thời văn minh Đông Sơn, cho thấy sự xuất hiện thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam và những tác phẩm giai đoạn này. Tiếp theo chúng tôi cũng có những tác phẩm thời Giao Chỉ. Cuối cùng, công việc trong những năm gần đây của chúng tôi là kết nối giữa cổ đạivới hiện đại. Chúng tôi thắt chặt quan hệ với đồng nghiệp Việt Nam, các bảo tàng ở Việt Nam cũng như các nghệ sĩ Việt”.Theo trang web của bảo tàng, khoảng 100 đồ vật đầu tiên bằng đá, đồng và gốm liên quan đến Việt Nam được mua ngay năm 1927 từ doanh nhân Victor Demange ở Hà Nội và đam mê khảo cổ. Đến năm 1933, bảo tàng nhận được khoảng 50 đồ vật có niên đại thế kỷ X đến thể kỷ XV từ bộ sưu tập của doanh nhân Bỉ Clément Huet. Đến năm 1955, một chiếc vạc ba chân trong bộ sưu tập của Albert Pouyanne, thanh tra công chính Đông Dương trong thập niên 1920, được đưa vào bảo tàng.Sau đó, bộ sưu tập Việt Nam của bảo tàng Cernuschi được bổ sung từ ba chương trình khảo cổ trong những năm 1934-1939 của nhà khảo cổ Thụy Điển Olov Janse (1892-1985) kết hợp với Trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO). Hai chương trình đầu tiên (từ tháng 10/1934 - 05/1935 và từ tháng 10/1936 - 01/1938) do Hiệp hội Các Bảo tàng của thành phố Paris, các bảo tàng quốc gia và bộ Giáo Dục Pháp đồng tài trợ. Đồ vật tìm được được chia chủ yếu cho các Bảo tàng Cernuschi và Bảo tàng Guimet ở Pháp, Bảo tàng Louis Finot ở Hà Nội (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).Đồ đồng và gốm sứ là hai lĩnh vực chủ đạo trong bộ sưu tập Việt Nam. Tuy nhiên, những năm gần đây, bảo tàng Cernuschi hướng đến nhiều lĩnh vực khác, theo giải thích của giám đốc Eric Lefebvre :“Hiện giờ chúng tôi quan tâm đến nghệ thuật Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Dĩ nhiên chúng tôi vẫn quan tâm đến nghệ thuật cổ của Việt Nam nhưng tập trung nhiều hơn vào nghệ thuật hiện đại, đặc biệt là đến những nghệ sĩ đã sống giữa Việt Nam và Pháp.Chúng tôi cũng được trao tặng rất nhiều. Món quà đặc biệt gần đây nhất là từ gia đình họa sĩ Mai Thứ, đã giúp mảng hội họa hiện đại của bảo tàng phong phú hơn. Đó là những tác phẩm được vẽ trên lụa, những bản thảo trên giấy mới được tặng lại cho bảo tàng. Để giới thiệu những bộ sưu tập này tới công chúng, chúng tôi thường tổ chức các buổi treo tranh bởi vì những tác phẩm này thường rất dễ hỏng nếu liên tục trưng bày. Ví dụ vào tháng 12/2023, chúng tôi sẽ triển lãm về phụ nữ Việt Nam trong nghệ thuật hiện đại. Sẽ có rất nhiều tranh của Nguyễn Phan Chánh, vì nghệ sĩ là gương mặt chính của đợt treo tranh kéo dài từ cuối năm 2023 đến những tuần đầu năm 2024.Năm 2024, chúng tôi sẽ tổ chức một triển lãm lớn dành riêng cho ba họa sĩ Việt Nam là Lê Phổ, Mai Thứ và Vũ Cao Đàm”.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Sau gần một thế kỷ “lưu lạc” tại Pháp, ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” đã trở về Việt Nam vào tháng 11/2023, sau một năm đấu giá và hoàn tất các thủ tục thông quan. Thành công này khẳng định sự hợp tác giữa Nhà nước và lĩnh vực tư để hồi hương cổ vật Việt lưu lạc khắp thế giới. Quá trình hợp tác được khởi động cách nay gần hai thập niên nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một chiến lược cụ thể. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà báo - nhà nghiên cứu lịch sử Dương Trung Quốc cho rằng “trong chừng mực nào đó, sự hợp tác giữa Nhà nước với cá nhân đã được mở ra từ Luật Di sản”. Luật được Quốc Hội Việt Nam thông qua ngày 29/06/2001 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2002.“Trong luật này, lần đầu tiên chúng ta tôn trọng những quyền sở hữu cá nhân đối với cổ vật, tất nhiên sẽ trừ ràng buộc về một số chế tài nhất định, nhưng về căn bản là ủng hộ, kể cả việc xây dựng những bộ sưu tập hoặc là mở bảo tàng đều đã được quy định trong pháp luật. Và xu thế xã hội hóa, tức là dùng nguồn lực trong dân, để thực hiện việc này, cũng đã có. Cho nên tôi cho đó là cơ sơ pháp lý thuận lợi cho việc triển khai. Gần đây chẳng hạn, một số món được xếp vào đẳng cấp cao nhất trong hệ thống bảo vật quốc gia nằm trong bộ sưu tập tư nhân”.Đến cuối năm 2022, Việt Nam có thêm 27 bảo vật quốc gia, nâng tổng số lên thành 250, theo số liệu được trang Lao Động trích dẫn ngày 10/03/2023, trong đó có nhiều bảo vật quốc gia được giữ trong các bộ sưu tập cá nhân. Điều này khẳng định một lần nữa vai trò của tư nhân trong việc sưu tập cổ vật và hồi hương về Việt Nam như trường hợp ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” được nhà sưu tập Nguyễn Thế Hồng ở Bắc Ninh mua từ nhà đấu giá Pháp Millon, với giá 6,1 triệu euro (hơn 153 tỷ đồng). Nhà báo - nhà nghiên cứu lịch sử Dương Trung Quốc nhận định :“Tôi cho rằng sự kiện vừa rồi đã đánh thức chúng ta một trách nhiệm trong vấn đề thu hồi từng bước, một cách bài bản, một cách hợp pháp, một cách phù hợp với tập quán quốc tế và đặc biệt là khai thác được nguồn lực trong dân và chúng ta có thể thu hồi được những tài sản đó. Việc này không hề xa lạ. Tôi thấy nhiều quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc chẳng hạn, cũng là một quốc gia rất giầu di sản, cũng chịu rất nhiều thất thoát di sản. Họ có những đường đi nước bước rất bài bản. Họ thu hồi một cách rất thành công rất nhiều cổ vật của Trung Quốc ở nước ngoài, trong đó có cả cổ vật ở Việt Nam thông qua việc mua bán đồ cổ”.Hoạt động sôi nổi của các hội sưu tầm đổ cổ, được thành lập ngay từ những năm 2000 trên khắp cả nước bắt đầu tư Hội Sưu tầm - Nghiên cứu gốm và cổ vật Thăng Long - Hà Nội ra đời năm 1999, trở thành một “cánh tay nối dài” của ngành di sản văn hóa nước nhà, theo nhận định của nguyên giám đốc bảo tàng Lịch sử Việt Nam Phạm Quốc Quân, được trang Pháp Luật trích ngày 10/03/2023. Sự kết hợp Nhà nước và nhân dân, huy động nguồn lực xã hội vào việc sưu tầm, bảo quản cổ vật được nhà sử học Dương Trung Quốc đánh giá “là một yếu tố tích cực”.“Hiện nay, khi kinh tế trong nước đã khá hơn một chút thì đương nhiên người ta quan tâm đến văn hóa. Không ít “đại gia”, những người có tiền của, cũng tìm cách thu hồi về, hiểu trên cả hai phương diện, đưa cổ vật của người Việt Nam về Việt Nam, nhưng thứ hai, đó cũng là một phần tài sản của họ - một tài sản rất có giá trị bền vững, lâu dài. Cho nên ở đây cần phải hài hòa như thế nào lợi ích của những nhà sưu tập ấy với việc di sản đó làm tăng giá trị của nền văn hóa đất nước, của di sản của đất nước. Đấy là bài toán mà chúng ta cũng phải giải cho minh bạch”.Sau hơn 20 năm được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, Luật Di sản Văn hóa vẫn còn có nhiều hạn chế, bất cập do một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Báo Điện tử Chính phủ ngày 11/10/2023 nêu ví dụ “Luật Di sản văn hóa hiện hành chưa quy định nội dung các hoạt động, cơ chế để thu hút các nguồn lực của xã hội, huy động được sự đóng góp, tham gia của tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hóa…”, “chưa có các quy định về chuyển quyền sở hữu đối với bảo tàng ngoài công lập đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước… đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo quản ở trong nước”.Do đó cần phải sửa đổi Luật Di sản văn hóa. Theo dự kiến, Luật (sửa đổi) sẽ được trình Quốc Hội thông qua năm 2024, tập trung sửa đổi ba nhóm chính sách lớn, trong đó có liên quan đến “hoàn thiện các quy định về huy động nguồn lực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”.Cần điều tra, thống kê số cổ vật lưu lạc ở nước ngoàiTuy nhiên, theo nhà báo-nhà sử học Dương Trung Quốc, ngoài hoàn thiện Luật, cần có một chiến lược bài bản, lâu dài để tìm hiểu, nghiên cứu, thống kê số cổ vật Việt Nam lưu lạc ở nước ngoài. Hiện làm việc cho Hội đồng Di sản Quốc gia, ông Dương Trung Quốc tiếp xúc với nhiều hội đoàn, cơ quan và cá nhân ở nước ngoài. Ông đã được xem nhiều bộ sưu tập cá nhân. Một số người nung nấu ý định đưa bộ sưu tập về trưng bày trong nước nhưng chưa có kênh nào phù hợp. Cho nên, theo ông, bộ Ngoại Giao và bộ Văn Hóa Việt Nam nên hợp tác để có được một chủ trương nhất quán.“Số liệu rất nhiều ở bên ngoài nên cần có một cơ chế, có thể thành quỹ hay không thì tôi chưa bàn đến, nhưng ít nhất việc đầu tiên, như cá nhân tôi cũng đã có kiến nghị với cơ quan chuyên nhiệm, là phải tiến hành một cuộc điều tra hết sức khách quan, qua những hồ sơ, những biến cố lịch sử kể cả qua cộng đồng Việt Nam sống ở nước ngoài, để xem tài sản nằm ở đâu.Nhưng cần có những cuộc điều tra thật bài bản để xem hiện nay có bao nhiêu hiện vật ra nước ngoài, nằm ở đâu, trong hoàn cảnh nào, để sau này có thể vận dụng pháp lý. Chúng ta đã thấy trên thế giới, về mặt pháp lý, nhiều quốc gia phải trả lại những cổ vật của các nước mà do xuất cảnh một cách không hợp pháp hoặc để bày tỏ tình hữu nghị hoặc quan tâm đến hoạt động văn hóa giữa các quốc gia.Về việc đó, tôi nghĩ là nếu trên cơ sở chúng ta có được những dữ liệu đầy đủ thì việc thu hồi có thể được tiến hành một cách bài bản, phù hợp với pháp luật, phù hợp với tập quán quốc tế, đồng thời cũng tăng cường quan hệ với các nước có những báu vật của Việt Nam. Nhưng đồng thời cũng phải có chương trình đặc biệt về mặt tài chính để bên cạnh trách nhiệm của Nhà nướccòncó sự huy động của người dân, có những chính sách khuyến khích, khích lệ hoặc ưu đãi cho những việc làm này thuận lợi hơn, khích lệ người tham gia vào công việc này”.Hợp tác với các nước bảo quản nhiều cổ vật ViệtQuá trình hồi hương ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” thời Minh Mạng là một trường hợp cụ thể thể hiện cho sự phối hợp giữa lĩnh vực công và tư ở Việt Nam, giữa Nhà nước Việt Nam và chính phủ Pháp để một báu vật có ý nghĩa lịch sử đối với Việt Nam được trở về cố hương. Nhà báo-nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng cần nhân rộng ví dụ này :“Hiện nay chúng ta có quan hệ khá tốt với nước Pháp hay những quốc gia có quan hệ lịch sử với chúng ta mà có khả năng là các hiện vật ở trong nước được đưa đến như Nhật Bản, Hoa Kỳ. Gần đây, chúng tôi được tham dự lễ trao trả một số hiện vật của cá nhân người Mỹ. Họ thấy rằng họ không sở hữu và muốn chuyển trả cho Việt Nam. Buổi lễ được tổ chức hết sức trang trọng ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Hoặc sự hợp tác giữa Việt Nam và Pháp trong vấn đề công bố, thông tin, trao đổi lưu trữ về những cuộc trưng bày ở bảo tàng. Tôi cho đó là những biểu tượng ban đầu”. Pháp là nơi lưu giữ rất nhiều cổ vật Việt Nam trong các bảo tàng công hoặc các bộ sưu tập tư nhân do mối quan hệ lịch sử giữa hai nước. Ví dụ tại Bảo tàng Monnaie de Paris, có bộ sưu tập tiền vàng, bạc nén được đúc từ những năm 1820-1841, gồm 150 thỏi vàng và tiền vàng, cùng với bốn nén bạc. Các Bộ sưu tập Việt Nam của Bảo tàng Cernuschi có đến 1.800 đồ vật, trong đó đại đa số thu được từ các chương trình khảo cổ tại Việt Nam thời Pháp thuộc. Bảo tàng Nghệ thuật châu Á Guimet cũng có rất nhiều cổ vật Việt Nam… Phía Việt Nam có thể hợp tác để khai thác số liệu cụ thể, đầy đủ về cổ vật Việt Nam của những cơ quan này.“Tất nhiên đối với Nhà nước thì ưu tiên những vấn đề tạm gọi là “vĩ mô” như quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia khác nhau trong bối cảnh này, hành xử như nào cho thuận. Nhưng quan trọng nhất là chúng ta phải dựa trên pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế để thực hiện những mục tiêu đó. Muốn thực hiện thì phải có bài bản : Trước hết ta mất cái gì ? Mất trong hoàn cảnh nào ? Liệu chúng ta có được đòi lại hay không ? Hay chúng ta phải tìm cách mua lại, chuộc lại ? Hay có thể qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó có vai trò của những nhà sưu tập, của người dân ? Tôi cho đấy là vấn đề cấp thiết đặt ra trong bối cảnh này. Tôi rất tin là sau vụ việc này(ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” trở về Việt Nam), nhất là vào thời điểm này, phía Việt Nam nói rất nhiều đến văn hóa, đến di sản. Đây cũng là cơ hội để xây dựng những hệ thống pháp lý, hệ thống chính sách, đồng thời thúc đẩy những động thái liên quan đến quan hệ quốc tế để trước hết là xem có gì ở nước ngoài, sau đó là từng bước thu hồi một cách hợp pháp, hợp lý. Tôi cho đó là tiến trình phải diễn ra. Còn rõ ràng là sau việc này, dư luận xã hội cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm của Nhà nước”.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế : Từ lâu đài bỏ hoang thành "ngôi nhà" Pháp ngữ

Play Episode Listen Later Nov 17, 2023 10:58

Cộng đồng Pháp ngữ, ngôn ngữ được nói nhiều thứ 5 trên thế giới, ở 88 nước, từ giờ có « một ngôi nhà chung ». Trung tâm tiếng Pháp quốc tế (Cité internationale de la langue française) được khánh thành ngày 30/10/2023 nằm tại lâu đài Villers-Cotterêts, đúng nơi cách đây gần 500 năm, vua François I ký sắc lệnh sử dụng tiếng Pháp làm ngôn ngữ hành chính vào tháng 08/1539. Tại lễ khai mạc, tổng thống Macron nhấn mạnh đến sự độc đáo của dự án : Chưa một tổng thống Pháp nào lại đặt một công trình có tầm cỡ lớn ở ngoài Paris (tỉnh Aisne, miền bắc Pháp). La Cité internationale de la langue française không phải là một bảo tàng là một trung tâm đa năng vừa bảo tồn bản sắc tiếng Pháp, vừa là nơi giao lưu, khuyến khích sáng tạo và là sân khấu cho tất cả mọi người.Bà Marie Lavandier, chủ tịch Trung tâm Di tích Quốc gia Pháp (Centre des Monuments nationaux) và ông Paul Rondin, giám đốc Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế (Cité internationale de la langue française) dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn nhân lễ khánh thành Trung tâm tại Villers-Cotterêts ngày 30/10/2023.RFI : Trung tâm tiếng Pháp quốc tế chính thức được khánh thành tại lâu đài Villers-Cotterêts. Là chủ tịch Trung tâm Di tích Quốc gia Pháp, xin bà giải thích về lựa chọn này !Bà Marie Lavandier : Tổng thống Emmanuel Macron, trước cả khi ông được bầu làm tổng thống, đã đến lâu đài Villers-Cotterêts năm 2017. Lâu đài là một địa điểm rất quan trọng vì vào năm 1539, vua François I - người đã cho xây dựng lâu đài từ năm 1532 - đã ký chỉ dụ bắt buộc dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ duy nhất trong hành chính và tư pháp trên cả nước.Địa điểm mang ý nghĩa biểu tượng cao này cũng có quá khứ khá thăng trầm. Vào thế kỷ 16, đây là một lâu đài hoàng gia, xây theo kiến trúc Phục Hưng tuyệt đẹp, rồi được trùng tu, mở rộng vào thế kỷ 17 và 18. Sau đó là thời kỳ đen tối cho lâu đài bởi vì lâu đài trở thành kho từ thiện sau cuộc Cách mạng Pháp, rồi nhà dưỡng lão và bị bỏ hoang hoàn toàn kể từ năm 2014.Năm 2018, trong bài diễn văn quan trọng về tiếng Pháp tại Viện Pháp, tổng thống Macron đã muốn biến lâu đài đổ nát thành Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế - Cité internationale de la langue française. Ông giao dự án khá độc đáo này cho Trung tâm Di tích Quốc gia (Centre des Monuments nationaux). Công trường có quy mô lớn, kéo dài gần 4 năm, đã giúp hồi sinh lâu đài lịch sử, và nhất là thổi hồn cho lâu đài thành Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế. Đây là nơi vinh danh một tiếng nói được chia sẻ, chu du rất nhiều, một ngôn ngữ hiện có hơn 320 triệu người sử dụng trên thế giới, vẫn không ngừng sáng tạo, và tôi xin trích một câu của Glissant, một ngôn ngữ « không thể hình thành mà không phối hợp với những ngôn ngữ khác ».Đây cũng là một ngôi nhà chung, nơi kết nối văn hóa, đa ngành dành cho tất cả những người trên thế giới nghĩ, nói, đọc, viết, sáng tạo, đấu tranh bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ chung của chúng ta. Đây cũng là địa điểm quốc tế, mở cửa đón tất cả những người không nói tiếng Pháp muốn đến thăm lâu đài bởi vì những hướng dẫn ở đây được viết bằng 8 ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ ký hiệu.RFI : Trong những năm gần đây, Pháp có rất nhiều dự án trùng tu di tích xuống cấp. Dự án hồi sinh lâu đài Villers-Cotterêts và biến thành Trung tâm tiếng Pháp quốc tế liên kết với nhau như thế nào ?Bà Marie Lavandier : Trung tâm Di sản Quốc gia là một cơ quan công, trực thuộc bộ Văn Hóa, quản lý 110 công trình thuộc sở hữu của Nhà nước. Trung tâm có nhiệm vụ cải tạo, trùng tu, bảo tồn những công trình đó và mở cửa đón công chúng qua việc tạo những chức năng khác nhau, ví dụ đúng với chức năng của công trình đó hoặc liên quan đến văn hóa, di sản. Chúng ta có thể thăm những lâu đài, nhà thờ cổ kính, Khải Hoàn Môn, nhà nguyện Sainte-Chapelle ở Paris hay Mont Saint-Michel… nhưng đôi khi người ta cũng tạo cách sử dụng mới cho những công trình đó, có thể là bảo tàng hoặc địa diểm tiếp các hiệp hội chẳng hạn.Đây là điều được áp dụng với Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế này. Công trình có hai nhiệm vụ : bảo tồn một di sản và chia sẻ rộng rãi nhất có thể di sản đó, theo đúng chủ trương chính sách bảo tồn di sản của Pháp. Bảo tồn ở đây được hiểu theo đúng nghĩa đen và theo luật pháp, kể cả đối với cả di sản đôi khi không được bảo vệ. Những công trình tôn giáo nhỏ ở Pháp đã nhận được rất nhiều thông báo về trùng tu, trong đó có một thông báo gần đây của tổng thống Macron.Có thể thấy những cố gắng lớn, liên tục tại một nước như Pháp, nơi có rất nhiều di tích lịch sử quan trọng ở hầu hết mỗi góc phố tại nhiều thành phố, hoặc gần như ở mỗi ngôi làng, đặc biệt là những công trình liên quan đến tôn giáo. Đây là công việc lâu dài. Tuy nhiên, việc bảo tồn công trình lịch sử tại Pháp luôn có những nỗ lực thường trực.RFI : Villers-Cotterêts là một thành phố nhỏ, không có nhiều khách du lịch. Việc lâu đàiVillers-Cotterêts được hồi sinh, Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế được thành lập tại đây có thể giúp cải thiện ngành du lịch của địa phương ?Bà Marie Lavandier : Đặc thù của dự án này là kết hợp những thách thức ở các cấp khác nhau nhưng liên quan đến nhau. Trước tiên là những thách thức ở cấp vùng, ví dụ ở đây là một thành phố nhỏ đã trải qua nhiều thời kỳ khó khăn trong những thập niên qua và đang vực dậy cùng với Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế, nếu tôi dám nói như vậy.Yếu tố lãnh thổ này rất quan trọng và phải nghĩ đến. Không tiến hành đơn phương mà phải theo tinh thần tập thể mà hiện giờ chúng tôi đang trong thời kỳ đầu hợp tác. Các cơ quan, đoàn hội địa phương tham gia rất tích cực vào quá trình này. Một trong những mục tiêu đặt ra là thay đổi dần dần vùng đất này về mặt du lịch. Nơi chúng ta đang đứng không phải là vùng đất vô danh, mà là một lâu đài quan trọng, nằm giữa vùng Valois lịch sử có những cánh rừng tuyệt đẹp và nhiều lâu đài lớn. Vì vậy, Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế sẽ góp phần định hình, tăng cường hoạt động du lịch cho vùng.Tiếp theo là tầm cỡ quốc gia mà chúng ta đã nêu ở trên, rồi tầm cỡ quốc tế của Trung tâm do liên quan đến quy mô của tiếng Pháp, đến tham vọng phát triển nghệ thuật và du lịch ở cấp quốc tế.RFI : Paul Rondin, ông là giám đốc Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế, xin ông cho biết khách tham quan có thể khám phá những gì ở Trung tâm này ? Ông Paul Rondin : Trung tâm mở cửa cho tất cả những người nói tiếng Pháp trên toàn thế giới và cả những người yêu tiếng Pháp, những người muốn khám phá một ngôn ngữ. Điểm vô cùng thú vị trong dự án này, đó là tiếng nói - một sản phẩm phi vật thể - của các nền văn hóa Pháp ngữ. Người ta có thể tham quan chúng và bước vào hành trình phiêu lưu.Tôi thích dùng cụm từ « vui chơi giải trí », thậm chí là « một lễ hội » của từ ngữ, của tiếng nói, của các trò chơi. Có nghĩa là vừa học vừa chơi, vừa học vừa giải trí. Một hành trình cố định sẽ đưa chúng ta chu du, kể với chúng ta về những từ tiếng Pháp được du nhập vào ngôn ngữ nước ngoài hoặc những từ vay mượn trong tiếng Pháp để cùng cùng phát triển phong phú hơn.Ngoài ra còn có sự biểu thị của những ngôn ngữ này. Đó chính là ngôn ngữ kí hiệu mà đôi khi chúng ta vẫn quên, rồi ngôn ngữ cơ thể. Tiếp theo còn có những nghệ sĩ, ca sĩ, ca sĩ nhạc rap, nghệ sĩ sân khấu, diễn giả, nhà văn sẽ đến biểu diễn bởi vì ngôn ngữ rất sống động, cần phải được nhìn, được nghe. Nghe một tiếng nói là điều quan trọng mà chúng ta cần nhấn mạnh, cần phục hồi theo một cách nào đó, có nghĩa là tập trung vào chất lượng nghe một ngôn ngữ.RFI : Trong suốt thời gian trùng tu lâu đài, Trung tâm đã chuẩn bị các bộ sưu tập và thiết bị như thế nào để giới thiệu tiếng Pháp đến với thế giới ? Ông Paul Rondin : Cả một cơ sở được thiết kế hoàn toàn mới, chưa hề tồn tại trước đó, mở cửa từ hôm nay (30/10/2023). Thiết kế này được dành riêng cho Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế với những thiết bị tương tác, nhập vai. Người xem bước vào không gian-thời gian trong đó họ có thể đắm chìm và chơi với các thiết bị được thiết kế riêng cho Trung tâm, như là thư viện thần kỳ, vòm cầu lớn nơi có thể thấy các từ di chuyển, tách rời rồi hợp lại thành từ xuyên thời gian và xuyên thế giới. Ngoài ra, còn có nhiều đồ vật trưng bày được một số bảo tàng lớn cho mượn như bảo tàng Louvre, Centre Pompidou… để minh họa rõ hơn.RFI : Trung tâm còn là nơi lưu trú cho các nghệ sĩ, tạo điều kiện cho sáng tác và trình diễn. Việc này được thực hiện như nào ? Ông Paul Rondin : Nói chính xác đây là một trung tâm chứ không phải là bảo tàng, không phải chỉ là lâu đài hay một thiết bị văn hóa mà còn là nơi lưu trú. Trung tâm luôn có 12 « cơ sở sáng tác » có quy mô lớn nhỏ khác nhau, có thể là một tháp nhỏ để một nhà văn hoặc một tác giả đến sáng tác trong thời gian cần thiết hoặc một sân khấu lớn cho một đoàn kịch, một đoàn múa hoặc một nhóm nhạc rock luôn mở rộng cửa ngay từ bây giờ cho các nghệ sĩ, cũng như các nhà nghiên cứu, sinh viên nếu họ muốn, để thông qua tiếng Pháp, họ có thể sáng tạo, nghiên cứu, tìm kiếm và giới thiệu, trình diễn trước công chúng tác phẩm của họ hoặc những khám phá của họ.RFI : Ở một số nước, việc giảng dạy tiếng Pháp có xu hướng giảm, ví dụ ở Việt Nam. Liệu Trung tâm sẽ có những dự án hợp tác để khích lệ đam mê với tiếng Pháp ?Ông Paul Rondin : Cần phải nhấn mạnh đây là một Trung tâm quốc tế, qua đó chúng tôi muốn nói rằng trung tâm là một công cụ, một bến đỗ tiếng Pháp cho tất cả những ai nói, yêu và quan tâm đến tiếng Pháp trên khắp thế giới. Với chức năng đó, Trung tâm không chỉ thu hút, tiếp đón nồng hậu tất cả những người quan tâm đến tiếng Pháp mà còn tiến về phía họ, có nghĩa là thiết kế những chương trình với các nghệ sĩ ở Việt Nam, với những người học tiếng Pháp và cả những người yêu tiếng Pháp.Chúng ta đừng bao giờ quên một điều quan trọng rằng đây không phải là tính toán chính trị, ngoại giao hay địa-chính trị mà là tài sản văn hóa, theo đúng nghĩa là giúp chúng ta chia sẻ, hiểu nhau. Vì thế không có gì hạn chế quan hệ đối tác của Trung tâm với bất kỳ ai.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn bà Marie Lavandier, chủ tịch Trung tâm Di tích Quốc gia (Centre des Monuments nationaux) và ông Paul Rondin, giám đốc Trung tâm tiếng Pháp Quốc tế (Cité internationale de la langue française).

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Với hơn một triệu người nghiệp dư, câu cá là một hoạt động giải trí thể thao phổ biến ở Pháp. Trên khúc sông Seine ở thủ đô Paris, những người đi câu, được ví như “những người lính gác của dòng sông”, đã trở nên quen thuộc với dòng nước và các loại cá, cũng như tình trạng ô nhiễm của con sông lãng mạn nhất thế giới. Tại Pháp, câu cá không được coi là một hoạt động giải trí mãi cho đến thế giữa thế kỷ 19. Trước đó, vào những năm 1740 – 1820, câu cá là hoạt động chỉ để phục vụ mục đích đa dạng hóa nguồn thức ăn, và quyền đánh bắt cá trên các sông ngòi thuộc về hoàng gia hay lãnh chúa ở các địa phương. Luận án tiến sĩ của giáo viên lịch sử địa lý Jean François Malange về lịch sử đánh bắt cá ở Pháp chỉ ra rằng, lúc đó, những nông dân, vì muốn cải thiện bữa ăn, tự ý đánh bắt cá trên sông mà không được cho phép đã bị xử phạt.Đến những năm 1890, các cảnh báo về nguồn cá nước ngọt ngày càng cạn kiệt được đưa ra, dẫn đến sự ra đời của nhiều hiệp hội đánh bắt cá. Mục đích của các hiệp hội này chủ yếu là để bảo vệ dòng sông, ngăn nạn đánh bắt cá trộm và ngăn tình trạng nguồn cá sông suy giảm. Họ đánh bắt, tiêu diệt những loài có hại. Để làm được điều này, những người đi câu, đánh bắt cá trong các hiệp hội đó hầu hết đều được phổ biến kiến thức về các loài cá, môi trường thuỷ sinh, nước… Những bản đồ thống kê cá theo khu vực đầu tiên là do chính những người đi câu lập ra thông qua quan sát thực địa. Năm 1904, ước tính trên toàn nước Pháp có đến hơn 50 000 người là thành viên của các hiệp hội đánh bắt cá, cùng nhau bảo vệ dòng sông. Nhiều cuộc thi câu cá cũng đã được tổ chức. Vào những năm 1960, những người câu cá nghiệp dư ngày càng gia tăng thậm chí, số lượng còn nhiều hơn những người đánh cá chuyên nghiệp. "Những lính gác" của dòng sôngNhững con sông trở thành không gian giải trí và cần được bảo vệ, những người đi “câu cá trở thành lính gác của các con sông”. Họ báo cáo trình trạng ô nhiễm, gửi đơn khiếu nại lên chính quyền để tố cáo các hành vi vi phạm. Những người câu cá thậm chí còn trở thành nhóm gây áp lực đối với Nhà nước và các nhà công nghiệp vào nửa đầu thế kỉ 20, trong các vụ tràn dầu. Từ những năm 1980, có thể nói rằng câu cá mang tính nghệ thuật và đạo đức hơn, khi xu hướng đi câu “no kill” – không tiêu thụ, không giết cá, được ưa chuộng. Họ thả lại cá đánh bắt được xuống nước một cách có hệ thống. Các thiết bị câu cá cũng được đầu tư, cải tiến hơn. Đi câu trở thành một cách để trải nghiệm, gần với thiên nhiên, ngắm hoàng hôn buổi chiều tà, hay quan sát các loài động vật quý hiếm. Ngày nay, câu cá là một hoạt động giải trí phố biến trên toàn nước Pháp, với hơn 1,5 triệu người được cấp phép đi câu tại các vùng nước ngọt (số liệu từ 2022). Tại những thành phố lớn có sông chảy qua, như ở sông Seine của thủ đô Paris, không khó để bắt gặp những người đi câu cá mỗi buổi chiều xuống. Daniel đã có kinh nghiệm từ 15 năm đi câu, thông thường, mỗi lần mang cần câu ra ngoài, ông đều chọn một địa điểm câu mới : “Tôi đang đợi, đợi xem có con cá nào quan tâm đến mồi mà tôi làm ra, rồi cắn nó. Cần câu rất nhạy cảm, khi dây câu được kéo căng như vậy, lưỡi câu chạm đáy sông, tôi có cảm tưởng như là có thể nhìn được đáy sông. Ví dụ như chỗ này, đáy sông hơi cứng, chỗ này thì mềm, có thể là bùn. Điều thú vị ở sông Seine đó là không ai biết có thể bắt được loại cá nào. Tôi biết hết các loài cá, nhưng không biết hôm nay có thể bắt được cá pecca (perche, cá vược hay cá chó (brochet), giống như là đánh xổ số vậy. Không chỉ có sở thích câu cá, ông Daniel cũng tự mình làm ra những mồi câu giả, bằng gỗ và bằng nhựa, dưới hình dáng những con cá nhỏ. “Những con cá giả này khiến cá bị thu hút, nghĩ là cá thật và săn lùng chúng, rồi mắc bẫy. Cách mà tôi câu có thể gọi là “săn cá”, tức là lúc nào cũng di chuyển, ném lưỡi câu ra xa, rồi đi dụ cá, nếu không có con cá nào hứng thú với mồi câu, thì di chuyển đi chỗ khác, thay đổi vị trí, dưới chân cầu chẳng hạn. Tôi biết rằng khi trời mưa thì ở đây có nhiều cá đến”. Câu cá là một đam mê, một sở thích mỗi khi có thời gian rảnh. Theo ông Daniel, cách đi săn cá, đứng trước sông phẳng lặng như tấm gương, đôi khi một vài gợn sóng khi tàu thuyền đi qua, là một khoảnh khắc để giải tỏa tất cả những áp lực sau một ngày dài. Ông nói :“Tôi không thấy điều gì có thể khiến đầu óc thư thả hơn. Khi đang câu cá, tôi có thể xả bỏ hết những áp lực, như một cách thanh lọc đầu óc, ngủ tốt hơn,…, ngay cả khi không bắt được con cá nào. Đi săn cá và tập trung vào việc đó, đúng là không có gì tốt hơn. Đối với tôi, đó là một niềm vui, ngay cả khi tôi biết là con cá đó chỉ chạm vào mồi, cắn vào đuôi cá. Con cá đó đề phòng, nhưng tôi biết là nó ở đó, nên phải hành động từ từ, thay mồi khác, thử cách khác, để cá có thời gian quyết định xem có định cắn vào mồi câu hay không. Hôm nay tôi đi thử một loại mồi câu mới mà tôi làm ra, tôi bắt được một con pecca và tôi rất hài lòng. Năm nay thời tiết khá thất thường, nên thường chỉ bắt được cá nhỏ”. "Phần lớn người dân Paris không biết có cá ở sông Seine"Pháp hiện có khoảng 3600 Hiệp đội đánh cá tại các vùng nước ngọt. Nếu muốn đi câu, đánh bắt cá thì phải sở hữu giấy phép câu (thẻ đi câu), thuộc một hiệp hội câu cá nào đó, phải trả phí bảo vệ môi trường nước và phải được sự cho phép của chính quyền địa phương.Tại Paris, hầu hết các khu vực ven sông Seine đều được phép câu cá, trừ port d'Arsenal. Có những loài cá không được phép đánh bắt tùy theo mùa, hoặc những loài cá hiếm. Cách đánh bắt cá bằng tay, sử dụng trứng cá, hay lươn thuỷ tinh, hay sử dụng lưới bị cấm vào mọi thời điểm và quanh năm.Ông Bill François, thành viên của Hiệp hội đánh cá tại Paris và sông Seine, trả lời kênh truyền hình BFM, nhận định rằng “những người đi câu cá, thông qua thẻ đi câu, đóng góp tài chính cũng như niềm đam mê, lòng tình nguyện vào việc bảo vệ môi trường nước. Chúng tôi là những người duy nhất quan tâm đến điều này, phần lớn người dân Paris không biết rằng ở sông Seine có cá. Còn chúng tôi, ngày nào cũng có mặt bên bờ sông. Chúng tôi biết rằng có khoảng 30 loài cá.”Đối với anh Fred, sống trong vùng Paris và cũng đam mê câu cá từ nhỏ, tham gia một số cuộc thi câu, nhưng đối với anh, câu cá trên hết là sự kích thích, bởi anh thường đi “săn” loại cá nheo châu Âu (Silurus). Trang bị ba cần câu khác nhau, ở bờ sông Seine, phía ngoại ô thành phố, chỉ chờ cá cắn câu, anh cho biết “những âm thanh mà mình nghe được ở điều kiện thường thì những tiếng động đó lớn gấp 10 lần đối với cá nheo, chúng rất nhạy cảm. Kích thước của cá nheo đôi khi có thể to hơn cả tôi”. Loại cá này thường ẩn trong bùn ở đáy sông hồ, dài trung bình khoảng 1,5 mét và nặng từ 50 đến 150 kg. Có những con cá khổng lồ, có kích thước lên đến 2,77 mét. Xu hướng câu cá "no-kill" : bắt được rồi thả lại xuống nướcCũng giống như nhiều người đi câu nghiệp dư khác theo xu hướng – no kill, bắt nguồn từ Anh Quốc, cả anh Fred và ông Daniel, đều thích câu cá, nhưng bắt được, rồi lại thả xuống nước. Ông giải thích : “ Tôi không ăn cá ở sông Seine khi mà tôi biết được lịch sử của dòng sông ra sao. Nước bị ô nhiễm. Tận mắt tôi đã nhìn thấy những ống cống xả nước thải trực tiếp ra sông, rác, phân, túi nhựa,…vv... Chưa kể đến ô nhiễm từ thuốc kháng sinh, hay ô nhiễm do PCB. Tôi cũng tận mắt nhìn thấy những con tàu xả rác thẳng xuống sông khi đang di chuyển. Thật là kinh khủng ! Có những chỗ nước chuyển sang màu tím. Chất lượng nước sông, theo tôi, không hề cải thiện chút nào dù họ có nói trên truyền hình. Tôi vẫn nhìn thấy các ống xả nước thải trực tiếp ra sông. Có lần tôi đã đến tòa thị chính để báo cáo về tình trạng này, nhưng họ nói rằng các ống nước thải đó là do lắp đặt sai, và họ cũng không có giải pháp.” Vào dịp Thế vận hội 2024, một số cuộc thi bơi sẽ được tổ chức trên sông Seine. Việc cải thiện chất lượng nước đang được cấp tốc thực hiện. Hồi tháng 8 vừa qua, một cuộc thi bơi thử trên sông Seine (gần cầu Alexandre III) đã bị hủy vì chất lượng nước không bảo đảm. Ông Daniel nói “tôi không biết vận động viên nào dám bơi ở sông Seine, nhưng nếu là tôi thì chắc chắn là không”.Ven bờ sông Seine, đôi khi người ta bắt gặp những chiếc khăn ướt bẩn ở một góc nào đó. Ông Daniel cho biết đó là loại rác phổ biến nhất đối với người đi câu. Một số người “bắt” được loại rác này nhưng không vứt bỏ vào thùng rác.Ngoài ra còn vô số các loại rác khác vẫn nằm ở đáy sông, thậm chí có những người đi câu rác thay vì câu cá. Hồi đầu năm nay, 02/2023, báo Le Parisien đưa tin một thanh niên ở vùng Hauts-de-Seine đã “câu” được một vỏ đạn có từ thời Đệ Nhất Thế Chiến, rồi mang về căn hộ, khiến cảnh sát phải sơ tán cả tòa nhà.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Xe bus Marcel, chiếc xe lội nước có nguồn gốc từ thời Đệ Nhị Thế Chiến, đã được tu sửa nâng cấp thành phương tiện vận chuyển du lịch mới lạ ở Paris. Được lắp thêm cánh quạt, vỏ thuyền, xe bus Marcel, do công ty Les Canards de Paris khai thác, đưa du khách khách đi dạo phố phường thủ đô Pháp, đồng thời, có thể lội nước, khám phá một khúc sông Seine. Khoảng hơn chục người đứng xếp hàng dưới chân tháp Eiffel, chuẩn bị lên chiếc xe bus màu xanh lam, trang trí hình con vịt như ở Disneyland. Một số người tò mò đổ lại hỏi và muốn cùng lên xe nhưng chuyến này đã hết chỗ, phải chờ đến chuyến sau. Vào những ngày hè nóng nực, tất cả các cửa kính được mở ra, các áo phao cứu sinh màu đỏ chất trên nóc xe, điều này khiến hành khách có cảm giác đang ngồi trên một chiếc thuyền hơn là một chiếc xe buýt. Bà Marie-Claire, sống tại Paris và đã nhiều lần thấy chiếc xe bus đi qua, bà cho rằng ý tưởng “ngồi xe đi trên đường rồi sau đó lội xuống nước khá là ấn tượng”, nên đã đặt vé đi thử chiếc xe bus duy nhất của công ty du lịch Les Canards de Paris. Khi hơn 20 chục khách đã ổn định chỗ ngồi, xe bắt đầu khởi hành. Hướng dẫn viên giới thiệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, chia sẻ những câu chuyện, lịch sử địa điểm mà xe đi qua : Trocadéro, cầu Alexandre III hay Khải Hoàn Môn, và nhất là không bỏ qua phần giới thiệu về chiếc xe bus đặc biệt này : “Quý vị có biết là chiếc xe bus này có một siêu năng lực và mọi người sẽ khám phá trong 40 phút nữa”, trước khi “lội xuống sông Seine” ở Boulogne Billancours, ngoại ô Paris. “Marcel đi không nhanh lắm mẹ nhỉ”, một hành khách nhí trên xe nói. Được đặt tên là Marcel, chiếc xe bus lội nước phục vụ khách du lịch đầu tiên ở Paris dài 11 mét, rộng 2,5 mét vào cao 3,92 mét. Mũi xe tròn cho phép di chuyển với tốc độ 10km/h trên đường nhựa. Khi di chuyển xuống nước, bánh xe trở thành bánh lái, vỏ của xe bus được làm bằng nguyên liệu tượng tự như vỏ thuyền, chống thấm nước. Đồng sáng lập của Les Canards de Paris, ông Paul Michel giải thích : “Bánh lái của xe cho phép điều hướng khi di chuyển dưới nước, còn cánh quạt này cho phép xe di chuyển về phía trước. Điều thú vị với chiếc xe lội nước đó là bánh lái không quá to, nhưng ở phía đầu xe, chúng tôi cũng có hai bánh xe – bánh lái cùng kích thước, khi chúng tôi quay vô lăng, thì bánh xe cũng sẽ điều hướng, dễ điều khiển (manœuvrabilité). Marcel là chiếc xe mà bánh xe vừa cho phép di chuyển trên đường vừa giúp xe điều hướng như những chiếc thuyền dưới nước, đây là điều mà những phương tiện thông thường không thể làm được.” Ý tưởng một chiếc xe lội nước ở Paris thực ra là đến từ Hoa Kỳ. Trong một chuyến du lịch đến Mỹ, nhà sáng lập Paul Michel đã có dịp đi thử và nhen nhóm ý định “tại sao một chiếc xe như vậy lại không có ở Pháp”. Cùng với người bạn Philippe Maillet, ông Paul đã thành lập Les Canards de Paris, chính thức đi vào hoạt động từ năm 2021. Thời điểm này là một thách thức lớn đối với một công ty du lịch, bởi lúc đó lượng du khách không nhiều và hai nhà sáng lập phải tự làm mọi thứ : học lái tàu, lau dọn, bảo trì xe, hướng dẫn viên, làm quảng cáo, xin giấy phép… Trên thực tế, điều khó khăn nhất, theo ông Paul, chính là chặng đường 6 năm chật vật xin giấy phép lưu hành cho chiếc xe du lịch lội nước đầu tiên ở Paris này. Cả hai đã nghiên cứu mở công ty vào năm 2013, tìm hiểu, chuẩn bị các thủ tục trong vòng 1 năm, nhưng để được thông qua, thì cần phải đợi thêm 6 năm.6 năm để xin giấy phép hoạt độngĐồng sáng lập Les Canards de Paris bộc bạch “Pháp có lẽ là nước mất nhiều thời gian để xin giấy phép nhất thế giới, có những nước chỉ mất vài tháng”, có những lúc “có người hỏi chúng tôi đang làm gì, họ không tin và cười vào ý tưởng xe lội nước vì mấy năm trời phải lo thủ tục xin giấy phép”. Ông Paul Michel giải thích : “Ở Pháp, xe của chúng tôi phải tuân theo hai quy định, dành cho xe ô tô và cho thuyền du lịch. Dù kích thước không quá lớn nhưng xe bus bị coi như là thuyền-bateaux-mouche và phải tuân theo quy định của cả hai. Điều này không hề dễ dàng, với khoảng 10 000 trang giấy các quy định cần tuân theo. Xe bus dài 10 mét thì mỗi milimét là một trang quy định, cần phải đọc, hiểu và áp dụng, chứng minh. Đôi khi để chứng minh là có bảo đảm tuân thủ quy định hay không thì chúng tôi phải đi kiểm tra. Ví dụ như lấy mẫu xe bus, mang đi đốt tại các phòng thí nghiệm để kiểm tra. Có những mẫu xe bus chúng tôi phải phá huỷ, dỡ bỏ toàn bộ.” Để lái một chiếc xe lưỡng năng, di chuyển trên bộ và dưới nước như vậy không hề đơn giản, vì có bằng lái xe là chưa đủ, mà cần phải có cả bằng lái phương tiện đường thuỷ. Do vậy việc tuyển nhân sự cũng không hề dễ, vì cần thời gian để đào tạo, đặc biệt là bằng lái đường thuỷ, lên đến hàng trăm giờ. Do vậy, đôi khi, trong một chuyến đi kéo dài khoảng một tiếng rưỡi, sẽ phải đổi người lái xe, nếu tài xế chưa có bằng để trở thành “thuyền trưởng”. Les Canards de Paris, tạm dịch là Những con vịt của Paris. Khi di chuyển trên sông Seine, ông Paul Michel thuật lại “chúng tôi thường không bắt gặp vịt ở trên sông, nhưng chúng tôi giống như những con vịt của sông Seine.” Theo nhà đồng sáng lập, có nhiều lý do để giải thích cái tên này. Ông nói “đầu tiên là chúng tôi muốn có hình ảnh một con vật lội nước và sau đó có thể đi trên đường bộ. Lý do thứ hai là vì khi những đoàn phụ trách vận chuyển binh lính trong Đệ Nhị Thế Chiến được gọi là DUKW, với biệt danh DUCK, tức con vịt. Thêm vào đó, tôi đến từ miền nam nước Pháp, ở đó có rất nhiều vịt, thậm chí rất nhiều món ăn làm từ vịt. Do vậy cái tên này có chút gì đó gợi nhớ đến quê hương của tôi. Còn tại sao xe bus lại tên là Marcel ? Tất cả đều có lý do. Chúng tôi là một công ty nhỏ muốn dẫn khách du lịch tại Paris, và chúng tôi muốn một cái tên tiếng Pháp, hơi cổ một chút, gợi lại nguồn gốc xa xưa của người Pháp, một cái tên nói về một Paris thời mộng mơ đối với một số người. Hơn nữa, cộng sự của tôi là Philippe Maillot, ông ấy đam mê đấm bốc và Marcel Cerdan là một võ sĩ đấm bốc nổi tiếng người Pháp trước Đệ Nhị Thế Chiến. Để tạo ra chiếc xe bus Marcel cũng cần phải có tinh thần chiến đấu. Cái tên Marcel vừa để tri ân đến võ sĩ này, vừa thể hiện tính hiếu chiến của chiếc xe”. Xe quân sự có nguồn gốc từ Đệ Nhị Thế ChiếnVề nguồn gốc của xe lội nước, GMC DUKW 353, theo Hiệp hội các nhà sưu tầm phương tiện quân sự (AFCVM), D : có nghĩa là 1942 – năm sản xuất; U : xe lội nước; K : tất cả các bánh xe đều dẫn động (motrice); W: hai hệ thống dẫn động ở phía sau. Xe lần đầu được thử nghiệm vào ngày 03/06/1942 ở Michigan Hoa Kỳ. Sau khi sản xuất 2000 chiếc đầu tiên, nhà sản xuất đã bổ sung thêm một hệ thống cho phép điều chỉnh áp suất của lốp xe, do vậy xe DUKW có thể thích ứng với mọi loại địa hình, cát, đầm lầy, đá. Phương tiện này được thiết kế để vận chuyển thiết bị thực phẩm hoặc binh lính từ những tàu lớn không thể cập bờ gần bãi biển. Một số xe còn được trang bị cần cẩu để bốc hàng. Xe lội nước Duck đã được sử dụng trong cuộc tấn công vào Pointe du Hoc, ngày 0/6/1944 để đổ bộ vào vùng Normandy ở Pháp. Ông Paul Michel cho biết, khi chiến tranh kết thúc, quân đội đã bán những chiếc xe này cho một số người dân, và họ đã biến đổi thành xe chở khách. Ở một số nước, loại xe có tuổi đời gần 100 năm này vẫn lưu hành, nhưng ở Pháp loại xe này không được thiết kế để chở khách và không đáp ứng các tiêu chuẩn của phương tiện đường bộ. Những loại xe cũ, khi di chuyển trên sông, nếu bị nước tạt vào thì phải dùng bơm để hút nước ra, điều này hoàn toàn bị cấm ở Pháp. Nhưng sau đó, loại xe này đã được cải tiến, như xe bus Marcel, hoàn toàn mới. Hai phần ba xe được sản xuất ở Pháp, động cơ và khung gầm được sản xuất ở Calvados và khu vực Lyon, còn thân của xe được đóng ở nước ngoài. Trước kỳ Thế Vận Hội 2024, Pháp có thể tiếp đón thêm hàng triệu du khách, Les Canards de Paris muốn trở thành một dịch vụ du lịch cạnh tranh với các dịch vụ khác ở Paris. Nhà sáng lập Paul Michel khẳng định : “Chúng tôi cho rằng dịch vụ của Les Canards de Paris khá khác lạ vì Paris thường trong tình trạng du lịch đại trà, thường du khách phải sử dụng autoguide - tự hướng dẫn. Cũng có những dịch vụ tư, nhưng khá đắt và không phải ai cũng đủ khả năng chi trả. Dịch vụ của chúng tôi thì nằm ở giữa, tức là không phải du lịch đại chúng, xe cũng chỉ chở được 30 người. Trong khi phần lớn các xe bus du lịch khác thì lớn hơn, còn các tàu du lịch thì có khi lên đến 1000 chỗ. Về giá, dịch vụ của chúng tôi đắt hơn các tàu tham quan, nhưng lại rẻ hơn các tàu tham quan tư nhân. Trên xe, chúng tôi có hướng dẫn viên, và họ thường tự hào về công việc của mình, họ có khiếu hài hước. Chúng tôi muốn gần gũi với du khách để kể cho họ câu chuyện về Paris xinh đẹp và vùng Hauts-de-Seine.” Công ty cũng đang nghiên cứu thiết kế một chiếc xe lội nước chạy hoàn toàn bằng điện, đáp ứng tiêu chuẩn về sinh thái, để trở thành chiếc xe lội nước sinh thái đầu tiên trên thế giới, với mục tiêu hoàn thành trước kỳ Thế Vận Hội 2024. Tuy nhiên mục tiêu này hiện khó khả thi vì cần phải được Tòa thị chính Paris cho phép sử dụng các trụ sạc điện, cần phải đi sâu vào trung tâm Paris. Hơn nữa, bình điện cho xe cũng khá nặng cho loại xe lội nước, do vậy cũng cần phải giảm thiểu trọng tải của bình điện, nhưng cũng cần bảo đảm đủ nhiên liệu cần thiết. Chiếc xe bus Marcel hiện nay cũng đã đáp ứng được một số tiêu chuẩn. Ví dụ như động cơ của xe là loại mới nhất, tuân thủ các tiêu chuẩn ô nhiễm của châu Âu. Vỏ xe được làm hoàn toàn bằng nhôm và có thể tái chế được. Trọng lượng của nhôm thấp hơn thép, nên trọng tải của xe cũng nhẹ hơn và ít tiêu thụ năng lượng hơn. Lượng khí thải CO2 được bù đắp bằng việc trồng cây ở vùng Doubs ở Pháp, thông qua một đối tác của công ty này. Hiện nay, hình thức du lịch bằng xe bus lội nước cũng có mặt ở nhiều nước châu Âu và trên thế giới, như ở Thụy Điển, Anh, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, hay Malaysia.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Thành danh trong làng nhạc Pháp cách đây hơn một thập niên, ca sĩ Rita Tabbakh sinh trưởng tại (vùng Québec) Canada trong một gia đình nhập cư người gốc Liban. Tại Pháp, gương mặt này khá quen thuộc với công chúng do cô từng thành công vào năm 2009 trong vở nhạc kịch ''Sheherazade: Một nghìn lẻ một đêm''. Trung thành với khán giả, Rita Tabbakh chuẩn bị trở lại trên sân khấu trong một vở nhạc kịch mới vào đầu mùa thu năm 2023. Được chuyển thể từ bộ phim cùng tên, vở nhạc kịch ''Gia đình Addams'' (La famille Addams / The Addams Family) ra mắt khán giả Montréal, Canada vào ngày 19/10 năm 2023 tại nhà hát Espace Saint Denis. Sau đêm khai mạc, tác phẩm này do đạo diễn René Simard dàn dựng sẽ được diễn cho đến đầu tháng Giêng năm 2024. Lần này, Rita Tabbakh đóng một trong những vai chính (vai Morticia) bên cạnh các giọng ca tài năng khác là Luc Guérin trong vai Gomez Addams và nhất là Alexandra Sicard (vai Mercredi/Wednesday), thành viên ''huyền thoại'' nhất trong một gia đình đầy nhân vật quái kiệt, từng là hiện tượng trên mạng Netflix nhờ loạt phim ''Wednesday'' Addams, phát hành cuối năm 2022, nhân mùa Halloween.Tuyển tập nhạc Pháp đầu tiên sau một thập niên sự nghiệp Sinh trưởng tại thành phố Montréal (Québec), Rita Tabbakh thời còn nhỏ bắt đầu học múa ballet (từ khi cô mới 5 tuổi), trước khi chuyển sang học nhạc. Được đào tạo bài bản qua trường lớp, cô tốt nghiệp khoa thanh nhạc tại trường đại học UQAM (Université du Québec à Montréal). Khi mới vào nghề cô đi hát phụ họa cho Jean Leloup nhân các vòng lưu diễn với một dàn nhạc big band của nghệ sĩ trứ danh này.Có thể nói nhạc kịch là thể loại sở trường của Rita Tabbakh, sau khi cô gặt hái được nhiều thành công nhờ đi chuyên về bộ môn này, đòi hỏi nơi người nghệ sĩ một chất giọng cũng như tài năng đóng kịch. Kể từ năm 2006, lần đầu tiên cô dấn thân vào sân khấu nhạc kịch cho tới thời gian gần đây, Rita Tabbakh đều biết nắm lấy cơ hội tỏa sáng, thu hút sự chú ý trong một đoàn diễn viên với nhiều tài năng chuyên nghiệp.Bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của cô, là khi Rita được chọn làm vai chính trong vở nhạc kịch ''Sheherazade : Một nghìn lẻ một đêm'' của ca sĩ kiêm tác giả người Pháp Félix Gray. Với hơn 150 buổi biểu diễn trên khắp vùng Québec cũng như tại Pháp, vở nhạc kịch đã thành công tại nhà hát Folies Bergères, từng được đề cử ở hạng mục ''show'' biểu diễn thành công nhất năm 2009. Cũng từ đó, Rita được công nhận là một trong những ngôi sao sáng trong lãnh vực nhạc kịch. Vào năm 2014, cô tham gia vòng giấu mặt và đạt đến vòng bán kết nhân cuộc thi hát La Voix (The Voice phiên bản tiếng Pháp).Làm sống lại trên sân khấu các giọng ca huyền thoạiTuy không đoạt giải nhất, nhưng phong cách diễn đạt biểu cảm duyên dáng và linh hoạt của Rita đã mở đường cho cô hợp tác với nhiều nghệ sĩ khác. Rita được mời tham gia các vở diễn và xuất hiện trong nhiều tác phẩm khác, kể cả Don Juan, Cabaret Burlesque, Jukebox và nhất là ''Les Immortels'' tạm dịch là ''Những giọng ca bất tử'' (phát hành năm 2022 của đạo diễn Joel Legendre). Trong vở kịch này, Rita cùng với 4 nghệ sĩ khác (Julie Massicotte, Philippe Berghella, Martin Giroux, David Thibault) làm sống lại 5 nhân vật huyền thoại của làng nhạc Pháp Édith Piaf, Dalida, Gilbert Bécaud, Joe Dassin và Johnny Hallyday.Rita Tabbakh hiện đang thực hiện một album gồm các sáng tác mới, dự kiến phát hành vào năm 2024, với sự tham gia của các nghệ sĩ trẻ như Catherine Major, Eli Rose, Fanny Bloom, Jeff Moran hay Alexandre Désilet. Bên cạnh đó, Rita còn mở lớp dạy thanh nhạc cho giới trẻ tại trường Collège Lionel-Groulx, trong một chương trình chuyên về sân khấu nhạc kịch.Trong giai đoạn chọn lựa các bản nhạc để rồi tái tạo trên sân khấu các giai điệu kinh điển của những giọng ca huyền thoại, Rita Tabbakh đã ghi âm một số bài hát mà cô cho là ưng ý, rồi kết hợp lại thành tuyển tập solo đầu tiên sau hơn 10 năm sự nghiệp. Mang tựa đề ''Dưới bầu trời Paris'', album này chủ yếu được phát hành trên mạng, phản ánh hơn nửa thế kỷ nhạc Pháp qua những giai điệu khó quên nhất trong tiếng Pháp.Tuy chất giọng có đủ nội lực để ''trị'' những bản nhạc rock dũng mãnh, nhưng Rita vẫn thích chọn lối hát mộc, nhẹ nhàng mà gần gũi. Các bản nhạc của Dalida, Aznavour, Sardou và nhất là bản ghi âm lại ''La Javanaise'' của Gainbourg (vào thời điểm khai mạc Bảo tàng ''Maison Gainsbourg'' tại Paris) nhờ vậy mà có thêm sức sống. Dù tham gia vào nhiều dự án mới, nhưng Rita hơn bao giờ hết vẫn trung thành với sàn diễn, nơi cô gửi gấm niềm đam mê đầu đời, cho dù ánh đèn sân khấu không phải lúc nào cũng được sáng ngời.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

“Paris, Rouen, Le Havre là cùng một thành phố còn sông Seine là phố chính”. Câu nói của Napoléon năm 1802 có lẽ đúng với các họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng (Impressionnisme), những người tìm thấy ở sông Seine nguồn cảm hứng vô tận. Họ bị coi là lập dị vì vẽ trực tiếp thiên nhiên, những con người bình dị. Tranh của họ bị coi thường vì không theo thể thống, phá vỡ mọi nguyên tắc. Không tìm được chỗ đứng trong hệ thống do Viện Hàn Lâm và Hành Chính Mỹ thuật chi phối, Cézanne, Degas, Guillaumin, Monet, Morisot, Pissarro, Renoir và 22 nghệ sĩ khác tự lập Société anonyme des artistes peintres, sculpteurs, graveurs... (Hội các nghệ sĩ họa sĩ, tạc, khắc vô danh…) và quyết định tổ chức triển lãm tự do, không có giám khảo, không giải thưởng. Triển lãm đầu tiên được tổ chức ở Paris năm 1874 trong xưởng của nhà nhiếp ảnh Nadar. Tổng cộng có tám triển lãm được tổ chức cho đến năm 1886. Tên gọi Ấn Tượng cũng bắt nguồn từ mỉa mai của tờ báo trào phúng Le Charivari về bức tranh Impression, soleil levant (Ấn tượng, mặt trời mọc, 1872) bên bờ cảng Le Havre của Monet. Cụm từ “ấn tượng” được thể hiện qua nét vẽ nhanh, nhiều mầu trên tác phẩm, miêu tả màn sương đang bốc hơi, phản chiếu sắc cam trên trời, dưới nước nhưng lại tạo cảm giác tác phẩm như còn dang dở trong mắt người đương thời. Từ bị dè bỉu, “Hội họa mới” thành Trường phái Ấn Tượng Khi bị chế nhạo như vậy, Monet, tác giả bức tranh lấy luôn tên “Impression” ghép với đuôi “-isme” - chỉ các “trường phái” hoặc “chủ nghĩa” - đang thịnh hành lúc đó để đặt tên cho phong trào Hội họa mới (Nouvelle peinture), xuất hiện từ những năm 1820. Trả lời RFI Tiếng Việt, bà Florence Calame-Levert, phụ trách về Nghệ thuật hiện đại và đương đại tại Liên hiệp các Bảo tàng thành phố Rouen, giải thích thêm về nguồn gốc của trường phái Ấn Tượng : “Không phải phất chiếc đũa thần là ra được trường phái Ấn Tượng. Đó là một quá trình được hình thành từ lâu. Vào cuối thế kỷ 18, nhiều họa sĩ, như Hubert Robert hay Pierre-Henri de Valenciennes, có sở thích đặc biệt là vẽ ngoài trời. Ý là chặng dừng chân bắt buộc trong thời gian trau dồi để trở thành họa sĩ. Rất nhiều người đã tranh thủ chuyến đi để vẽ ngoài trời. Có thể thấy xu hướng đã nhen nhóm dù công luận chưa hào hứng hẳn bởi vì những tác phẩm được giới thiệu tại các phòng tranh vẫn là những tác phẩm chủ yếu được vẽ ở xưởng, tuân theo những nguyên tắc hội họa truyền thống và cổ điển. Trường phái Ấn Tượng đặc trưng cho việc dùng hình ảnh miêu tả ánh sáng, sự biến chuyển của ánh sáng ngoài trời, với bầu không khí. Vùng Normandie là địa điểm được yêu thích do gần với biển, gần với sông Seine nên thời tiết ở đây luôn thay đổi và chất lượng ánh sáng đặc biệt thu hút những họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng”. Sông Seine - nhân vật chính của "Hội họa mới" Trong sự “phá cách” đó, dòng sông Seine là nguồn ý tưởng vô tận cho các họa sĩ trẻ và trở thành “Sông Seine của các họa sĩ Ấn Tượng”. Cảnh vật thay đổi theo bốn mùa, bầu trời lúc mưa lúc nắng, dòng nước như tấm gương phản chiếu, luôn thay đổi. Bà Florence Calame-Levert giải thích tiếp : “Ánh sáng, rồi việc lột tả được ánh sáng đó, là điều gì đó quyến rũ các họa sĩ. Sự phản chiếu của sông Seine và quang cảnh được Claude Monet thể hiện trong một tác phẩm năm 1914, được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Rouen. Do đến sống bên bờ sông Seine nhiều lần, Monet đã tái hiện dòng sông dưới nhiều góc ánh sáng khác nhau nhờ vào đặc tính biến đổi của không khí. Đó là một chủ đề lôi cuốn và vô tận. Sông Seine phủ mây mù tùy theo mùa. Rồi tùy theo giờ trong ngày, bầu trời có thể mang sắc xanh hay xám, sông Seine tái hiện được hết. Khu vực được gọi là Hạ lưu sông Seine (Seine-Inférieure, tên gọi hiện nay là Seine maritime) có cả sông và biển nên quang cảnh thường xuyên thay đổi, bởi vì dưới tác động của thủy triều, mây và gió đến rồi đi nên bầu trời liên tục chuyển động, khiến cảnh quan liên tục thay đổi trong ngày và quanh năm. Đối với các họa sĩ Ấn Tượng, đó là một bộ sưu tập hiện tượng thiên nhiên, ánh sáng vô tận. Trước biển, trước dòng sông Seine đầy sắc thái, đó không hẳn là một kiểu quang cảnh biển, mà là quang cảnh của một cửa sông lớn”. Những họa sĩ trẻ Ấn Tượng còn bị coi là “gàn” khi đưa vào tranh của họ hình ảnh khói nhả ra từ nhà máy, hoạt động trên các bãi cảng, những công nhân bốc vác ăn mặc xuề xòa, trái hẳn với vẻ sang trọng, uy nghiêm của những nhân vật trong hội họa cổ điển. Cũng nhờ đường sắt phát triển nên Rouen và Le Havre không còn xa Paris. Cả hai thành phố đều nổi tiếng với hoạt động công nghiệp, hải cảng giao thương, cơ sở hạ tầng phát triển và đặc biệt là nằm ngay bên bờ sông Seine. “Tôi nghĩ có một sự tương hợp vì có rất nhiều họa sĩ Ấn Tượng đã đến Rouen, như Gauguin, Sisley, Pissarro… những người sau này có ảnh hưởng trực tiếp đến trường phái Rouen. Họ đến vì nhiều lý do khác nhau, vì Rouen có nhiều nhà sưu tập, mạnh thường quân, rồi vì Claude Monet sống ở Giverny, cách đây không xa lắm, và bởi vì phải nói Rouen là một thành phố đẹp, nằm ngay bên bờ sông Seine trong thung lũng xanh mướt mắt. Ngoài ra Rouen còn là nơi dừng chân, gặp gỡ, trao đổi và ngắm cảnh vật thay đổi dọc bờ sông Seine. Nhưng phải nói điểm đến cuối cùng là Le Havre bởi vì ở thành phố cảng cũng có rất nhiều hoạt động liên quan đến hội họa. Giới sưu tập ở đó có khuynh hướng xã hội hơi khác một chút. Nói tóm lại, về trường phái Ấn Tượng, có hai cực là Rouen và Le Havre có sức hấp dẫn đối với các họa sĩ theo phong cách này”. Sức hút của dòng sông Seine được Bảo tàng Mỹ Thuật Rouen thể hiện cô đọng nhưng rất đầy đủ trong sơ đồ địa danh dọc dòng sông gắn liền với tên tuổi của các họa sĩ Ấn Tượng, từ Moret sur Loing hay Grez-sur-Loing trên dòng sông Marne đổ vào sông Seine, đến Charenton, Meudon, Chatou, Giverny, Vernon, Rouen… đổ ra cửa sông ở Le Havre. “Sông Seine cũng là một nguồn sống, nhộn nhịp hoạt động của con người. Các họa sĩ đến vẽ dọc dòng sông Seine đơn giản là vì họ tìm được chỗ trú chân ở những thành phố lớn như Rouen, nơi cũng có hoạt động công nghiệp, hoặc Le Havre nằm ở cửa sông Seine, và hai thành phố này không xa nhau lắm, chỉ khoảng 60 km. Nhưng cũng vì dòng sông Seine quanh co tạo nên những quang cảnh khác nhau, với những ngôi làng thường xuyên được các họa sĩ lui tới và thể hiện trên những phẩm của họ, như La Bouille rất đẹp, cách Rouen không xa, chỉ cần đi phà qua sông. Bên dòng sông uốn lượn vừa có cảnh đẹp nhưng cũng tạo cảm giác như được phiêu lưu”. Rouen trong dòng sáng tác các họa sĩ Ấn Tượng Rouen có vị trí đặc biệt đối với danh họa Claude Monet, người đặt tên “Trường phái Ấn Tượng” cho dòng “tranh mới”. Đến Rouen nhiều lần, vẽ Rouen từ nhiều góc, Claude Monet có ấn tượng đặc biệt với Nhà thờ lớn Rouen (Cathédrale de Rouen) và được họa sĩ Giverny thể trong một loạt tranh gắn liền với tên tuổi của ông. Bà Florence Calame-Levert giải thích : “Loạt tranh về Nhà thờ lớn có ý nghĩa quan trọng. Lúc đó, vẽ tranh theo loạt (série) cũng nằm trong sự đổi mới đó. Trước loạt tranh về nhà thờ lớn, có rất nhiều chủ đề khác, như các cối xay gió, nhà ga Saint-Lazare… Chính Monet là người nảy ra ý tưởng vẽ loạt tranh về Nhà thờ lớn Rouen. Ông tới Rouen hai lần liên tiếp. François Depeaux là người cho Monet mượn căn hộ nhỏ để làm xưởng vẽ ngay đối diện Nhà thờ lớn để họa sĩ làm việc. Năm 1915, tác phẩm được giới thiệu tại galerie Paul Durand-Ruel và François Depeaux là người đầu tiên mua một bức trong loạt tranh về cánh cổng Nhà thờ lớn Rouen. Đó là bức La Cathédrale de Rouen - temps gris (Nhà thờ lớn Rouen - Lúc trời âm u), hiện được trưng bày trong Bảo tàng Mỹ Thuật Rouen. Trong tác phẩm này, chúng ta thấy những nét sáng, trong nền hồng, vàng, xanh dương. François Depeaux đã chọn bức tranh đặc trưng nhất cho mảnh đất của chúng tôi : Khi mưa phùn, người ta có cảm giác là những viên đá của nhà thờ hòa lẫn trong sương mù. Mỗi một mét vuông hòn đá của nhà thờ trở thành chất phát sáng trong cơn mưa phùn với tiết trời xám đó. Claude Monet đã làm được điều tuyệt vời. Trong khi người ta vẫn cứ nghĩ là ánh sáng và trời đẹp vẫn thú vị hơn là mưa phùn và trời âm u. Tác phẩm là bằng chứng thực sự cho thấy điều ngược lại”. Thành phố công nghiệp còn nổi tiếng với các mạnh thường quân. Léon Monet (1836-1917), anh trai của Claude Monet, là nhà công nghiệp trong ngành hóa chất, sản xuất mầu và cũng là nhà sưu tập có ảnh hưởng rất lớn đến giới quý tộc Rouen giầu có và chuộng hiện đại. Trong số này có Francois Depaux (1853-1920), một trong những người chịu ảnh hưởng từ Léon Monet, được mệnh danh là “người có 600 bức tranh” : 62 của Sisley, 23 Monet, 9 Pissarro, nhiều bức của Renoir và Toulouse-Lautrec…“Đó là những người có tầm nhìn xa trông rộng. Họ không phải là trí thức mà là doanh nhân có xu hướng hiện đại. Họ cởi mở với thế giới, làm việc trên cảng biển, giao thương với bên ngoài. François Depeaux là nhà khai thác than, có nghĩa là ông cũng có tầu thuyền nhập khẩu than. Việc François Depeaux quan tâm đến tranh theo trường phái Ấn Tượng có gì đó mang tính tiên phong bởi vì vào thời kỳ đó, tranh của các họa sĩ Ấn Tượng không được trưng bày trong bảo tàng… Nhưng ngoài yếu tố sưu tập cho chính mình, họ còn hỗ trợ cho các nghệ sĩ và sau này, một số nhà sưu tập, như François Depeaux, còn tặng lại bảo tàng bộ sưu tập cho thành phố Rouen, phục vụ công chúng. Họ đi theo hướng bảo trợ. Họ giúp công việc của các nghệ sĩ có thể thành công, họ chấp nhận rủi ro ở một mức độ nhất định, mặc dù vào thời điểm đó, Monet đã là một họa sĩ nổi tiếng. Nhưng dù sao, họ chi tiền để tạo điều kiện cho các nghệ sĩ làm việc”. Rời khỏi bảo tàng Mỹ Thuật Rouen trở lại thực tại, khách tham quan như cảm nhận thời gian ngừng trôi giữa những tác phẩm được trưng bày trong bảo tàng với dòng sông Seine vẫn uốn lượn chảy qua thành phố, hay với Nhà thờ lớn Rouen vẫn uy nghiêm ở đó.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

« Dẫu biết rằng trong mấy mươi năm hễ ở đâu có Sơn và tiếng hát của Sơn thì cái vòng này càng nới rộng ra, như những làn sóng, khởi đầu từ một điểm xoáy nơi nào đó. Ở nơi điểm xoáy sâu nhất của sông Hương - là vùng tâm tư của những người bạn đang tuổi thanh xuân - ngồi yên, ít lời, đôi môi mỏng thoáng nụ cười, mi mắt chớp sau gọng kính trên chiếc mũi thanh lắng nghe những nổi sôi, những phiền muộn quanh mình, như lắng nghe chính con tim mình (…) tôi xin gọi là - Vùng ưu tư của Huế những năm 1960 » (Thái Kim Lan, Nơi vùng ưu tư thành tiếng du ca) RFI Tiếng Việt : Kính chào cô Thái Kim Lan, trước tiên tạp chí âm nhạc đài phát thanh RFI rất cám ơn cô vì buổi trò chuyện hôm nay. Được biết sau bao nhiêu năm sinh sống và giảng dạy tại Đức với vai trò là giáo sư triết học, giờ cô quay về Huế hoạt động văn hóa trong vai trò là người sáng lập Lan Viên cổ tích, bảo tàng gốm cổ Sông Hương, nơi đây cũng trở thành điểm hẹn của nhiều văn nghệ sỹ và người yêu mến nhạc Trịnh. Mối nhân duyên bạn bè của cô với cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn là như thế nào ?Thái Kim Lan : Trước tiên tôi xin chào tất cả , và chào em Hoài Dịu. Tôi là bạn cũ của anh Trịnh Công Sơn từ những năm thập niên 60. Cho đến khi anh Trịnh Công Sơn mất thì chúng tôi vẫn liên lạc với nhau. Tôi cũng là một trong những người đã được anh Sơn tâm sự nhiều lần về nhân sinh quan của anh, cũng như là về triết học, văn học nghệ thuật trong quãng thời gian trước và sau năm 1975.Trong tuyển tập « Một Cõi Trịnh Công Sơn » do Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến chủ biên, cô đã gọi cái vòng bạn bè giữa cô, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và những học giả khác là « Vùng ưu tư của Huế những năm 1960 », thính giả RFI rất tò mò về điều này, xin cô giải thích thêm. Thái Kim Lan : Khoảng thập niên 60, chúng tôi còn rất trẻ. Chúng tôi lúc ấy là một nhóm sinh viên bạn bè với nhau. Ở Huế, thì người ta có thói quen là bạn bè hay gặp nhau, và thường là trò chuyện về những cuốn sách của mình đã đọc và giới thiệu cho bạn mình đọc để cùng nhau chia sẻ và trao đổi những ý tưởng trong cuốn sách đó.Như vậy chúng tôi đã trao đổi những thao thức của mình về tuổi trẻ, về thời đại, về đất nước Việt Nam, về hoài vọng của mình, làm thế nào để có thể trau dồi trí thức, để sau này có thể giúp nước. Đó là những hoài vọng của tuổi trẻ cũng như mơ ước có thể phiêu lưu đến những chân trời xa lạ của tư tưởng.Dạo đó thì chúng tôi chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng Âu Châu, về triết học, cũng như về văn học nghệ thuật. Jean-Paul Sartre, Heidegger, Hegel, ngay cả Mac chúng tôi đều đọc qua và đã đưa ra những vấn đề về tri thức luận cũng như là những vấn đề về tôn giáo, về thiền học. Qua đó tôi nhận thấy anh Trịnh Công Sơn rất chuyên chú để nghe chúng tôi bàn cãi và thảo luận. Anh Sơn ít nói, nhưng anh lắng nghe. Và tôi rất làm ngạc nhiên như tôi đã viết ở trong bài « tưởng nhớ Trịnh Công Sơn » (…)Trong nhạc Trịnh, mỗi lời hát, mỗi ca khúc theo cách dùng từ của cô là thường mang một « công án » về cuộc đời, về những triết lý sâu xa, lạ một điều là không những giới tri thức mà cả những người lao động ai cũng mê. Ví dụ như hình ảnh « đá lăn », « vết lăn trầm » hay những lời hát lạ lẫm « không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên », đâu phải ai cũng thật sự hiểu hết ý nghĩa của nó, thế nhưng người ta vẫn cứ nghêu ngao như hát đồng dao khắp phố vậy. Dưới góc nhìn của một giáo sư triết học, cô nghĩ thế nào về hiện tượng này ?Thái Kim Lan : Đúng rồi, đây là sự mầu nhiệm của nhạc Trịnh Công Sơn, ca từ của anh đi đôi với âm điệu, với nhạc điệu, với nhịp đập, có thể nói là nhịp đập của trái tim. Thành thử, những ca từ như là « vết lăng trầm » có thể không ai hiểu, những người đơn giản không có hiểu nhưng mà họ lại hiểu. Vì nếu khi họ cất tiếng hát, thì họ thấy cái lãng đãng, cái hư vô, cái đồng cảm ngay ở trong những ca từ như vậy. Nó nằm ngay trong tiếng hát hay là lời than, lời reo hay lời ru trong nhạc của Trịnh Công Sơn.Thành thử, cái thành công của anh dĩ nhiên không phải chỉ ở trong ca từ mà chính là khúc hát của anh nó hợp với ca từ ấy. Ngôn ngữ và âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã hòa quyện với nhau. Chính cái tính cách rất dễ hát của nhạc Trịnh Công Sơn lại phối hợp được với cái triết lý cao siêu của Trịnh Công Sơn.Đó là một sự phối hợp thiên tài. Chính cái huyền diệu của âm thanh, điệu nhạc, nó đơn giản như vậy, dễ hát như vậy, hóa ra những chữ cao siêu nhất lại trở thành ca dao. Nó trở thành những cái gì rất dễ dàng, và người ta không cần phải hiểu theo kiểu triết lý, nhưng người ta hiểu theo cái nhịp đập con tim của mình.Thật ra ở trong tất cả các bài ca của Trịnh Công Sơn, lời từ của anh đều phảng phất cái tinh thần, cái suy nghiệm về triết học mà tôi cho đó là một đặc điểm ở trong ca từ của Trịnh Công Sơn. Anh nói về hư vô, anh nói về hiện sinh, về nỗi buồn, về sự lo âu. Ngay cả khi anh nói về sự phản bội hay là khi anh nói về tình yêu thì tất cả đều có một chút triết lý ở đằng sau.Ngay cả bài ca « Đóa Hoa Vô Thường », chúng ta thấy tư tưởng hiện sinh và triết học Phật giáo rất rõ rệt ở trong lời ca của anh. Và ngay cả tính mâu thuẫn và tính phi lý của lời ca, có nhiều cái người ra không hiểu Trịnh Công Sơn nói gì nhưng mà thật ra chính cái phi lý này cũng là một trong những đặc điểm của thiền học mà anh đã trải nghiệm. Tôi cho rằng Trịnh Công Sơn là một trong những người trải nghiệm về thiền học cũng như Phật giáo rất sâu đậm. Ca khúc nào đã gợi nhớ về kỷ niệm của cô và nhạc sỹ Trịnh Công Sơn ?Thái Kim Lan : Ca khúc « Nhìn Những Mùa Thu Đi » và « Diễm Xưa » là hai bài hát mà Trịnh Công Sơn thường hát khi chúng tôi gặp nhau và ngay cả khoảng thời gian mà chúng tôi xao xuyến về những vấn đề đất nước hay là những vấn đề hoài niệm, khát vọng, tương lai thì những lúc đó « Nhìn Những Mùa Thu Đi » lại được hát nhiều nhất bởi vì ở trong đó có một chút buồn bã của Huế. Nhưng mà cái buồn bã của Huế này nó lại mang đậm tính chất con người, chủ thể, hiện sinh, một cái gì đó riêng tư mà khi bộc lộ ra, thì nó trở thành sự ưu tư chung của tất cả mọi người. Bởi vậy, tôi mới dùng cụm từ « vùng ưu tư » khi nói chuyện về âm nhạc của Trịnh Công Sơn.Diễm Xưa được hát, bởi vì Diễm Xưa bắt đầu bằng một cơn mưa. Diễm Xưa được vũ trụ hóa, được Huế hóa, và vũ trụ của Huế nó mang Diễm đi khắp các vùng trời. Thành thử, trong bài hát này, chúng ta thấy hoàn toàn phong cảnh của Huế, cơn mưa của Huế, những con đường xa vắng của Huế, những con đường đầy lá rụng của Huế, dòng sông chìm đắm trong cơn mưa, trong nỗi nhớ và chiếc cầu cũng mang một nỗi hoài vọng của sự gặp nhau một lần nào đó sau cơn mưa.Tất cả những cái đó, có thể nói là nỗi lòng của một người Huế. Bởi vậy Diễm Xưa không chỉ là riêng tư trong tình yêu. Câu cuối cùng của bản nhạc là « Sỏi đá cũng cần có nhau », ở đây tính cách riêng tư và tính cách chung trở thành một con đường, một thứ đạo. Một thứ đạo mà người Huế nào cũng có thể cảm nhận được.Là chủ nhân của Lan Viên Cổ Tích, nơi vừa là bảo tàng cổ vật Sông Hương tại Huế do cô sáng lập, vừa là nơi cô đứng ra tổ chức những đêm nhạc, triển lãm về người bạn của cô, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, cô có thể kể nói rõ hơn về những hoạt động này của Lan Viên Cổ Tích không ạ ?Thái Kim Lan : Lắm khi sự mỏi mệt của thời gian cũng như sự mỏi mệt của yếu tố bên ngoài làm cho con người chỉ còn ngồi hát vu vơ. Nhưng mà cái vu vơ này có thể biến thành những tác phẩm. Và Trịnh Công Sơn là một trong những thí dụ rất điển hình.Và chúng tôi đã hát Trịnh Công Sơn suốt : nhóm Du Ca của Trần Mạnh Tuấn, của Tấn Sơn, của Phạm Đức Tuấn, rất là nhiều ca sỹ đã đến đây. Ngay cả những người con xứ Huế, những người thế hệ chúng tôi cũng như thế hệ trẻ luôn có dịp đến đây hát nhạc Trịnh. Gần đây chúng tôi và nhiếp ảnh gia Dương Minh Long đã có tổ chức triển lãm ảnh mang tên « Trịnh Công Sơn - Lần đầu gặp lại » tại Lan Viên Cổ Tích. Tôi thấy rằng chưa có một cuộc triển lãm nào đẹp như vậy trong khu vườn này, chúng tôi : anh Dương Minh Long, chị Trịnh Vĩnh Trinh, chị Trịnh Hoàng Diệu và tôi đều đồng ý rằng Lan Viên Cổ Tích là một địa chỉ thích hợp nhất để gợi nhớ « 30 năm gặp lại Trịnh Công Sơn ».RFI Tiếng Việt xin trân trọng cám ơn cô Thái Kim Lan.**********Chú thích: "Vùng ưu tư của Huế những năm 1960", được lấy cảm hứng từ bài viết có tựa đề "Trịnh Công Sơn, nơi vùng ưu tư thành tiếng du ca" của bà Thái Kim Lan, đăng trong bộ tuyển tập "Một cõi Trịnh Công Sơn" do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Hiến chủ biên.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Tập nhạc có ghi số "2bis" là album phòng thu thứ 21 của Florent Pagny vừa được phát hành hồi đầu tháng 09/2023. Bao gồm 20 bài song ca với các nghệ sĩ tên tuổi ăn khách hiện thời, tuyển tập này đánh dấu ngày Florent Pagny xuất hiện trở lại dưới ánh đèn sân khấu sau hai năm trị bệnh ung thư. Cuối năm 2021, danh ca người Pháp Florent Pagny buộc phải nhập viện điều trị sau khi bác sĩ chẩn đoán ông mắc bệnh ung thư phổi. Trong gần hai năm sau đó, nam ca sĩ đã trải qua ba lần hóa trị : mọi hoạt động nghệ thuật lúc bấy giờ đều bị đình chỉ, kể cả vòng lưu diễn mừng sinh nhật 60 tuổi. Theo dự kiến ban đầu, Florent Pagny kết thúc vòng lưu diễn tại nhà hát La Seine Musicale ở vùng ngoại ô Paris. Trong đêm bế mạc, ông dự trù mời đa số bạn bè thân hữu lên hát chung trên sân khấu. Rốt cuộc, mọi kế hoạch đều đã bị hủy bỏ. Mãi đến gần hai năm sau đợt điều trị đầu tiên, khi nam danh ca đã cảm thấy hồi phục được sức khỏe, giọng ca tìm lại được phong độ, lúc ấy Florent Pagny mới triệu mời một lần nữa giới đồng nghiệp và thân hữu tham gia vào một chương trình đặc biệt, được phát sóng trên kênh truyền hình trong tuần qua.Quá trình thực hiện album song ca ''2bis''Chương trình biểu diễn gây quỹ từ thiện này đã đặt nền tảng cho album có ghi tựa đề số "2 bis". Hầu hết các nghệ sĩ nổi tiếng trong làng nhạc Pháp hiện thời đều đã nhận lời tham gia, để bày tỏ lòng quý mến của họ với nam danh ca. Các bản nhạc ghi âm ở đây phản ánh 35 năm sự nghiệp của Florent Pagny từ bản ghi âm đầu tay vào năm 1988 cho đến nhạc phẩm gần đây nhất phát hành vào năm 2023. Đây là lần thứ nhì danh ca người Pháp thực hiện một album song ca. Lần đầu tiên là cách đây đúng 22 năm, album mang tựa đề số ‘‘2'' (hàm ý kết hợp hai giọng hát hơn là cặp bài trùng).Còn lần này, Florent Pagny trở lại với một ‘'đội ngũ'' hùng hậu. Đa phần khách mời là nghệ sĩ Pháp, bên cạnh đó, còn có 4 tên tuổi ăn khách ở nước ngoài như trường hợp của diễn viên kiêm ca sĩ người Argentina Diego Torres, nghệ sĩ Raul Paz đến từ Cuba, diva nhạc pop Lara Fabian người Bỉ gốc Ý lập nghiệp ở Canada hay Anggun ca sĩ trứ danh người Indonesia, định cư ở Paris sau khi lập gia đình tại Pháp.Album ‘'2bis'' được chia thành hai mảng. Mảng thứ nhất gồm khoảng 14 bản nhạc nguyên tác đánh dấu sự hợp tác của Florent Pagny với các ca sĩ kiêm tác giả như Calogero, Pascal Obispo, họ đều là những nghệ sĩ nổi danh cùng thời với nhau (trong ba thập niên từ 1990 đến 2010). Điều đó giải thích vì sao Florent Pagny khi ghi âm lại dưới dạng song ca, không mời người khác mà lại chọn đúng các tác giả của các bản nhạc, từng làm nên tên tuổi của ông : "Savoir aimer", "Châtelet les Halles" hay "Et un jour une femme" …..Chất giọng baryton : từ Nessun Dorma đến Caruso Mảng thứ nhì tuy chỉ có 6 bài hát (tức một phần ba album) nhưng lại quan trọng không kém vì các bản ghi âm này cho thấy cài tài hát cover của Florent Pagny. Trước khi thoát khỏi cái bóng của những gốc đại thụ, mỗi nghệ sĩ thường "lớn lên" với nhiều ảnh hưởng của các bậc đàn anh. Nơi Florent Pagny, giới yêu nhạc tìm thấy cách hát ‘‘đùa nhịp'' của Jacques Brel (Vesoul), lối diễn đạt dũng mãnh đầy nội lực của Johnny Hallyday (Je te promets). Trong mảng thứ nhì của album, một trong những bản song ca đạt nhất là bài ‘'Et Maintenant'' của Gilbert Bécaud do Florent Pagny ghi âm với Lara Fabian.20 bài hát dường như chưa đủ để phản ánh nét đa dạng trong sự nghiệp ghi âm của Florent Pagny. Sau khi lấy vợ người Argentina, nam danh ca đã dọn về sinh sống ở vùng Patagonia hoang sơ, ông chỉ về Pháp khi có hợp đồng ghi âm và biểu diễn. Ngoại trừ một ca khúc tiếng Tây Ban Nha (ghi âm với Raul Paz), tuyển tập ''2bis'' chưa bộc lộ được hết sở trường hát nhạc La Tinh của ông. Ngược lại các ca khúc tiếng Ý, trong đó có giai điệu ‘'Caruso'' ghi âm lại với Patrick Fiori, (bài này từng được tác giả Diệu Hương phóng tác sang tiếng Việt thành nhạc phẩm ''Tình Vọng'') cho thấy Florent Pagny dần tìm lại làn hơi khỏe khoắn.Cũng may cho nam danh ca là đợt hóa trị đã không làm hỏng chất giọng baryton của ông. Nhờ làn hơi đầy đặn thiên phú, Florent Pagny đôi khi có thể đạt những nốt cao của một giọng ca tenor, giúp cho giọng ca này diễn đạt tới nơi tới chốn các giai điệu thính phòng như Nessun Dorma, cũng như các nhạc phẩm kinh điển như bài "Comme d'habitude" (My Way) ghi âm với M. Pokora. Trong tiếng Việt, bài này từng được tác giả Nam Lộc đặt lời thành bản nhạc "Dòng đời''.... Dù rằng phải chờ đợi thêm nhiều năm nữa để biết mình có thực sự tai qua nạn khỏi, nhưng cũng như Florent Pagny từng nói (nhạc phẩm ''Gracias à la vida''), sự kiện nam danh ca còn dịp tái ngộ giới hâm mộ, chẳng khác gì một món quá vô giá của cuộc đời.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Có những khác biệt nào trong tư tưởng của vua Duy Tân với phe ông Hồ Chí Minh về một nước Việt Nam độc lập ? Có những điểm tương đồng nào giữa hoàng thân Vĩnh San với lãnh đạo Chính Phủ Lâm Thời của Pháp Charles de Gaulle về tương lai Đông Dương ? Độc giả có thể tìm thấy câu trả lời trong Duy Tan un empereur dans la France libre - Duy Tân, vị hoàng đế trong nước Pháp tự do, NBX Perrin sử gia François Joyaux vừa cho phát hành vào tháng 6/2023. François Joyaux là tác giả của khoảng một chục công trình nghiên cứu về Đông Dương, về Trung Quốc và quan hệ quốc tế tại Châu Á : La Chine et le règlement du premier conflit d'Indochine (Genève, 1954) –Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (Genève, 1954), phát hành năm 1979 – Publications de la Sorbonne. Gần đây nhất ông cho xuất bản Nouvelle histoire de l'Indochine française – Chuyện mới về Đông Dương thời Pháp thuộc – NXB Perrin.*****Một cái nhìn khác Đã có không ít nhà yêu nước Việt Nam quan niệm « không nhất thiết phải đấu tranh bằng bạo lực » để giải phóng Đông Dương khỏi ách đô hộ của Pháp. Trường phái này đã chẳng tồn tại được trước « cơn lốc xoáy cộng sản » (tr. 12). Với vỏn vẹn 9 năm trên ngai vàng từ khi lên 7 tuổi - được chính quyền Pháp thuộc phong chức hoàng đế An Nam, và ngót 30 năm lưu vong, giành độc lập cho quê hương luôn là kim chỉ nam trong suốt cuộc đời vua Duy Tân. Vị hoàng đế An Nam này đã có một cái nhìn khác, một ý tưởng khác về công cuộc đấu tranh đó.Động lực nào khiến hoàng thân Vĩnh San bị chính quyền thuộc địa đày sang đảo Réunion sau cuộc khởi nghĩa bất thành năm 1916, gia nhập quân đội Pháp chống Đức Quốc Xã, tham gia phong trào kháng chiến La France Libre - Nước Pháp Tự Do của tướng de Gaulle, xin nhập tịch Pháp và cuối cùng đã cho khắc hàng chữ « Tôi ý thức là đã phục vụ nước Pháp như phục vụ chính đất nước tôi » (tr. 11 và 194) trên mộ bia của ông ở nghĩa trang M'Baiki-Cộng Hòa Trung Phi ?Trích dẫn rất nhiều tài liệu thuộc trung tâm Lưu Trữ Quốc Gia Hải Ngoại của Pháp -ANOM, căn cứ vào hồi ký của các nhân vật liên quan, từ cả phía Pháp lẫn Việt Nam, vào các công trình nghiên cứu của giới chuyên gia quốc tế, giáo sư Joyaux lần lượt trả lời các câu hỏi trên. 10 % trong số hơn 300 trang sách được tác giả giành cho các phần chú thích, trích dẫn nguồn để minh chứng cho tất cả những đánh giá của ông về hoàng đế Duy Tân-hoàng thân Vĩnh San.Cuộc đời bất hạnhSinh ra tại Huế, nhà vua thứ 11 trong triều đình nhà Nguyễn trị vì từ 1907 đến 1916. Phần còn lại của cuộc đời, Duy Tân sống lưu đày ở đảo Réunion, vùng Ấn Độ Dương. Tử vong trong một tai nạn máy bay tại châu Phi khi trên đường từ Pháp trở về đảo Réunion gặp lại vợ con trước « một chuyến đi xa », hoàng thân Vĩnh San được an táng tại nghĩa trang công giáo M'Baika, cách thủ đô nước Cộng Hòa Trung Phi hơn 100 cây số. Mất thêm hơn 40 năm nữa, mãi đến năm 1987, hài cốt của ông mới được đưa về cố đô Huế.Duy Tân, vị hoàng đế trong nước Pháp tự do bao gồm 11 chương, mở ra với bối cảnh chính quyền bảo hộ đã khó nhọc tìm người thay thế vua Thành Thái. Cuốn tiểu sử mới nhất về vua Duy Tân khép lại với những ngày tháng tiếp theo vụ tai nạn máy bay cướp đi sinh mạng của hoàng thân Vĩnh San ở mãi tận châu Phi, đúng 12 ngày sau cuộc gặp lịch sử giữa cựu hoàng An Nam và người đứng đầu chính phủ lâm thời của Pháp, Charles de Gaulle.Thực ra trong sáu chương đầu, những chi tiết trong sách về vua Duy Tân đã được nhắc đến nhiều : cuộc nổi dậy bất thành với phong trào Việt Nam Quang Phục Hội – (sử sách Việt Nam nói đến cuộc khởi nghĩa, nhưng giới chuyên gia Pháp gọi đấy là một cuộc nổi dậy), những năm tháng lưu đày và chật vật ở đảo Réunion, ông bị từ chối khi xin sang Pháp định cư, rồi từ đảo Réunion tham gia phong trào kháng chiến để giải phóng nước Pháp khỏi ách Đức Quốc Xã. Cựu hoàng An Nam trông thấy ở Charles de Gaulle một tấm gương cứu nước sau lời kêu gọi thành lập lực lượng kháng chiến La France Libre ngày 18/06/1940 từ Luân Đôn. Từ Di chúc chính trị đến cương lĩnh chính trị hành động của vua Duy Tân Từ Chương thứ 7 trở đi, giáo sư Joyaux đi sâu vào kế hoạch « thầm kín » của Pháp để chinh phục lại Đông Dương, vào « giải pháp Vĩnh San nhìn từ Đông Dương » vào « Di chúc chính trị » của vua Duy Tân và cái chết của ông « chưa là dấu chấm hết » trong chương cuối cùng, « Post mortem ».Do một sự tình cờ, ba năm trước khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, con rể tương lai của lãnh đạo phong trào kháng chiến Giải phóng nước Pháp, de Gaulle là Alain de Boissieu đã hiểu rằng Vĩnh San « có thể giúp ích cho chính sách Đông Dương của Pháp sau này và ông đã lập tức báo cáo lại với de Gaulle (…) Chỉ đến khoảng tháng 3/1945 tướng de Gaulle mới bắt đầu có những ý định cụ thể và thậm chí là bắt đầu thu xếp để đưa hoàng thân Vĩnh San trở lại ngai vàng trên xứ An Nam » (tr. 182-183).Từ đầu tháng 3/1945 Đông Dương trong tay quân đội Nhật. Thủ đô Tokyo liên tục bị đồng minh oanh kích. Mỹ đã chiếm được Okinwa nhưng chiến tranh tiếp diễn ở Viễn Đông. « De Gaulle phải đối mặt với một tình huống hoàn toàn mới mẻ ở Đông Dương : đương nhiên đấy là thời cơ để hoàng thân (Vĩnh San) hành động » (tr. 199).Một khi « Giải pháp Vĩnh San » bắt đầu định hình, chính de Gaulle đã can thiệp vua Duy Tân mới được đặt chân lên « chính quốc ». Trên đường từ đảo Réunion đến Paris, nhà vua đã thảo di chúc chính trị (viết bằng tiếng Pháp) và văn bản đã được đăng trên nhật báo Le Combat ngày 16/07/1945. Bắt đầu từ trang 190, nhà sử học François Joyaux trích dẫn, đối chiếu quan điểm về Đông Dương của Duy Tân (bản Di chúc chính trị) và của tướng de Gaulle (qua tuyên bố ngày 24/03/1945). Ông đã đưa ra những đánh giá như sau : « Di chúc chính trị, hết sức quan trọng để nắm bắt những ý tưởng của hoàng thân Vĩnh San về tương lai đất nước ông ». Điều ngạc nhiên là tài liệu ấy « được rập khuôn một cách khá trung thành theo chính sách thuộc địa truyền thống nhất của Pháp » (tr. 191). Di chúc chính trị của vua Duy liên quan đến « toàn bộ Đông Dương, tức bao gồm luôn cả Lào và Cam Bốt » đó là vùng « Đông Dương thuộc địa của Pháp từ cuối thế kỷ 19, chính xác hơn là từ 1887, ngày thành lập Liên bang Đông Dương » (tr. 192).« De Gaulle phải đối mặt với một tình huống hoàn toàn mới mẻ ở Đông Dương : đương nhiên đấy là thời cơ để hoàng thân (Vĩnh San) hành động » (tr. 199).Về nguyện vọng thống nhất đất nước của vua Duy Tân, nhà sử học François Joyaux nhận định : thực ra đòi hỏi xóa bỏ rào cản chia cách Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ « không có gì mới mẻ » bởi từ đầu thế kỷ XX, tất cả các đảng phái chính trị ở Việt Nam đều nhất trí về điểm này, từ « những người cộng sản đến Bảo Đại » (tr. 193).Song băn khoăn của Vĩnh San ở đây cho tiến trình giành độc lập tại đất nước ông là « mối lo ngại những thành phần không kiên nhẫn », sẽ cầu viện đến một bên thứ ba nào đó để « đứng ra làm trọng tài ». Vua Duy Tân nêu đích danh đó có thể là « Trung Quốc hay Mỹ » (tr. 193). Sử gia Joyaux ghi nhận đấy cũng chính là « lo ngại de Gaulle từng thể hiện trong diễn văn Brazzaville » năm 1944 về tương lai các vùng thuộc địa của Pháp.Đọc tiếp Di chúc chính trị thấy rõ chủ trương giành độc lập theo từng giai đoạn một của vua Duy Tân : « Bắt đầu bằng việc phát triển kinh tế và xã hội cho đất nước trước khi hướng tới một nền độc lập toàn diện » và trên hành trình đó, ông trông cậy nhiều vào mối đối tác với Pháp, « quốc gia có thể yểm trợ quân sự » (cho Việt nam) ; « Kinh tế đất nước cũng sẽ được phát triển nhờ vào những điểm tựa từ tiền của và các công cụ của Pháp ». Về điểm này, sử gia François Joyaux cho rằng vua Duy Tân đã quá lạc quan vào thời điểmBản thân nước Pháp còn phải xây dựng lại từ những hoang tàn, đổ nát sau Thế Chiến Thứ Hai. (tr. 193).Liên quan đến vai trò của Pháp trong một nước Việt Nam độc lập và thống nhất, ông Vĩnh San đã nói rõ hơn trong trong Lời kêu gọi ngày 14/12/1945 chỉ vài giờ sau cuộc trao đổi duy nhất với chủ tịch chính phủ lâm thời Pháp, tướng Charles de Gaulle. Về cuộc tiếp xúc « lịch sử » này, François Joyaux nhắc lại lời tướng de Gaulle trong cuốn Hồi Ký. Nguyên thủ Pháp khi đó xác nhận « dự định đích thân sang Đông Dương để công bố thỏa thuận một cách long trọng nhất ở thời điểm thích hợp » (tr. 234). Theo những biên bản của đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu, cùng ngày 14/12/1945 vua Duy Tân công bố Lời kêu gọi gửi đến dân tộc với những từ khóa như là « độc lập, thống nhất, chủ quyền, hợp tác với Pháp để xây dựng một Nhà nước Việt Nam, một Nhà nước hiện đại » (tr. 237).Trong tư tưởng của vua Duy Tân, Việt Nam sẽ là một đất nước độc lập thống nhất, một đất nước có chủ quyền. Nhưng để hiện đại hóa đất nước về kinh tế, Pháp sẽ là một người bạn đồng hành và trong « một thời gian nhất định » Pháp bảo vệ Việt Nam về quân sự, về ngoại giao. (tr. 237 trích dẫn từ những biên khảo Chroniques d'Indochine, tr. 436/437 của đô đốc Thierry d'Argenlieu).Trong phần chú thích ở cuối quyển sách, François Joyaux bình luận :Khi nói về tình hình ở Việt Nam năm 1945 bản tuyên ngôn độc lập của ông Hồ Chí Minh được nhắc đến rất nhiều, diễn văn thoái vị của hoàng đế Bảo Đại cũng vậy, nhưng không mấy ai nhắc đến Lời kêu gọi ngày 14/12/1945 của hoàng thân Vĩnh San (tr. 317)Tầm nhìn về cuộc cách mạng Tháng 8/1945 Cũng liên quan đến cột mốc quan trọng, năm 1945 : Vua Duy Tân nghĩ gì về diễn biến tình hình trên quê hương ông ? Ngày 15/08/1945 Nhật đầu hàng ; một ngày sau đó « Việt Minh bắt đầu giành chính quyền tại Hà Nội, -điểm khởi đầu của cuộc cách mạng Tháng Tám » ; Bảo Đại thoái vị và Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945… Từ Paris, hoàng thân Vĩnh San viết thư cho một người bạn thân ông không ngần ngại chỉ trích phe Việt Minh « vô trách nhiệm » : « Nhân danh chủ nghĩa dân tộc khởi động một cuộc cách mạng là đưa dân vào cõi chết » (tr. 210) bởi đấy là điểm khởi đầu dẫn tới chiến tranh và điều đó hoàn toàn trái ngược với chủ trương của Duy Tân.Nhà sử học François Joyaux bình luận : « Rõ ràng vấn đề Đông Dương đặt ra với Pháp hồi tháng 8-9/1945 không chỉ về mặt quân sự, mà còn mang tính chính trị và quốc tế. Về nội tình Đông Dương, Paris tính đến giải pháp Vĩnh San, nhưng với cách mạng Tháng 8, ông có còn giúp được gì nữa hay không và những kế hoạch của hoàng thân có còn phù hợp với thực tế hay không ? » (tr. 211).Post mortem Dự án « thầm kín » của tướng de Gaulle chinh phục lại Đông Dương vĩnh viễn bị chôn vùi với tai nạn máy bay ngày 26/12/1945 thiếu tá Vĩnh San của quân đội Pháp và toàn bộ hành khách, phi hành đoàn tử vong. « Ở miền bắc, phía Việt Minh cũng như ở miền nam bên phía Pháp, vào những ngày đầu 1946 không ai có thể tính đến khả năng đưa hài cốt của hoàng thân Vĩnh San về nguyên quán. Thậm chí là không một ai nghĩ đến » (tr.266). Mãi đến năm 1987 hài cốt vua Duy Tân mới được đưa về nước, an táng tại điện Long An, khu lăng mộ có ba vua triều Nguyễn –(Vua Dục Đức Thành Thái và Duy Tân).Đây là « nhóm khiêm tốn nhất trong số các lăng mộ nhà vua (…) ít người Việt Nam thăm viếng ». Từng « có một quan điểm khác, một cái nhìn khác với phong trào Cách Mạng 1945 », mộ của vua Duy Tân ngày nay « hiếm khi được đề cập đến trong các cuốn hướng dẫn du lịch » (tr. 272/273).

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Hành trình đến với y học phương Đông qua góc nhìn của bảo tàng Guimet ở Pháp

Play Episode Listen Later Aug 23, 2023 9:39

Từ ngày 17/05 đến ngày 18/09/2023, bảo tàng nghệ thuật châu Á Guimet ở Paris, giới thiệu đến công chúng Pháp những nét đặc trưng trong y thuật phương Đông như châm cứu, thiền định hay Yoga, cùng với sợi dây kết nối giữa tâm linh và các liệu pháp chữa trị. Thiên về nghệ thuật và không đi sâu vào khai thác khía cạnh khoa học, triển lãm đưa ra cái nhìn khách quan về nền y học hàng ngàn năm tuổi, mà đôi khi không được y học phương Tây công nhận. Với khoảng 300 bức vẽ, pho tượng, ấn phẩm hay các dụng cụ, dược liệu…, triển lãm của bảo tàng Guimet đưa người xem bước vào hành trình vượt thời gian, tìm hiểu những điều huyền bí trong lịch sử y thuật - phương pháp, cách thức chữa trị bệnh, cổ xưa tại Tây Tạng, Trung Quốc và Ấn Độ. Có những phương pháp trị liệu ngàn năm tuổi, từ những phương pháp truyền thống như xoa bóp châm cứu cho đến các nghi lễ trừ tà. Ngay tại gian đầu tiên của triển lãm, thiết bị ánh sáng chiếu trên mặt đất và các tác phẩm, như để mô tả dòng chảy năng lượng trong cơ thể con người, loại năng lượng mà y thuật phương Đông chủ yếu tìm cách cân bằng. Giám đốc bảo tàng Guimet, Yannick Lintz nhận định rằng "có rất nhiều hiện vật chưa từng được giới thiệu với công chúng, bởi chúng chưa bao giờ được đánh giá, nhìn nhận dưới góc độ nghệ thuật". Triển lãm cũng giới thiệu các cách điều trị như khí công, thái cực quyền hay yoga. Khách đến xem còn có thể đi sâu vào hành trình này hơn trong không gian dành riêng cho thiền định, được xem là một cách chữa qua tâm trí, tinh thần. Ngoài ra, triển lãm cũng đề cập đến các nghi lễ bùa chú trừ tà hoặc thuật chiêm tinh, để chữa lành linh hồn bị các thế lực ma quỷ chiếm giữ, lạc vào những góc tối vô thức.Những đồ vật nói về phong thuỷ, hay bùa hộ mệnh, ví dụ như chiếc mặt nạ trừ tà của Hàn Quốc hay bản thần chú trừ tà của người Tây Tạng, nêu ra mối liên hệ đan xen giữa tín ngưỡng ma thuật để bảo vệ cơ thể khỏi ác quỷ, cản trở con đường đến Niết Bàn.Một khách tham quan ở Paris, bà Sylvie cho rằng "khía cạnh về tôn giáo và ma thuật, cũng như các truyền thống về y thuật đã có từ xa xưa, nhưng phương Tây đã quên điều đó. Tôi thấy thật tuyệt vời khi có thể tạo những cầu nối giữa châm cứu và các cách chữa lành về thể chất và tâm lý. Tôi hy vọng rằng chúng tôi có thể lấy cảm hứng từ đó để có tầm nhìn toàn vẹn hơn cơ thể phức tạp của con người". Ngày nay, một số cách trị bệnh của châu Á ngày càng phổ biến và dần du nhập vào châu Âu. Gian cuối của triển lãm như tạo ra một cuộc đối thoại giữa y học Đông Tây, thu hút người xem bởi hình nộm để châm cứu của Nhật Bản được mang đến châu Âu vào thế kỷ 17. Triển lãm cũng trưng bày một bức vẽ dài hơn 8 mét, có niên đại từ năm 1842 của Nhật Bản, minh họa cách giải phẫu của y học phương Tây trên thân thể của một tử tù. Điều này cho thấy mong muốn tiếp cận y học phương tây của phương Đông. Ngược lại, những loại dược liệu trong y học phương Đông cũng được một số nhà sản xuất dược phẩm châu Âu quan tâm.RFI nhân dịp này đã phỏng vấn ông Thierry Zéphir, giám tuyển của triển lãm "Médicines d'asie : l'art de l'équilibre" ở bảo tàng nghệ thuật châu Á Guimet. Ông Thierry Zéphir cũng là nhà nghiên cứu tại bảo tàng từ năm 1986 và là tác giả của nhiều đầu sách và bài nghiên cứu khoa học về Nghệ thuật Đông Nam Á.Triển lãm có tựa đề "Y thuật châu Á : Nghệ thuật của sự cân bằng", như là một câu đúc kết nội dung của triển lãm. Như vậy, phải chăng y thuật cũng là một loại hình nghệ thuật ? Thierry Zéphir : Triển lãm của chúng tôi muốn giới thiệu và giải thích cho mọi người về y thuật châu Á. Một số y thuật đó, được chúng tôi giới thiệu dưới góc nhìn nghệ thuật, bởi Guimet là bảo tàng nghệ thuật châu Á. Chúng tôi không muốn mở một triển lãm mang tính khoa học, chúng tôi cũng không muốn giải thích những thông tin chi tiết, một cách khoa học về các loại dược liệu được dùng trong y thuật châu Á mà thay vào đó chỉ ra rằng các cách chữa trị đó đã được áp dụng như thế nào thông qua các loại dược liệu. Đó là lý do tại sao chúng tôi giới thiệu rất nhiều bức vẽ, pho tượng, hay các bản thảo, tài liệu rất đa dạng, minh họa những truyền thống y thuật lớn của châu Á, từ Trung Quốc, Ấn Độ và Tây Tạng.Ba quốc gia này có gì đặc biệt ? Liệu y thuật truyền thống của 3 nước này có đặc điểm nào chung hay không ? Thierry Zéphir : Chúng tôi chọn truyền thống y thuật của 3 nước này xuất phát từ những hiện tượng chung, những mối quan hệ giữa các nước châu Á. Bởi vì Trung Quốc và y thuật truyền thống của nước này đã cho ra đời, thậm chí là đặc trưng trong cách chữa trị của phương Đông, ảnh hưởng đến Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Đông Nam Á. Y thuật Ấn Độ cũng là một y thuật đã được lan rộng ra bên ngoài lãnh thổ Ấn Độ, tại các nước như Malaysia hay các nước Nam Á. Y thuật Tây Tạng thì có vai trò trung gian, nằm giữa hai nền y thuật lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Bởi vì, ở Tây Tạng, y học đã sử dụng một số cách thức chữa bệnh, hoặc yếu tố đến từ y học Trung Quốc hay Ấn Độ, để tạo ra cho mình một cách tiếp cận chữa bệnh riêng tại khu vực Himalaya.Tại triển lãm, y thuật châu Á được giới thiệu đan xen giữa cách trị bệnh và những liên kết tâm linh, nhưng lại ít đề cập đến khía cạnh khoa học ? Thierry Zéphir : Chúng tôi giới thiệu những khía cạnh của y thuật, như qua pháp sư, trừ tà, hay các liệu pháp chữa trị, mà phương Tây không coi là y thuật. Chúng tôi chọn khía cạnh này bởi vì đó là những thứ được cho là nền tảng của y thuật châu Á. Chúng tôi không muốn đưa ra đánh giá hay nhận xét về giá trị của y thuật châu Á so với y thuật phương Tây mà ngược lại, chúng tôi muốn làm nổi bật và làm tăng giá trị cho các tuyền thống y thuật đó, mà đối với các dân tộc ở châu Á ngày nay vẫn rất quan trọng, thậm chí là cả trong các nghiên cứu y khoa hiện đại. Có những lĩnh vực rất quan trọng, được nghiên cứu.Có thể nói rằng những kiến ​​thức hiện đại, đương đại về y học thế giới cũng dựa trên cơ sở truyền thống của y học Tây Tạng và đặc biệt là Dược điển hoặc một số kỹ thuật điều trị. Đó là điều tương tự với Trung Quốc và Ấn Độ.Chúng tôi muốn chỉ ra tầm quan trọng của các cách chữa trị được gọi là truyền thống, nhưng không truyền thống hơn bất kỳ y thuật nào khác, mà cho đến nay, vẫn quan trọng ở châu Á. Vì vậy, trên bình diện lịch sử, về những giai đoạn xa xưa, chúng tôi không chỉ có cách tiếp cận lịch sử hay nghệ thuật mà còn là cách tiếp cận văn hóa theo đúng nghĩa. Chúng tôi muốn giới thiệu đến công chúng Pháp những truyền thống y thuật này, là những truyền thống có giá trị như của phương Tây. Cụ thể, đó là những cách chữa trị có hiệu quả.Triển lãm giới thiệu những cách chữa bệnh thông qua trừ tà, chiêm tinh, liệu những liệu pháp này có còn được sử dụng tại châu Á hay không ? Thierry Zéphir : Dĩ nhiên là các cách trị bệnh này vẫn được sử dụng. Trên thực tế, các nghi lễ tôn giáo ở châu Á, y học và tâm linh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu thiếu một trong hai thì liệu pháp chữa bệnh không có tác dụng. Do vậy mà triển lãm của chúng tôi bao gồm 4 phần. Gian triển lãm đầu tiên nói về lịch sử của y thuật, những nhà sáng lập vĩ đại của y thuật châu Á. Gian thứ hai nói về những vị thần, những dược sư trị bệnh. Sau đó là gian triển lãm về tất cả những khía cạnh mang tính kỹ thuật, được sử dụng trong cách điều chế thuốc, dược điển, những cây thuốc hay thậm chí là các con vật có khả năng trị bệnh. Chúng tôi cũng nói đến các kỹ thuật y khoa đáng chú ý của châu Á như châm cứu. Phần thứ ba, chúng tôi giới thiệu những cách chữa trị bằng ma thuật, trừ tà, hay nhờ pháp sư. Đó là những hiện tượng văn hóa xã hội, được phát triển rộng rãi ở tất cả các nước châu Á. Điều này cũng đóng góp vào việc chữa trị của khu vực. Gian cuối cùng như là một kết luận cuối của triển lãm, nêu ra những thách thức về việc truyền tải, cách tiếp cận hiểu biết của y học phương Đông từ phương Tây và ngược lại.Trong triển lãm, có đồ vật hay ấn phẩm nào mà ông thấy ấn tượng hay không ? Thierry Zéphir : Một trong những tác phẩm tiêu biểu trong cuộc triển lãm của chúng tôi, đó là một trước một bức tranh có xuất xứ từ Tây Tạng có từ thế kỷ 14, chân dung của Tangka, tượng trưng cho một nhân vật vĩ đại của y học châu Á. Đó là Phật Dược sư, là Đức Phật của y học, người đứng đầu tất cả lĩnh vực về y thuật Châu Á. Điều thú vị là bức chân dung ở vị trí trung tâm của bức vẽ, rất đặc trưng của nghệ thuật Tây Tạng. Đức Phật Dược Sư trong hiểu biết của người Tây Tạng và châu Á nói chung, có thể nhận diện vì nó có màu xanh. Ngài cũng dễ nhận biết bởi 2 pháp khí mà chỉ vị Phật này mới sử dụng. Trong thế kiết già, tay trái một cái bình được cho là đựng nước trường thọ và tay phải cầm một loại quả cây hình bầu dục, được sử dụng trong dược điển châu Á và được cho là có tác dụng chữa bệnh. Trên thực tế, Đức Phật Dược Sư là người được hướng tới sau những lời cầu nguyện với hy vọng nhận được sự chữa lành.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Suốt sự nghiệp cầm cọ, Vincent Van Gogh (1853-1890) không bán được một tác phẩm nào. Chỉ vài ngày sau khi có người mua tác phẩm đầu tiên, họa sĩ qua đời ở tuổi 37. Trong quãng đời ngắn ngủi, có lẽ hai năm ở Paris là giai đoạn thăng hoa trong sự nghiệp của họa sĩ đoản mệnh. Van Gogh gặp những người bạn mới, khám phá trường phái Ấn Tượng, định hình phong cách vẽ. Đến Paris vào đầu tháng 03/1886 sau thời gian dài bất định về sự nghiệp, bất ổn về cuộc đời, lận đận trong tình duyên, Van Gogh tìm bước khởi đầu mới ở Kinh đô Ánh sáng. Chuỗi thất bại của họa sĩ Hà Lan được Wouter van der Veen, người chuyên viết về nghệ thuật và là chuyên gia về Van Gogh, tóm lược trong chương trình của Culture Tube về Van Gogh : Những bậc thầy hội họa :“Vào lúc Vincent Van Gogh bắt đầu vẽ, ông ở trong tình trạng khá là tuyệt vọng, bị rơi vào ngõ cụt. Ông buộc phải đưa ra chọn lựa đó. Ông từng muốn làm mục sư nhưng thất bại, từng muốn làm nhà buôn nghệ thuật nhưng cũng không thành, cuối cùng ông tâm sự trong một bức thư gửi em trai là những gì còn lại với ông, chỉ là chút khả năng vẽ phác thảo. Chính từ chút năng lực đó, ông quyết định tiếp tục cuộc sống và dấn thân vào một con đường mới, nơi ông hy vọng trở thành một nhà in thạch bản, người vẽ tranh minh họa, người vẽ phác thảo. Nhưng ban đầu, đó không phải tiếng gọi của nghệ thuật lớn lao, đặc trưng cho sự nghiệp của ông như chúng ta biết sau này”.Có lẽ sẽ không có một Vincent Van Gogh nổi tiếng nếu không có người em trai Théo của ông. Théo có tài kinh doanh, đến Paris làm việc từ năm 1881, được giao làm giám đốc một chi nhánh của Galerie Boussod, Valadon et Cie trên đại lộ Montmartre. Théo sống trong căn hộ nhỏ ở phố Victor Massé để tiện cho công việc. Hai tháng sau khi Vincent đến, họ chuyển sang căn hộ trong tòa nhà xây theo phong cách kiến trúc Haussman ở số 54 phố Lepic, ngay dưới chân đồi Montmartre. Théo là nguồn động viên không mệt mỏi cả về tài chính lẫn tinh thần cho Vincent, vì Théo giữ niềm tin vô hạn vào tài năng của anh trai.Những cuộc gặp mới ở MontmartreMontmartre vào Thời Kỳ Tươi Đẹp (Belle Epoque, 1871-1880) nổi tiếng là tụ điểm giải trí sành điệu. Quán rượu, cà phê thi nhau mọc lên từ năm 1888, thu hút giới tinh hoa Paris và những nghệ sĩ nổi tiếng đương thời. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một Montmartre giữ nét hoang sơ, tồi tàn của những khu ổ chuột trước đó.Montmatre và Paris mở ra nhiều cơ hội cho họa sĩ Hà Lan : bạn bè mới nhờ những mối quan hệ của Théo, cơ hội triển lãm tranh, khám phá trường phái Ấn Tượng để rồi theo đuổi con đường này. Trong thư đề tháng 9 hoặc 10/1886 gửi Horace Mann Livens, bạn đồng môn năm 1885 ở Viện Hàn Lâm Mỹ Thuật Hoàng Gia Anvers (Bỉ), Vincent Van Gogh tỏ ra hào hứng với cuộc sống mới : “Paris là Paris, chỉ có một Paris và dù cuộc sống ở đây có khó khăn đến đâu... không khí Pháp làm đầu óc tỉnh táo và tốt lên”. (1)Van Gogh bắt đầu vẽ từ cửa sổ phòng ngủ trong căn hộ mới phóng tầm mắt khắp Paris, từ những bức chân dung tự họa đến những khu vườn quanh Montmartre và mỏ đá trắng. Ngay cuối năm 1886, họa sĩ Hà Lan tham gia Xưởng Vẽ Cormon (Atelier Cormon do Fernand Cormon thành lập năm 1883 tại 104 đại lộ Clichy, Paris), nơi đánh dấu những thay đổi mang tính quyết định cho sự nghiệp của ông. Vincent học vẽ khỏa thân, làm quen với những họa sĩ trẻ như Emile Bernard và Henri de Toulouse-Lautrec.Qua giới thiệu của Théo, Vincent gặp nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác, Georges Seurat, Camille Pissaro, Paul Gauguin và Paul Cézanne. Họa sĩ Hà Lan hòa mình vào cuộc sống nghệ thuật sôi động của thành phố, thường xuyên đi xem triển lãm của Degas, Monet, Renoir và Sisley. Được truyền cảm hứng vẽ trực tiếp ngoài trời, ông không ngại vác giá vẽ ra khỏi đồi Montmartre và Paris để đến các vùng ngoại ô Asnières-sur-Seine, rừng Boulogne hay đảo Grande Jatte ở vùng Hauts-de-Seine hiện nay, kinh nghiệm mà theo tâm sự của ông trong thư gửi người bạn Bernard là “người ta không thể học vẽ được nếu chỉ ở trong xưởng vẽ của mình”.Chuyên gia về nghệ thuật Pascal Bonafoux nhận định trong chương trình của Culture Tube : “Giữa một bên là phòng trưng bày tranh Boussod, Valadon et Cie do Théo quản lý và bên kia là cửa hàng của Cha Tanguy, người ta đoán về cơ bản là Vincent khám phá ra trường phái Ấn Tượng. Chưa bao giờ ông ấy nhìn thấy bóng của một bức tranh như thế. Theo tôi, trong gần hai năm sống ở Paris là quãng thời gian Vincent Van Gogh thực sự tạo cho mình những cách sáng tạo ra một Vincent Van Gogh và để tạo ra sự độc đáo, có một không hai, sự kỳ dị trong tranh của ông”.Cha Tanguy (Père Tanguy) là một nhân vật quan trọng trong đời sống nghệ thuật của khu vực, là ân nhân của rất nhiều họa sĩ trẻ nhưng nghèo, kể cả Monet và Pissarro thời đó. Cửa hàng Cha Tanguy có đủ loại màu vẽ và thường bán chịu. Van Gogh cũng nằm trong số những họa sĩ gán nợ bằng tranh. Để cảm ơn “người bạn lớn”, Van Gogh đã vẽ Chân dung Cha Tanguy (Portrait du père Tanguy, 1887), chưa đầy một năm sau bức tự họa khi mới đến Paris.Thấm nhuần trường phái Ấn TượngChính những bức chân dụng tự họa cho thấy rõ độ mở nghệ thuật của ông. Mọi nghiên cứu về phong cách và mầu sắc đều được ông thể hiện trong những bức chân dung tự họa này, theo giải thích của chương trình Van Gogh : Những bậc thầy hội họa :“Những bức tự họa đầu tiên được vẽ trong các mầu xám và mầu hạt dẻ nhanh chóng nhường chỗ cho các mầu vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. Kỹ thuật cầm cọ của ông cũng bắt đầu giống kỹ thuật không ngắt đoạn của các họa sĩ trường phái Ấn Tượng. Ông viết cho một người em gái : “Ý định của anh là cho thấy rằng người ta có thể vẽ nhiều bức tranh hoàn toàn khác nhau về cùng một người” (bức Tự họa đội mũ rơm (Autoportrait au chapeau de paille, 1887). Cho dù các ảnh hưởng xuất hiện trong tác phẩm của Van Gogh là đương thời hay truyền thống, chúng đều được thể hiện trong ngôn từ nghệ thuật của riêng ông”.Paris và cuộc gặp với trường phái Ấn Tượng, rồi hậu Ấn Tượng đã khiến bảng mầu của Van Gogh được mở rộng, sáng hơn, sống động hơn so với những bức tranh u tối, sầu não lúc còn ở Hà Lan và Bỉ. Sự thay đổi này được chính họa sĩ giải thích trong thư gửi em gái : “Điều mà người ta yêu cầu trong nghệ thuật ngày này, đó là điều gì đó thật sống động, rực rỡ, nồng nàn”.Sự sôi động trong tác phẩm Đại lộ Clichy (Boulevard de Clichy, 1887) là nhờ nét vẽ bớt cứng nhắc hơn, với hai gam mầu chủ đạo là tím và xanh. Những mầu sắc tươi sáng khác cũng được Van Gogh vận dụng vào tác phẩm Những vườn rau ở Montmartre (Jardins potagers à Montmartre, 1887), Sông Seine và cây cầu Grande Jatte (La Seine avec le pont de la Grande Jatte, 1887), Cây và rừng (Arbre et sous-bois, 1887), Công viên vào xuân (Parc au printemps, 1887)…Tranh của Van Gogh còn có ảnh hưởng từ cách chấm mầu của Paul Signac. Nghệ thuật Nhật Bản - niềm đam mê của các họa sĩ thời đó - hiện rõ trong hơn 30 bức vẽ tĩnh vật hoa, qua cách ông sử dụng những phối cảnh đậm và các mẫu trang trí phẳng, điểm thêm các tông màu đỏ đậm, để “cố thể hiện cường độ mầu sắc”.“Có thể thấy được sự tiến bộ rõ rệt trong cách vẽ của Van Gogh từ 1886-1888 qua ba bức chân dung. Chân dung một người đàn ông năm 1886 tiếp nối loạt chân dung sâu kín và thống thiết trong thời kỳ đầu của Van Gogh ở Nuenen. Bức chân dung Alexander Red được vẽ vào mùa xuân năm 1887 sử dụng cách phối mầu và kỹ thuật vẽ tương đối khác. Tháng 12/1887, Van Gogh vẽ Cô gái Ý (L'Italienne), được coi là bước ngoặt nghệ thuật của họa sĩ ở hai chiều và chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Nhật Bản, trong đó các màu sắc và đường nét tạo giá trị riêng biệt, ngoài thực tế”.Vận đen đeo bámVan Gogh trưng bày tranh ở các phòng tranh của bạn bè, các quán cà phê và nhà hàng, nơi trở thành điểm giao lưu, trao đổi của họa sĩ. Không ngạc nhiên khi Van Gogh vẽ chân dung khổ lớn chủ một nhà hàng lúc đó, có thể là Lucien Martin, ông chủ của quán Grand Bouillon, nơi họa sĩ Hà Lan trưng bày tranh. Van Gogh vẽ hơn 200 tác phẩm trong hai năm ở Paris. Thế nhưng không ai đoái hoài đến tranh của ông. Đen đủi vẫn đeo bám Van Gogh, như lúc ông còn ở Hà Lan hay Bỉ. Chuyên gia Pascal Bonafoux giải thích :“Hãy hình dung là vào thời kỳ mà tranh lịch sử vẫn được coi là hội họa chân chính, tranh chân dung là thể loại lớn… Còn đối với Van Gogh , một cành hoa, một chiếc giầy, một củ khoai tây cũng quan trọng như vậy. Dù chưa biết nhưng họa sĩ đã tham gia vào phong trào sau này là trở thành trường phái Ấn Tượng, lúc đó đã thịnh hành được khoảng 10 năm, và từng bước loại dần hội họa phân cấp đối tượng. Điều này đặc biệt quan trọng”.Những tác phẩm quan trọng nhất thuộc sở hữu của Théo, còn những bức khác thì làm quà tặng hoặc bị ăn trộm. Một vài tác phẩm được họa sĩ bán rẻ cho người buôn nghệ thuật. Vincent Van Gogh chán thành phố đang dần khiến ông ngột ngạt. Ông viết cho em gái Wilhemina, “Paris lớn như biển nhưng người ta luôn để ở đó một mảnh lớn cuộc đời”. Quyết định tìm đến thiên nhiên, tháng 02/1888, họa sĩ ôm đầy hoài bão chuyển xuống thành phố Arles, miền nam Pháp.Thế nhưng Van Gogh vẫn phải đối mặt với thực tế : tranh của ông không bán được. Đổi lại, Théo an ủi trong thư đề ngày 27/10/1888 là “anh đã tạo được cho chúng ta một mạng lưới nghệ sĩ và bạn bè, điều mà em hoàn toàn không thể làm được, vậy mà anh đã làm được phần nào từ khi anh ở Pháp”.Chán nản, kiệt quệ, bệnh tật có lẽ dần bào mòn sức lực của họa sĩ. Ông qua đời ở tuổi 37 vào lúc mà nỗ lực của ông cuối cùng cũng được biết đến, theo giải thích của Wouter van der Veen, chuyên gia về Van Gogh : “Sáu tháng trước khi qua đời (ở Auvers-sur-Oise, ngoại ô Paris), công việc của Vincent Van Gogh thu hút sự chú ý của một nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng. Người này viết trong tạp chí Mercure de France một bài báo dài gần 17 trang để giải thích công việc của họa sĩ Hà Lan này tuyệt vời đến nhường nào”.(1) Bảo tàng Van Gogh, Hà Lan

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Cuộc đấu tranh đưa nhạc truyền thống dân tộc Việt Nam vào nhạc viện tại Pháp

Play Episode Listen Later Aug 16, 2023 9:48

Sau hơn 10 năm được bộ Văn Hóa Pháp cấp bằng sư phạm, cô Hồ Thụy Trang đã thành công đưa đàn tranh và đàn bầu vào giảng dạy tại một số nhạc viện ở Pháp. Đó là cả một quá trình dài với không ít thử thách và gian nan đối với người nghệ sĩ Việt, bởi tại Pháp “sống bằng âm nhạc nói chung vốn đã khó, chứ chưa nói đến âm nhạc truyền thống dân tộc của các nước khác.” Trước những con mắt tò mò của các khán giả nhí cùng phụ huynh tại nhạc viện của thành phố Bobigny, ngoại ô Paris, cô Hồ Thụy Trang tự hào giới thiệu loại nhạc cụ huyền bí, độc huyền cầm, một loại nhạc cụ truyền thống của Việt Nam, nhân ngày lễ hội âm nhạc 21/06 vừa qua. “Quý vị có biết đàn bầu còn có thể chơi nhạc rock hay không ?”, cô nói, rồi sau đó đàn một khúc, trầm ngâm, gợi chút buồn man mác, khiến nhiều người trầm trồ về những thanh âm trầm bổng, sâu lắng của chiếc độc huyền cầm. Một số đã không ngần ngại lên thử gảy đàn khi được mời. Đó cũng là tiết học đàn bầu cuối cùng của năm học vừa qua tại nhạc viện của thành phố Bobigny. Cô nhấn mạnh rằng mình đã yêu cầu giữ nguyên tên gọi bằng tiếng Việt của các loại đàn mà cô dạy tại các trường nhạc, thay vì dùng một tên dịch từ tiếng Pháp. Không chỉ đàn bầu, cô cũng giảng dạy đàn tranh tại nhạc viện của 2 thành phố ngoại ô Paris, Gagny và Bussy-Saint-Georges. Sinh ra trong một gia đình yêu âm nhạc tại Sài Gòn, cô Trang làm quen với các nhạc cụ từ rất sớm. Cô kể “có lần tôi đi thi đàn tranh, mà cây đàn còn cao hơn cả tôi”. Sau khi tốt nghiệp hạng ưu vào năm 1986 tại Trường quốc gia âm nhạc kịch nghệ Sài Gòn (nay là Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh), cô Hồ Thụy Trang sau đó đi giảng dạy các loại nhạc cụ truyền thống ở Sài Gòn và một số tỉnh lân cận. Đến khi sang Pháp từ đầu những năm 2000 cùng với gia đình, cô vẫn quyết tâm theo con đường âm nhạc, truyền bá âm nhạc truyền thống của Việt Nam tại nơi đất khách. Cô cho biết : “Khi định cư ở một đất nước khác, vì không bỏ nó được thì đó gọi là nghiệp chứ không phải là nghề nữa, vì có thể nghề này không nuôi được mình, nhưng có thể nó là một cái sứ mạng nào đó trao cho mình, phải có một trách nhiệm truyền bá, giữ gìn văn hóa Việt tại xứ người. Phải nói rằng, khó khăn lớn nhất là rào cản về ngôn ngữ khi tôi thi lấy bằng cấp giáo sư âm nhạc Việt Nam thì tôi không có ngồi trước mặt mà ôm cây đàn trong lòng. Nếu phải thi đàn thì tôi không sợ ai hết, vì ở đất Pháp này, không ai có thể chơi nhạc dân tộc chuyên bằng mình, nhưng ngôn ngữ tiếng Pháp thì lúc đó tôi mới bắt đầu học thôi, chứ không phải là song ngữ từ bé, nên điều đó rất khó khăn. Tôi đã trải qua 1 kỳ thi vấn đáp tức là chỉ đặt câu hỏi và trả lời, người ta đã nhìn nhận kinh nghiệm giảng dạy của mình qua bao nhiêu năm, chính phủ Pháp đã cấp bằng cho tôi, và hiện tôi là giáo sư duy nhất có được bằng giảng dạy nhạc cụ Việt Nam tại Pháp”. Mở lớp dạy nhạc cổ truyền Việt tại Pháp "là do may rủi"Để có thể đưa bộ môn đàn bầu hoặc đàn tranh vào giảng dạy các nhạc viện của các thành phố là cả một chặng đường, bởi có bằng giảng dạy được Nhà nước Pháp công nhận là chưa đủ. Cô cho biết, từ gần 10 năm nay, cứ mỗi năm học mới là cô lại tất bật chuẩn bị hồ sơ để xin mở lớp dạy nhạc, “phải tiếp cận những người làm về văn hóa, các giám đốc trường nhạc và lãnh đạo của thành phố đó”. Cô thuật lại có những năm chuẩn bị cả chục bộ hồ sơ, nhưng chỉ 3 trường nhận, đồng ý mở lớp dạy nhạc cụ Việt. Nỗ lực hết mình là một chuyện, nhưng đôi khi cũng là do may rủi, với hy vọng “chủ tịch thành phố đó thấy âm nhạc Việt Nam thú vị và đồng ý mở lớp nhạc”. Theo cô Trang, “phải chọn những thành phố có nhiều người Việt, những bố mẹ muốn trao truyền văn hóa cho con em Việt”. Hơn nữa, còn phải tuỳ thuộc vào ngân sách của thành phố, cô chia sẻ : “Muốn mở 1 lớp nhạc thì thành phố đó phải chi nhiều, phải mua nhạc cụ, trả lương cho thầy cô mà trong khi đó, họ chưa biết có bao nhiêu học sinh sẽ đăng ký. Vì thế, tôi cùng câu lạc bộ Tiếng Tơ Đồng mà tôi thành lập từ năm 2000, 1 ban nhạc, cùng với tôi đi quảng bá khắp các thành phố, từ bắc chí nam, trên lãnh thổ của Pháp. Nơi nào mà chúng tôi cũng đã đi qua, để quảng bá là chúng tôi có những làn điệu như thế này, có những làn điệu hay như thế đó, thì quý vị có thấy thú vị, quan tâm không, quý vị có thể mở 1 lớp nhạc hay không ?” Tiếng nhạc đưa tâm hồn tìm lại cội nguồn“Nghiệp” của cô Trang đã gieo hy vọng cho nhiều người Việt và gốc Việt sinh sống tại Pháp, mong muốn tìm lại, gần gũi với cội nguồn qua âm nhạc. Tại lớp đàn tranh, khoảng năm đến bảy học viên, thường là dạy theo cách một thầy một trò, sau đó tất cả sẽ cùng nhau hòa tấu đàn tranh, theo một bài nhạc do giáo viên lựa chọn. Sang Pháp định cư từ 20 năm qua, chị Kim Anh theo học đàn tranh tại lớp của cô Trang ở nhạc viện Bussy-Saint-Georges đã gần 5 năm. Theo chị, “tiếng đàn tranh rất trong trẻo, rất tình cảm, và tình cảm này phải phụ thuộc vào người đánh đàn, để truyền tải cho người nghe. Đàn tranh, khiến mình khi đánh lên là mình cảm thấy nhớ về quê nhà.” Học viên nhí duy nhất tại lớp đàn tranh, bé Nguyễn Hạnh Tâm, 10 tuổi, đã học đàn tranh tại lớp của cô Thụy Trang từ gần 5 năm qua. Điều thú vị là mẹ của Hạnh Tâm, chị Văn Bích Tuyền cũng quyết định theo học nhạc cùng lớp với con gái, để dễ chỉ bảo cho con hơn. Chị nói “nhiều khi không biết nốt nhạc, dây nhạc, hỏi con thì con không nhớ”, như vậy đưa con đi học tại Bussy-Saint-Georges, rồi vào học cùng luôn. “Lúc mà tôi chưa học thì nói với Tâm là tại sao người ta học được đàn tranh mà con lại không được. Tôi rất là nóng ruột, la hoài luôn, nhưng khi mình vào mình học, thì biết là những cái đó rất là khó, mà con còn nhỏ mà đàn được thì cũng biết là con có năng khiếu”. Đối với chị Tuyền, mặc dù sống ở Pháp nhưng vẫn mong muốn con cái có thể nói tiếng Việt. Tham gia học đàn tranh, bé Tâm có thể vừa học nhạc, vừa nói tiếng Việt cùng cô giáo và các học viên khác. Chị Tuyền kể “những ngày lễ tết, bé Tâm được theo đi biểu diễn cùng nhóm của cô, thế nên mình mới tham gia các họat động của cộng đồng người Việt. Mặc dù sống ở Pháp nhưng vẫn muốn nói là con là người Việt.” Còn đối với chị Hoàng Phương Nam đã theo học đàn bầu được gần một năm tại nhạc viện của thành phố Bobigny và cũng là học sinh duy nhất, chị thuật lại : “Hồi còn nhỏ, tôi đi coi cải lương, rồi ông ngoại ở nhà nghe nhạc nhiều lắm, nghe nhạc đàn tranh đàn bầu, ông ngoại và mẹ tôi thì thích đàn đàn tranh, mà không biết tại sao, tôi nghe tiếng đàn bầu tôi lại thích hơn, nó buồn hơn, chắc tôi ở xa xứ, thành ra cái tiếng buồn của đàn bầu đưa ra nỗi buồn riêng của mình, thành ra là nó hạc vậy á. Nhưng mà có lẽ tôi hợp đàn bầu hơn đàn bầu hợp tôi. Dù sao lúc nào mình cũng nhớ xứ sở của mình chứ, gốc gác của ông bà. Ở Pháp, nhà thơ Afred de Musset, có nói là “on ne vit que pour un coin de terre”, nghĩa là mỗi người chỉ có một chút mảnh đất, mà mình sống cho cái mảnh đất đó, thì dù mình có đi đâu cũng đem theo mảnh đất đó luôn, thành ra tiếng đàn bầu này là mảnh đất của mình, có đi đâu đi chăng nữa thì nó cũng đi theo mình”. Khó có thể thống kê con số chính xác cộng đồng Việt kiều ở Pháp, nhưng theo cô Thụy Trang, đa phần họ đều sống tản mạn và ít khi tập trung tại một thành phố nào đó. Đây cũng là một trở ngại không nhỏ, khi cô phải di chuyển gần 2 tiếng để đi dạy, như trường hợp ở Bobigny. Đối tượng theo học nhạc cụ truyền thống Việt đa số là những người lớn tuổi, từ 20 tuổi trở lên, theo cô, học nhạc cần năng khiếu và khả năng cảm thụ, nhưng nếu được tiếp xúc với âm nhạc ở tuổi nhỏ thì dễ dàng hơn nhiều. Cô cho rằng tại Pháp, những người Việt đến định cư phải tập trung lo phát triển kinh tế, nên “vấn đề văn hóa thường bị tạm gác sang một bên, do vậy con em họ thường ít được tiếp xúc với văn hóa Việt”. Hơn nữa, “một số phụ huynh cũng có thể là không thực lòng muốn đưa con em về với cội nguồn, họ nghĩ rằng, con em phải biết nói tiếng tây, chơi nhạc cụ nước ngoài thì mới dễ hòa nhập. Nhưng nhiều khi họ hiểu lầm, vì nhạc cụ Việt Nam là hiếm có ở xứ này, nếu mình cầm cây nhạc cụ Việt lên thì người nước ngoài mới trầm trồ khen ngợi vì nếu chơi vi ô lông hay guitar thì đó là chuyện thường.” Âm nhạc tạo ra sự kết nốiKhông chỉ đàn tranh, đàn bầu, cô còn thông thạo nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác, cũng như các làn điệu dân ca, chèo, cải lương, ca huế. Cô khẳng định “khi mình có được một cái cơ bản đó rồi, tất cả các loại nhạc cụ mình đều chơi được”. Vì lẽ đó mà cô không ngần ngại chơi thử cổ cầm của đồng nghiệp Trung Quốc tại nhạc viện ở Bobigny trước giờ lên lớp. Bởi “là người nghệ sĩ thì luôn phải tìm tòi, sáng tạo, và quan trọng là kết nối với mọi người”. Cô Trang nhớ lại cách đây vài năm, cô từng tham gia các buổi hòa tấu đàn tranh với 1 nghệ sĩ Trung Quốc và 1 người Hàn Quốc và Nhật BảnVới tên gọi "Fil d'Asie", tất cả cùng tham gia các buổi hòa tấu với phiên bản đàn tranh riêng của mỗi nước, cùng tên gọi nhưng lại có hình dáng và thanh âm khác biệt, khó có thể xác định rõ xuất xứ cội nguồn của mỗi đàn, hay có liên hệ ra sao. Học sinh trong các lớp nhạc đàn bầu và đàn tranh cũng thường được cô đăng ký đi tham dự các buổi biểu diễn của trường hoặc các liên hoan âm nhạc.Cô bộc bạch : “Nói thực sự ra thì mục tiêu của tôi là giữ gìn, trao truyền âm nhạc việt, đó là mục đích chính, mục đích thứ hai là quảng bá văn hóa âm nhạc Việt, nhưng mình chỉ gói gọn trong cộng đồng người Việt mà thôi thì người dân bản xứ không biết đến âm nhạc Việt Nam.Thành ra mình phải đưa nhạc Việt đến người bản xứ, các dân tộc Việt hiện đang sinh sống tại nước Pháp. Nếu mình chơi một mình thì có thể là người ta không thấy thú vị để đến nghe, mình phải kết hợp với các nhạc cụ khác, chơi được nhạc cụ tây phương để họ thấy được sự thú vị nào đó. Lúc đó thì mình mới có dịp đưa nhạc Việt ra nhiều nơi hơn, người dân ở các thành phố mới biết đến nhạc Việt Nam, đàn bầu, đàn tranh, nếu họ chỉ biết đến tên (tiếng Việt) của các loại nhạc cụ này, thì điều đó đã vui rồi. Vào năm học mới, cô Thụy Trang đã thành công giữ được vị trí giảng dạy đàn tranh và đàn bầu ở 3 thành phố ngoại ô Paris, Bobigny, Bussy-Saint-Georges và Gagny. Trong một bài đăng trên mạng xã hội Facebook cô chia sẻ “một lần nữa, tôi đã chiến thắng, giữ nguyên tên tiếng Việt của môn ‘đàn tranh' tại nhạc viện ở Gagny”. Đối với vị giáo sư về âm nhạc cổ truyền Việt Nam,có thể những người bản xứ, hay những con em gia đình Việt tại Pháp không chơi được nhạc, “nhưng ít ra có thể biết được tiếng đàn bầu đàn tranh, hoặc những làn điệu dân ca Việt Nam, đó là niềm mơ ước”. Ngoài các lớp dạy đàn tại nhạc viện, cô Thụy Trang cũng mở lớp dạy nhạc cụ truyền thống Việt tại Trung tâm văn hóa Việt Nam ở quận 13, Paris, và ở nhà văn hóa - Maison de solidarité de Créteil.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Tại Pháp người ta thường nói đùa rằng đừng bao giờ hỏi : ai đã từng hát nhạc của Didier Barbelivien mà nên hỏi có ai chưa hát tác giả này. Hỏi như vậy thì câu trả lời sẽ ngắn gọn hơn, lý do là vì trong 4 thập niên qua Didier Barbelivien đã sáng tác hơn 2.000 bài hát, trong đó có nhiều giai điệu ăn khách qua nhiều thời khác nhau. Năm nay, ông chuẩn bị ăn mừng trên sân khấu sinh nhật lần thứ 70. Sinh năm 1954 tại Paris, Didier Barbelivien sống những năm tháng đầu đời tại Pháp trước khi theo gia đình sang Congo (châu Phi) sinh sống, do bố ông làm việc trong ngành xuất nhập khẩu. Khi bắt đầu lớn lên, ông được gia đình đưa về Pháp, giao cho bà nội nuôi dưỡng. Ban đầu ông sống ở vùng ngoại ô và sau đó lên Paris, cho tiện bề đi học. Sau tú tài, ông theo học ngành luật trước khi chuyển hẳn hướng đi, dứt khoát chọn nghề nhạc sĩ. Didier Barbelivien bắt đầu sáng tác từ năm 16 tuổi, ông tự học đàn và luyện cách soạn nhạc cũng như đặt lời qua việc nghe đi nghe lại rất nhiều bài hát. Trong thời gian đầu, ông kiếm sống chủ yếu nhờ viết lời cho các bản phóng tác : ''28 độ dưới bóng râm'' (của nhóm SanDiego) cho Jean François Maurice hay nhạc phẩm ''Reviens'' (của Toto Cutugno) cho Hervé Vilard.40 năm sự nghiệp và 70 năm tuổi đờiCó thể nói sự nghiệp của ông được chia thành hai mảng chính. Mảng đầu tiên là các sáng tác cho các nghệ sĩ khác kể từ năm 1978 trở đi. Mảng thứ nhì là các bản nhạc do ông ghi âm với giọng ca của mình. Với tư cách là một tác giả, ngòi bút của Didier Barbelivien được ''trọng dụng'' nhờ cái tài soạn giai điệu dễ lọt tai. Cho dù một số nhà phê bình chê lối sáng tác của ông là quá đơn giản chạy theo dòng nhạc thị trường, nhưng chính các tác phẩm của Barbelivien đã làm nên tên tuổi của Patricia Kaas (Mon mec à moi, Les hommes qui passent), của ban song ca David et Jonathan (Est-ce que tu viens pour les vacances), của Elsa và Glenn Medeiros (Un roman d'amitié) hay của Gilbert Montaigné (Les Sunlights des Tropiques) hay Philippe Lavil (Il tape sur les bambous, bài này sau đó từng được Julio Iglesias ghi âm lại) ….Các bản nhạc do ông viết cũng giúp cho nhiều giọng ca Pháp tiếp tục ăn khách trong giai đoạn kế tiếp trong sự nghiệp của họ kể cả nam danh ca Christophe (Petite fille du soleil), Dalida (Une femme à 40 ans), Michèle Torr (Lui), Mireille Mathieu (Les avions les oiseaux), Johnny Hallyday (Comme le soleil), Michel Delpech (J'étais un ange), Enrico Macias (Le Mendiant de l'amour), Michel Sardou với Garou (La Rivière de notre enfance) hay Demis Roussos (Quand je t'aime) … Đa số những bài hát này được chính tác giả ghi âm lại sau đó trên tuyển tập ''Ateliers d'artiste'', phát hành vào năm 2009.Sau khi được công nhận là một ngòi bút sáng tác ăn khách, kể từ đầu thập niên 1980 trở đi, ông thành công nhờ trình bày các sáng tác của mình. Bản nhạc thành công đầu tiên vào năm 1980 là nhạc phẩm ''Elle'' mở đường cho nhiều bài hát ăn khách khác tại Pháp. Đỉnh cao của ông là vào những năm 1990 khi Didier Barbelivien ghi âm cùng với Félix Gray (bắt chước hai ca sĩ Julio Iglesias và Willie Nelson thời bấy giờ). Ban song ca này nhiều lần giành lấy hạng đầu thị trường Pháp với album ''À tous les filles'' (Nhắn với tất cả những người tôi yêu) .... Trong vòng 4 thập niên sự nghiệp, ngoài là tác giả của hơn hai ngàn bài hát đủ loại, Didier Barbelivien đã phát hành khoảng 20 album (từ năm 1980 đến năm 2022).Barbelivien, tác giả của hai ngàn điệp khúcĐể kỷ niệm cùng lúc hai sự kiện 40 năm sự nghiệp và sinh nhật lần thứ 70, ca sĩ kiêm tác giả Didier Barbelivien hiện đang sống ở Nice, sẽ thực hiện một vòng lưu diễn quan trọng, gồm 14 chặng dừng tại nhiều thành phố lớn. Theo trang thông tin chính thức của tác giả, đợt lưu diễn vòng quanh nước Pháp này sẽ khai mạc vào đầu tháng 11/2023 đưa ông tới những nơi có nhiều người hâm mộ, từ Lille đến Paris băng qua các thành phố Tours, Nantes, Lyon, Bordeaux, Toulouse hay Marseille. Tuy chưa tiết lộ danh sách gồm những tiết mục biểu diễn, nhưng hẳn chắc là tác giả sẽ không thể nào hát được hết những bài hát ăn khách của ông. Đổi lại, tác giả này đã hứa rằng sẽ có một số điều bất ngờ thú vị. Giới hâm mộ chờ đợi Barbelivien sẽ mời nhiều nghệ sĩ lên hát chung, hy vọng sẽ có sự tham gia của Patricia Kaas, Enrico Macias, Félix Gray hay Philippe Lavil …. Theo dự kiến, vòng lưu diễn này sẽ kết thúc với buổi hòa nhạc hoành tráng tại nhà hát Folies Bergère ở Paris, đúng vào ngày sinh nhật của tác giả vào đầu tháng 3 năm 2024. Chuyến lưu diễn vòng quanh nước Pháp mang tên ''Chừng nào vẫn còn những bài hát'' (Tant qu'il y aura les chansons) một cái nháy mắt với bộ phim mà ông rất yêu chuộng (From here to Eternity / Tant qu'il y aura des hommes) với dàn diễn viên thần tượng như Debora Kerr, Burt Lancaster và Montgomery Clift.Cùng với hai bậc đàn anh là tác giả Pierre Delanoe và nhạc sĩ Claude Lesmesle, Didier Barbelivien gia nhập câu lạc bộ của những những ngòi bút có lượng sáng tác dồi dào nhất trong thế hệ tác giả Pháp nổi tiếng hậu bán thế kỷ XX. Bốn thập niên sau ngày vào nghề, Barbelivien vẫn còn nhiều dự án trước mắt, được mệnh danh là tác giả của hai ngàn điệp khúc, ông đeo đuổi sáng tác chừng nào ông vẫn còn sức, những cung thứ nhẹ nhàng cho tâm hồn bao thổn thức.

san diego congo xx lyon tours gi nh marseille bordeaux lille willie nelson ban toulouse tant ic jean fran nantes cho didier phi sau chuy trong julio iglesias burt lancaster sinh khi tuy montgomery clift michel sardou folies berg tropiques enrico macias

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Từ một hiệu bánh ban đầu khai trương năm 1957 ở số 44 đường Rue d'Auteuil quận 16 Paris, Lenôtre ngày nay là tủ kính của nghệ thuật ẩm thực cao cấp của Pháp với tổng cộng là 12 cửa hiệu-chủ yếu tại Paris và vùng phụ cận. Cũng Lenôtre trong trên dưới nửa thế kỷ là nhà cung cấp dịch vụ chính thức của từ tòa đô chính Paris đến điện Elysée qua nhiều đời tổng thống và luôn đứng trên đỉnh cao. Thành công đó có được bởi Gaston Lenôtre xưa kia và những người thừa kế ông ngày nay luôn khoác những chiếc áo mới cho nghệ thuật làm bánh ngọt du nhập vào Pháp từ thế kỷ XVII, để viết lên những trang sử mới cho nghệ thuật Pâtisserie của thế giới. Một trong gương mặt tiêu biểu nhất hiện nay là bếp trưởng về bánh ngọt Etienne Leroy.Con đường bước vào điện Elysée Không phải ngẫu nhiên mà nhà sáng lập ra hiệu bánh Lenôtre được mệnh danh là « Le Pâtissier du siècle », ông vua bánh ngọt của thế kỷ XX. Sinh năm 1920 ở vùng Normandie, miền tây bắc nước Pháp, Gaston Lenôtre năm 1947 lập nghiệp trên quê nhà. Nhưng chỉ 10 năm sau đó ông lên làm ăn ở Paris. Chăm chỉ cần cần cù và hiếu kỳ, Gaston đã gửi gắm tất cả những đam mê của ông vào những chiếc bánh … trước khi lấn sân sang cả lĩnh vực đồ ăn mặn. Với đầu óc kinh doanh và sự tinh tế, ông luôn phục vụ khách hàng chu đáo, đưa nghệ thuật xếp đặt và trang trí bàn ăn lên hàng kinh điển, nhờ đó Lenôtre nhanh chóng mở được cổng những biệt thư của các gia đình quyền quý nhất ở quận 16 Paris. Những buổi tiệc tùng trong những gia đình như Dassault, Hersant hay Lagardère, là bệ phóng đưa Gaston vào đến tận điện Elysée dưới thời tổng thống Georges Pompidou để rồi từ đó đến nay, bánh của Lenôtre vẫn có chỗ đứng riêng biệt tại các buổi tiếp tân của các nguyên thủ Pháp, của các tòa đại sứ hay những viện bảo tàng danh tiếng nhất.Năm 1998 khi Pháp tổ chức Cúp Bóng Đá Thế Giới thì cũng Lenôtre là sứ giả của nghệ thuật ẩm thực Pháp để nước chủ nhà chiêu đãi các thượng khách. Những kiểu bánh trở thành biểu tượng của nước Pháp Dù vậy sở trường của gia đình Lenôtre vẫn là bánh ngọt. Từ năm 1975 Lenôtre mở chi nhánh tại Berlin rồi Nhật Bản, Mỹ, gần đây nhất là tại Bangkok và Thượng Hải. Du khách quốc tế ngay khi nói đến Pâtisserie Pháp, không còn mấy ai xa lạ với bánh Opéra. Đó là công trình đưa danh tiếng Gaston Lenôtre lên đỉnh cao. Bánh hình chữ nhật, gồm ba lớp bánh bích-quy tẩm nước đường với mùi cà phê rất mạnh. Ở giữa những lớp bích-quy đó là một lớp kem kết hợp bơ, sô cô la và cà phê. Đặc biệt ở đây là bên trên mặt bánh là một tấm sô cô la và được trang trí với những đường cong và chữ Opéra viết nổi. Gaston Lenôtre nổi tiếng là người đã đem lại một làn gió mới cho ngành làm bánh -Pâtisserie của Pháp qua những « sáng tác mới » : mới cả về hình thức lẫn nội dung nhưng vẫn bảo toàn được phần gốc của công thức làm bánh nguyên thủy. Chính trong tinh thần đó khi tham gia hội chợ bánh ngọt Paris năm nay, hiệu bánh Lenôtre đã làm giàu thêm cho tủ sách Pâtisserie ba kiểu bánh mới. Từ sáng sớm cả một nhóm hơn 6-7 đầu bếp tấp nập tại gian hàng khá lớn với nhiều loại bánh thật đẹp mắt trong tủ kính. Nhưng khu vực « nóng » nhất của gian trưng bày là nơi vua bánh ngọt Etienne Leroy đang cùng với hai cộng sự, với nhiều dụng cụ trong tay như những ông thợ hàn hay những nhà thổi thủy tinh thì đúng hơn là những ông thợ làm bánh … Họ thổi, rồi nhào nặn, rồi pha mầu, rồi nung khuôn bánh, tay kìm tay búa …. Chẳng biết phép lạ nào mà chỉ ba giờ đồng hồ sau đó, những viên đường rất tầm thường hóa thân trở thành cả một lọ hoa trông như pha lê … Ông « Chef Pâtissier » Etienne Leroy về đầu quân cho Lenôtre từ mùa thu năm ngoái rất tự hào giới thiệu với thính giả của RFI tiếng Việt :« Hiệu bánh Lenôtre là một tượng đài của nghệ thuật ẩm thực Pháp và cũng là một di sản văn hóa của nước Pháp. Đó là điều đã thúc đẩy tôi về cộng tác với đại gia đình này. Lenôtre là cả một phần lịch sử của ngành làm bánh ngọt ở Pháp, bởi chính ông chủ đầu tiên của hiệu bánh, Gaston Lenôtre là một trong những người mở đường kết hợp kinh doanh và nghệ thuật Pâtisserie. Tên tuổi của hiệu bánh này được gắn liền với một số những sự kiện lớn, với những cái bánh mà đã trở thành biểu tượng của Pháp. Tôi muốn nói đến bánh Feuille d'Automne, bánh Opéra, le Succès hay bánh Schuss… Đương nhiên chúng tôi đã thay đổi công thức làm bánh theo thời gian, nghĩa là từ chiếc bánh từng làm nên tên tuổi của gia đình Lenôtre, chúng tôi đã sáng tạo nên những loại bánh mới, với những hình dáng mới, hương vị mới : đó là những sáng tác mới của các êkip rất năng động, họ đang viết nên những trang sử mới cho hiệu bánh Lenôtre. Feuille d'automne là một « sáng tác » của ông Gaston Lenôtre năm 1968 hình tròn, phủ một lớp bột sô cô la, trên mặt bánh một chiếc lá bằng sô cô la màu nâu như màu lá mùa thu khi đã lìa cành dùng để trang trí. Còn bánh Schuss (chữ này mượn từ tiếng Đức, chỉ tư thế của một vận động viên trượt tuyết đang lao dốc ở tốc độ rất nhanh) mà Etienne Leroy vừa nói cũng là một phát minh của Gaston cùng năm, nhân sự kiện Pháp tổ chức Thế Vận Hội Mùa Đông ở Grenoble. Sau cùng tên gọi của bánh Succès là bởi hiệu bánh Lenôtre đi từ thành công này đến thành công khác ! Cộng tác với những đầu bếp lừng danhĐể tiếp tục viết thêm những trang sử mới nghệ thuật làm bánh Pâtisserie, một bí quyết khác của gia đình Lenôtre là mời những đầu bếp xuất sắc nhất trong lĩnh vực này về đầu quân. Trong số những bếp trưởng đã có không ít những « nghệ nhân » hàng đầu từng đoạt danh hiệu « Meilleur Ouvrier de France » như là Guy Krenzer, có ông vua bếp Frédéric Anton mang sao Michelin và gần đây nhất đã có thêm sự cộng tác của Etienne Leroy. « Tôi từng đoạt Cúp Thế Giới về Pâtisserie năm 2017 đó là lần gần đây nhất nước Pháp đoạt được danh hiệu này. Cuộc thi diễn ra theo nhiều giai đoạn, hay đúng hơn là các thí sinh phải vượt qua nhiều bộ môn. Có môn thi về cách trình bầy, trang trí tức là ban giám khảo chấm điểm về mặt nghệ thuật tạo hình bằng sô cô la, bằng đường. Đây là công việc của một nhà điêu khắc. Các món bánh tráng miệng phải vừa ngon và vừa đẹp mắt nữa. Ngon không thôi chưa đủ. Và trong bài thi thì tôi đã thực hiện một món tráng miệng với nào là hạt dẻ, vanille và quýt… Rồi một cái bánh thứ nhì bằng sô cô la với quả chanh, với hạt điều … Chiếc đũa thần để viết nên một huyền thoại Lần này, bếp trưởng lo về mảng bánh ngọt của hiệu Lenôtre đem đến hội chợ Salon de la Pâtisserie 2023 ba loại bánh mới. Lộng lẫy trong tủ kính là những cái bánh hình bông hoa 5 cánh, nhụy đỏ. Vua bánh ngọt của Lenôtre say mê nói về những sản phẩm mới và có lẽ là anh tâm đắc nhất với La Tropézienne : « Lenôtre hiện có 12 cửa hiệu trên toàn nước Pháp và chúng tôi đã mang đến hội chợ bánh ngọt Paris ba kiểu bánh vừa sáng tạo ra và chỉ dành riêng cho khách tham quan. Trong đó có bánh La Tropézienne với hương quả chanh của vùng Menton, với quả framboise -phúc bồn tử, một thoáng nước hoa cam để gợi nhớ mùa hè. Cái bánh thứ nhì làm từ hạt dẻ và sau cùng là một loại bánh flan với vị vanille và caramelđể gợi nhớ hương vị của tuổi thơ… La Tropézienne là một loại bánh hết sức cổ điển của làng bánh ngọt Pháp, làm từ bánh mì nhẹ và xốp (brioche), chúng ta cắt bánh ra làm đôi ngâm với nước đường. Trong nước đường đó có nước hoa cam. Vì là những chiếc bánh của mùa hè, bánh phải nhẹ phải xốp và khuôn bánh là hình những bông hoa. Ở giữa là một lớp kem với một chút mứt chanh hơi nhận nhận đắng, có quả framboise nấu chín thành mứt và để trang trí, nhụy hoa phải là một quả mâm xôi chín, đỏ mọng … ».Xin nói qua một chút về nguồn gốc tên gọi La Tropézienne : thực ra đây sản phẩm của một ông thợ làm bánh người Ba Lan Alexandre Micka sang Pháp định cư vào thập niên 1950. Mở hiệu bánh tại ngôi làng chài Saint Tropez vùng Địa Trung Hải, ông làm bánh theo công thức gia truyền, đơn giản là bánh mì mềm với chút nước hoa cam và một lớp kem béo ngậy ở giữa, vài hạt đường trên mặt bánh. Năm 1955 đạo diễn Roger Vadim đến đây thực hiện bộ phim Et Dieu … créa la femme với ngôi sao màn bạc Brigitte Bardot thủ vai chính. Phục vụ ăn uống cho đoàn phim, Alexandre Micka có dịp mời mọi người thưởng thức những cái bánh của tuổi thơ, và thế là cô đào BB đề nghị gọi bánh đó là bánh Tarte của Saint Tropez hay đơn giản là La Tropézienne. Công thức ban đầu không cầu kỳ như Etienne Leroy vừa mô tả nhưng đúng là dưới chiếc đũa thần của Lenôtre bánh La Tropézienne hình bông hoa với nhụy đỏ, một chút đường như lớp phấn trắng trên mặt bánh trở nên sang trọng muôn phần. Đòi hỏi về thẩm mỹ rất caoĐiều đó dễ hiểu khi biết rằng, truyền thống làm nên tên tuổi gia đình Lenôtre là kết hợp vị ngon của bánh với cái đẹp : mỗi chiếc bánh có đính nhãn hiệu của « ông tổ » Gaston phải đáp ứng những tiêu chuẩn rất cao về thẩm mỹ. Đó là lý do vì sao mà từ sáng sớm cả một êkip Lenôtre làm việc không ngớt tay để tạo ra ra một lọ hoa như một một bức tranh vẽ, như một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc … đó là cả một trường phái của dòng nghệ thuật ẩm thức Pháp. Etienne Leroy kết luận : « Ngoài các cửa hiệu, Lenôtre còn mở trường dậy làm bánh. Gaston Lenôtre từng là ông vua bếp đầu tiên mở trường dậy nấu ăn để truyền đạt lại nghệ thuật làm bếp. Chúng tôi muốn tiếp nối truyền thống đó với việc mở trường dậy làm bánh ở Rungis. Chúng tôi mời các nhà làm bánh nổi tiếng đến đây để đào tạo cho các học viên về Pâtisserie, truyền đại lại nghệ thuật gọi là sucre d'art tức là chế biến đường mà chúng ta thường dùng để làm bánh, nấu nướng hay làm mứt … thành những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tinh vi. Nghệ thuật ẩm thực và nhất là với nghề làm bánh ngọt, điều quan trọng là nghệ thuận trình bày những cái bánh sao cho đẹp mắt. Hôm nay chúng tôi biến những viên đường bình thường thành một lọ hoa cắm hoa trong như thủy tinh, thành những bông hoa như là pha lê. Những viên đường ở đây trở thành bình hoa, thành những giải lụa, thành bông hoa muôn màu. Công việc này giống như một nghệ nhân thổi thủy tinh vậy. Đây là một công trình gắn liền nghệ thuật làm bánh ngọt với nghệ thuật sucre d'art … Tức là chúng tôi có thể chế biến những nguyên liệu thành một tác phẩm điêu khắc đẹp mắt để làm tôn thêm vẻ đẹp cho mỗi món ăn. Mỗi người thợ làm bánh là một nghệ nhân và mỗi chiếc bánh là một tác phẩm có thể được trưng bày trong tủ kính hay trên bàn tiệc. Đấy chính là ADN của chúng tôi để tôn thêm vẻ đẹp cho những cái bánh ngọt ! ».

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Nhà nghiên cứu lịch sử Bùi Trân Phượng vừa kết thúc chương trình giảng dạy trong ba tháng tại trường Collège de France về chủ đề Phụ Nữ Việt Nam : Quyền năng, văn hóa và đa căn tính. Bà từng du học, rồi bảo vệ luận án tiến sĩ tại Pháp, tức là biết rõ hệ thống đại học ở Pháp, nhưng kinh nghiệm giảng dạy ở Collège de France, đó lại là một câu chuyện khác. Giáo sư Bùi Trân Phượng được mời trong khuôn khổ Chaire Annuelle Mondes Francophones, một phần do Tổ Chức Đại Học Pháp Ngữ tài trợ. Collège de France không hoàn toàn là một trường đại học hiểu theo nghĩa các học viên phải đăng ký vào trường và sinh viên sẽ thi tốt nghiệp. Hơn nữa, khi mời giáo sư đến thỉnh giảng, trường trao trọn quyền tự do cho vị khách mời để trình bày về những « nghiên cứu đang tiến hành » đúng theo tình thần tự do, cổng trường rộng mở và miễn phí cho các học viên như 5 thế kỷ về trước khi nhà vua François I có ý tưởng thành lập ra Le Collège Royal. Đến năm 1870 học viện này đổi tên thành Collège de France. Với năm tháng, thể thức vận hành của trường cũng đã có một số thay đổi như là mời một số nhân vật tên tuổi của thế giới tham gia, đưa những bộ môn mới (về công nghệ, về kỹ thuật số, về mỹ thuật …) vào chương trình giảng dạy. Một trong những vị khách mời của trường năm nay là nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam, giáo sư Bùi Trân Phượng.Nhân dịp này giáo sư Phượng dành thời gian chia sẻ với RFI Việt ngữ về kinh nghiệm rất thú vị của bà sau ba tháng giảng dạy tại Collège de France.RFI : Kính chào giáo sư Bùi Trân Phượng, thưa bà Collège de France là một biểu tượng về sự truyền đạt về tri thức của nước Pháp. Đây là một trường rất danh tiếng với thể thức vận hành khá đặc biệt. Đến với trường, giáo sư có điều gì bỡ ngỡ hay không ?Bùi Trân Phượng : « Khác biệt đầu tiên là ở Collège de France, khi tôi được mời giảng dạy, họ đề nghị tôi đưa cho họ đề cương nghiên cứu – nghiên cứu đang tiến hành, chứ không phải là nghiên cứu đã xong rồi mà tôi đã đi giảng dạy ở những trường khác rồi. Đó là khác biệt đầu tiên. Những trường khác có chương trình của họ và họ sẽ đề nghị nếu họ thấy tôi có chuyên môn. Khác biệt ở đây là trường Collège de France hoàn toàn trao quyền tự do đó cho tôi. Hôm đầu tiên đến trường để chuẩn bị cho bài giảng đầu khóa, trường yêu cầu tôi đến trước một tiếng đồng hồ. Tôi ngạc nhiên, vì thấy rằng không cần đến một tiếng đồng hồ nếu chỉ là để sử dụng micro ghi âm … Nhưng khi đến, tôi mới hiểu rằng, trường có một số nghi thức bài bản. Họ trân trọng giới thiệu giáo sư mới. Đó là cả một nghi thức truyền thống của trường và tới nay họ vẫn làm như vậy. Kế tới tất cả các bài giảng đều được thu âm, thu hình. Thế rồi khi làm việc với nhân viên kỹ thuật, tôi được biết trường có 350 giảng viên và nhân viên. Từng điều hành đại học Hoa Sen, tôi biết 350 người là nhiều lắm. Vậy tôi hỏi tiếp là trường phục vụ bao nhiêu học viên và được trả lời là họ không biết do sinh viên không đăng ký. Trước đó thì tôi cũng được biết ở Collège de France, sinh viên không thi đầu vào, không thi đầu ra, không có chấm điểm hay kiểm tra. Người ta không đến đây vì văn bằng, chứng chỉ mà đơn thuần là vì tri thức mà thôi. Tôi nghe vậy, biết vậy, nhưng khi chạm vào thực tế thì mới biết rằng mọi người vào cửa tự do để dự những bài giảng, bài giảng đầu khóa, hay hội thảo … Lần đầu tiên tôi trông thấy điều đó : rất ấn tượng và cảm động khi thấy những mái đầu bạc bên cạnh những mái đầu xanh. Rất nhiều mái đầu bạc trắng cần mẫn ghi chép (...) » RFI : Tức là trong cử tọa có những sinh viên, những người nghiên cứu hay am hiểu về lịch sử Việt Nam về văn hóa của người châu Á cũng như là những người không biết gì nhiều về khu vực này, về phụ nữ Việt Nam … Vậy khi giảng bài trước một cử tọa đa dạng như vậy thì giáo sư đã phải soạn bài vở như thế nào ?Bùi Trân Phượng : « Thật ra tôi cũng đã suy nghĩ nhiều lắm. Đây là lần đầu tiên tôi đến với một công chúng như vậy trong khuôn khổ đại học. Nếu như ở Việt Nam thì đó là khi đi các diễn đàn xã hội, ai đến cũng được và không biết trước "background" (nền tảng kiến thức, xuất thân) của họ như thế nào. Nếu như là sinh viên, tôi có thể giả định được là họ có một số kiến thức nào đó và trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Nhưng trong trường hợp này, trước mặt tôi là một công chúng đa dạng. Tôi cũng không thể giả định họ biết gì về Việt Nam. Điểm ràng buộc thứ ba là bài giảng phải ở một trình độ tri thức cao vì Collège de France không chỉ là một trường đại học, mà còn là một trường rất uy tín. Vậy làm thế nào đưa được những tri thức ở trình độ cao, thể hiện những nghiên cứu mới, những nghiên cứu đang tiến hành của tôi. Đó là một thách thức (…) ».RFI : Sau ba tháng đứng trên bục giảng tại một trong những trường uy tín nhất của nước Pháp, điều gì khiến giáo sư hài lòng hơn cả ?Bùi Trân Phượng : « Điều khiến tôi hài lòng nhất là về người học. Tôi thấy đây là công chúng học viên thú vị nhất. Trong đó có những sinh viên đang theo học các chương trình đại học ở những trường có hợp tác vớiCollège de France, nên họ được quyền lấy bài giảng ở Collège de France để đưa vào chương trình của họ. Hợp tác này giữa các trường đại học là điều mà trước đây khi còn điều hành Hoa Sen tôi từng mơ ước mà chưa làm được. Sinh viên của Hoa Sen chưa thể lấy tín chỉ từ các đại học khác ở Việt Nam dù rằng đã có thể làm như vậy với các đại học ở những nước khác, với những trường quốc tế ».RFI : Vậy sinh viên từ các trường đại học khác khi đến gặp giáp sư ở Collège de France thì họ đã có những yêu cầu gì đặc biệt ?Bùi Trân Phượng : « Họ phải nói cho tôi biết tại các trường của họ, thi vấn đáp và thi viết như thế nào, để có được tín chỉ thì phải làm những gì. Sau đó tôi sẽ ra đề cho họ và đây là công việc của một giảng viên đại học bình thường. Bên cạnh đó thì tôi có những học viên là chuyên gia hay những người lớn tuổi đến đây vì tri thức. Số này có những phản hồi rất thú vị, rất đặc biệt (...). Đối với người giảng dạy, bao giờ và bất kỳ ở đâu tôi cũng luôn thận trọng nói rằng đây là sự hiểu biết của tôi cho đến ngày hôm nay. Sau này người ta nghiên cứu tiếp. Tôi hay người khác sẽ phát hiện ra những điều khác và chúng có thể phủ định hoàn toàn điều tôi nói ra ngày hôm nay. Nhưng ở Collège de France, đây thực sự là lần đầu tiên tôi giảng cái đang nghiên cứu và điều đó làm tôi rất vui ».RFI : Từng điều hành một trường đại học ở Việt Nam, từng giảng dạy tại Việt Nam, bà lại rất quen thuộc với hệ thống giáo dục cấp đại học của Pháp, … với kinh nghiệm ở Collège de France giáo sư thấy rằng có thể cải thiện được hệ thống đại học ở Việt Nam trên một số điểm nào ?Bùi Trân Phượng : « Ở Việt Nam thì tôi không muốn điều gì nữa hết. Từ lâu rồi, từ khi rời khỏi Hoa Sen, tất nhiên là sau đó tôi có nỗ lực cộng tác với một vài trường, nhưng mà sau vài ba năm, tôi hiểu là Việt Nam không còn làm được gì nữa hết ở đại học. Đại học công là một bộ máy nặng nề và đầy công chức. Còn đại học tư thì chỉ là những bộ máy kiếm tiền. Nhưng giảng dạy và tiếp xúc với học viên như ở Collège de France cho tôi nhiều ý tưởng về nghiên cứu. Collège de France cho tôi trải nghiệm rất quý giá : chuẩn bị bài giảng phải công phu hơn ở những nơi khác. Vì thời gian bị hạn chế, mỗi bài giảng thu gọn trong 60 phút, cho nên bắt buộc tôi phải chắt lọc, phải viết ra toàn bộ và một cách chi li. Điều đó đòi hỏi từng chữ một của tôi phải có một sự cân nhắc cẩn trọng. Đó là một kinh nghiệm quý. Cho nên sau Collège de France tôi có hứng thú viết sách thì đúng hơn ».RFI xin cảm ơn giáo sư Bùi Trân Phượng đã chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy tại trường Collège de France trong khóa học 2023.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Tiếng ve kêu mùa hạ trên sóng biển dạt dào, chỉ cần khúc nhạc dạo đầu trỗi lên, giới yêu nhạc Pháp nhận ra ngay tình khúc mùa hè ''28°à l'ombre'' (28 độ dưới bóng râm) của tác giả Jean-François Maurice. Được phát hành lần đầu tiên vào năm 1978, giai điệu này gần đây ăn khách trở lại qua phiên bản hòa âm điện tử của ban nhạc Pháp Bon Entendeur. Tuy còn trẻ, nhưng bộ ba nhạc sĩ hòa âm này lại chuyên phối lại các giai điệu xưa, giúp cho thế hệ trẻ có thói quen nghe nhạc trực tuyến khám phá lại tủ nhạc của Pierre Bachelet (Emmanuelle, Em xa nghìn trùng) cũng như của Jean-François Maurice, nghệ danh của Jean Albertini (1947-1996). Bản nhạc ''28° à l'ombre'' còn có tiểu tựa là Monaco, nằm giữa Pháp và Ý, bên bờ Địa Trung Hải. Biểu tượng nổi tiếng nhất của công quốc này là Monte Carlo (Mont Charles) đặt theo tên của thân vương Charles de Monaco.Tác giả của nhiều bài hát ăn khách những năm 1970 Lúc sinh tiền, Jean Albertini trước hết là một nhà sản xuất đĩa hát, đồng thời ông là giám đốc nghệ thuật kiêm tác giả hợp tác với các ca sĩ nổi tiếng như Christophe, C. Jérôme hay Michèle Torr. Jean Albertini từng viết lời cho nhạc phẩm ''La Plage aux romantiques'' (Bờ biển mộng mơ) cho Pascal Danel (1966), ''Et tu danses avec lui'' (tựa tiếng Việt là Em đã dối anh) cho C. Jérôme (1985), cũng như nhiều ca khúc ăn khách của Michèle Torr trong đó có các nhạc phẩm ''Emmène-moi danser ce soir'' (1978) hay ''Toute la ville en parle'' (1987). Nét đặc thù của ''nghệ sĩ'' Jean Albertini là ông không hát mà chủ yếu dùng giọng nói trầm khàn của mình để diễn đạt tình cảm khi kể lại một câu chuyện. Nhiều thập niên trước ngày khai sinh thể loại thơ nói slam, nhiều nghệ sĩ từng khai thác lối kể chuyện dựa trên giai điệu nhiều hơn là (cách dùng flow) trên nhịp điệu. Trong tiếng Pháp, có hẳn một danh từ dành riêng cho trường phái này (conteur) và hiện thân nổi tiếng nhất vẫn là Juliette Gréco, nàng thơ phố Saint Germain des Prés (đi trước hai nghệ sĩ Serge Reggiani và Serge Gainsbourg). Khi nghi âm với giọng nói của mình, Jean Albertini lấy nghệ danh Jean-François Maurice. Cho dù ông thành công trong hơn một thập niên (1965-1977) nhờ sáng tác ca khúc cho nhiều ca sĩ, nhưng đến khi phát hành đĩa nhạc của mình, ông lại chọn phóng tác một bản nhạc tiếng Anh (của một ban nhạc Ý) sang tiếng Pháp. Nhạc phẩm ''28° à l'ombre'' trong nguyên tác lại có tên là ''Mexico'' do ban nhạc Ý SanDiego ghi âm vào năm 1978 tại phòng thu thanh Milano. Nhóm này gồm bốn thành viên, tác giả Mauro Giordani, hai anh em nhạc sĩ Mario và Gabriele Balducci, thành viên thứ tư là Ronny Hanson, ca sĩ chính kiêm tác giả soạn lời tiếng Anh cho nhạc phẩm ''Mexico'' (Monaco trong tiếng Pháp). Thế thì tại sao khi phóng tác giai điệu nguyên tác sang tiếng Pháp, Jean-François Maurice (Jean Albertini) lại không giữ nguyên tên địa danh Mexico mà lại chuyển thành Monaco . Để hiểu được điều này thì ta phải tìm về tuổi thơ của chính tác giả. Sinh tại thành phố Marseille, miền nam nước Pháp, nhưng lớn lên ở Paris, Jean Albertini thời còn nhỏ khám phá âm nhạc một cách gián tiếp. Gia đình ông sống gần trường trung học Condorcet (Paris quận 9) ở ngay bên cạnh nhà của bố mẹ Claude Nougaro, sau này nổi tiếng là một trong những nghệ sĩ thiên về nhạc jazz của Pháp. Thời hậu chiến, vì gia đình còn quá nghèo, cho nên Jean Albertini chủ yếu nghe nhạc ở nhà hàng xóm trên đài phát thanh Radio Monte Carlo. Giai thoại xung quanh nhạc phẩm ''28° à l'ombre''Cũng từ những kỷ niệm tuổi thơ ấy, Jean Albertini trở nên gắn bó với công quốc Monaco, một địa danh mà nhiều thập niên sau ông mới có cơ hội viếng thăm. Jean Albertini với nhạc trưởng Yvon Rioland từng viết nhạc phẩm ''Les jardins de Monaco'' (Công viên Monaco) cho ban song ca Caline & Olivier Toussaint đại diện cho công quốc này nhân cuộc thi hát truyền hình châu Âu Eurovision năm 1978. Chính nhạc trưởng Yvon Rioland đã thực hiện bản phối cho nhạc phẩm Monaco / ''28° à l'ombre'', tạo thêm sức truyền cảm cho giọng đọc và nét khiêu gợi tình tứ cho giai điệu bản nhạc. Còn theo lời kể của Maryse Gildas làm việc cho đài phát thanh Europe 1, khi gửi bài hát này đến các toà soạn, ông Jean Albertini đã giành ưu tiên cho đài Radio Monte Carlo, chứ không muốn phổ biến ngay trên các đài khác. Một khi xuất hiện trên làn sóng phát thanh, giai điệu trở thành tình khúc ăn khách nhất mùa hè. Mặc dù bài hát hai lần thành công trên thị trường, lần đầu tiên vào năm 1978 và lần thứ nhì khi được tái bản vào năm 1982, nhưng Jean Albertini van nấp đằng sau nghệ danh Jean-François Maurice, cho nên công chúng hoàn toàn không biết gương mặt thật của người nghệ sĩ Ông tiếp tục khai thác công thức này và ghi âm nhiều bài hát khác sau đó (chẳng hạn như ''La rencontre'', ''Maeva'', ''Ma jeunesse'', ''Aurevoir musicienne'' ….), cho dù không có bản nhạc nào đạt mức thành công của bài Monaco ''28° à l'ombre''Đột ngột ra đi quá sớm vì bạo bệnh ở tuổi 49, tác giả Jean Albertini đã sản xuất hơn 80 bài hát trong khoảng hai thập niên, kể cả giai đoạn thứ nhì hợp tác với tác giả Didier Barbelibien và Félix Gray đầu thập niên 1990 (À toutes les filles, Il faut laisser du temps au temps). Rốt cuộc, nghệ danh Jean-François Maurice chỉ gắn liền với ca khúc Monaco ''28° à l'ombre'', trong khi Jean Albertini đã viết khoảng 30 ca khúc ăn khách cho nhiều ca sĩ khác. Hơn bốn thập niên sau ngày ra đời, phiên bản tiếng Pháp ''Monaco / 28° à l'ombre'' tiêp tục ăn khácg nhờ các bản phối mới của các tay hòa âm như Bon Enntendeur, Dim Zach hay Deejay Pantanelis. Tuy giai đoạn thành công khá ngắn ngủi, nhưng đó lại là vầng hào quang sáng ngời của một người luôn ở trong bóng tối.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Năm 2023 đánh dấu 100 năm ngày mất của Gustave Eiffel. Các sự kiện nhằm tưởng nhớ đến ông được tổ chức tại nhiều nơi trên thế giới. Tên tuổi của vị kiến trúc sư được hậu thế lưu danh, với những công trình đồ sộ trở thành biểu tượng như tháp Eiffel và tượng Nữ thần Tự do. Đằng sau sự ghi nhận đó là một cuộc đấu tranh của Hiệp hội Hậu duệ của Gustave Eiffel, nhằm quảng bá hình ảnh cũng như bảo vệ tên tuổi của ông cũng như các công trình mà Eiffel xây dựng. RFI Việt Ngữ có dịp trao đổi với bà Myriam Larnaudie-Eiffel, cháu gái đời thứ năm của Gustave Eiffel, hiện giữ chức chủ tịch Hiệp hội Hậu duệ của Gustave Eiffel. Bà cũng là người lập ra Hiệp hội Sauvons la passerelle Eiffel - Cứu lấy cầu Eiffel, ở Bordeaux, dấu ấn đầu tiên của Eiffel trong sự nghiệp kiến trúc xây dựng của ông. Xin cảm ơn bà Myriam Larnaudie-Eiffel, đã dành thời gian trả lời phỏng vấn của RFI. Trước tiên, xin bà cho biết Hiệp hội Hậu duệ của Gustave Eiffel được thành lập từ khi nào, và với mục đích gì ? Anh cả của tôi, Xavier Larnaudie-Eiffel, lập ra tổ chức này vào năm 1995. Tại sao lại lập ra một hiệp hội như vậy ? Đầu tiên là để những thành viên của đại gia đình Eiffel có thể biết nhau. Hiện chúng tôi gồm 70 thành viên, là con cháu của Eiffel. Tôi đã từng là trợ lý của nhiều chủ tịch hiệp hội khác nhau. Tôi đã có thể đóng góp kĩ năng nghề nghiệp như là một giám tuyển vào hiệp hội, cùng với trí tò mò và mong muốn của tôi thắt chặt liên kết với Gustave Eiffel. Hiệp hội của chúng tôi có nhiều nhiệm vụ. Một trong số đó là tìm cách hiểu sâu, có thêm kiến thức về Eiffel, bởi những công trình mà ông tạo ra ở tầm quốc tế, được quốc tế biết đến. Tên của ông có lẽ là một trong những tên tuổi được biết đến nhiều nhất thế giới nhờ vào tháp Eiffel. Tuy nhiên, đằng sau cái tên đó, chúng tôi cũng vẫn chưa thể biết hết được tất cả những gì ông đã làm và đến trình độ nào mà ông đã đạt được, để có thể thực hiện những công trình đó. Do đó, thông qua một ban khoa học, chúng tôi đưa ra đề xuất, để có thể tiếp cận các kiến thức phong phú hơn, nhờ vào những lời chứng của mọi người, của các nhà khoa học, nhà lịch sử. Khi được sinh ra mang họ Eiffel, liệu bà có cảm thấy phải mang một trọng trách đặc biệt nào đó đối với gia tộc của mình hay không ? Điều này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống hay định hướng công việc của bà hay không ? Đúng là khi là một hậu duệ của Eiffel, tôi nhanh chóng cảm thấy có trách nhiệm phải biết về cuộc đời của Gustave Eiffel cũng như về các công trình của ông. Nghề nghiệp của tôi đó là giám tuyển, phụ trách đấu giá (commissaire priseur) tại Paris và Bordeaux. Đó là một nghề đòi hỏi chuyên môn, cần khám phá và cần có trí tò mò, trau dồi kiến thức và tiếp cận lịch sử một cách đa dạng. Nghề của tôi cho phép khám phá những đồ vật, những công trình mới mỗi ngày. Chúng tôi cần bổ sung cho kho kiến thức rộng lớn và việc đặt chân vào thị trường nghệ thuật, trau dồi cho tôi trí tò mò cũng như có kiến thức về lịch sử, và có thể điều này đến từ tổ tiên của tôi, cho phép tôi hiểu rõ về tổ tiên của tôi. Là thành viên của hiệp hội giống như một hành trình đi ngược thời gian. Qua việc bảo tồn di sản, lịch sử chúng tôi cũng đã có được nhiều bài học. Thực tế đôi khi khá là tương phản. Đôi lúc chúng tôi cảm thấy có tầm quan trọng lớn khi nhìn vào những ánh mắt ngưỡng mộ của mọi người đối với những gì mà Eiffel đã làm ra, khiến cho chúng tôi thấy được rằng những gì chúng tôi làm là nghiêm túc và sâu sắc. Trái lại điều này đôi lúc cũng khiến chúng tôi phải thực sự đấu tranh. Giống như là cuộc chiến phòng thủ, bảo vệ hình ảnh, công trình của Eiffel. Bởi vì đôi khi, chúng bị đe dọa phá huỷ, như trường hợp của cầu Saint-Jean ở Bordeaux. Không chỉ với tháp Eiffel, các công trình của Gustave Eiffel đã vượt ra ngoài lãnh thổ Pháp, như tượng Nữ thần Tự do ở Hoa Kỳ, cầu Maria Pia ở Bồ Đào Nha, nhà ga xe lửa ở Budapest, Hungary, các công trình cầu đường ở châu Mỹ La Tinh hay ở cả Đông Dương. Với quy mô quốc tế như vậy, liệu bà có gặp phải khó khăn gì trong quá trình bảo tồn những di sản mà Eiffel để lại hay không ? Dĩ nhiên, với tính quốc tế trong di sản của Gustave Eiffel, chúng tôi cũng đã gặp nhiều vấn đề, ngay cả khi hiệp hội của chúng tôi dần dần đã phát triển, có những thành viên quốc tế trong ban khoa học. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa có đủ tiếng tăm. Chúng tôi đã đến những nước có công trình của ông, nhưng chỉ kết nối về mặt ngoại giao là chưa đủ. Chúng tôi cần tìm thêm các nhóm, ban khoa học về công trình của Eiffel trong các nước khác trên thế giới để cùng làm việc với nhau một cách hiệu quả. Khó khăn thứ hai là về việc thiếu tư liệu. Ngay cả khi gia đình chúng tôi nắm giữ các tư liệu về đơn hàng trong các xưởng của Gustave Eiffel, nhưng không vì thế mà có thể làm sáng tỏ tất cả các bí ẩn về những công trình của Eiffel, đôi khi có những công trình được gắn tên Eiffel nhưng lại không phải là do ông xây dựng. Chúng tôi liên tục phải làm những việc như tách biệt đâu là thật đâu là giả, một cách trung thực nhất. Thứ nhất là để xác định công trình thực sự của ông và đồng thời để có thêm kiến thức về phong cách thiết thế có hơi hướng kiểu Eiffel nhưng không gắn tên của ông. Đó là một công việc rất thú vị nhưng cũng có quá nhiều việc phải làm. Bà có ví dụ nào cụ thể về việc phải xác định thực giả trong các công trình của Eiffel hay không ? Chúng tôi nhận được email được gửi đến từ khắp nơi trên thế giới. Đó thường là những yêu cầu xác nhận tác giả, phải chăng công trình đó do Eiffel làm ra. Đôi khi chúng tôi có thể công nhận, nhưng đôi khi lại không, bởi vì một số công trình đó, không có giấy tờ nào do Eiffel kí, một số được xây dựng sau, và nhiều khi các tài liệu trữ bị mất. Do vậy, đây là một câu hỏi khá là phức tạp, khó có thể trả lời. Gần đây, tôi đã có liên lạc với một nhà sử học, nghiên cứu về hải đăng trên thế giới, tôi đã rất vinh dự được gặp ông ấy ở Estonia và khám phá lại công trình của Gustave Eiffel ở quốc gia này, những tháng vừa qua, chúng tôi đã thực hiện những bước mang tính quyết định, cho phép xác định rằng những ngọn hải đăng này là do Eiffel xây dựng, nhưng sử dụng một cái tên khác trong tệp đơn đặt hàng. Eiffel đã từng có một bằng về chiếu sáng (brevet éclairage). Điều này cho phép chúng tôi nghiên cứu thêm về những ngọn hải đăng ở Pháp. Năm 2023 là dịp kỉ niệm 100 năm ngày mất của Gustave Eiffel, ngày 27/12/1923, có nhiều hoạt động, hội thảo, triển lãm được diễn ra tại nhiều nơi, tại tháp Eiffel, cầu Bordeaux hay Đài quan sát thiên văn ở Nice tại Pháp. Trên thế giới, nhiều hoạt động cũng được tổ chức như ở Hoa Kỳ hay Hungary, liệu việc tổ chức các hoạt động kỉ niệm ở nước ngoài có dễ dàng hay không Có thể nói rằng những nơi được lựa chọn tổ chức là từ các mối liên hệ với các nhà nghiên cứu hoặc các bên xây dựng tại chỗ. Ngoài ra, một số địa điểm có công trình của Eiffel, chúng tôi có thể dễ dàng liên hệ với những người tại nước đó hơn và đó cũng phải là những nơi mong muốn tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày mất của Eiffel. Tôi biết rằng việc bố trí đèn chiếu sáng các công trình của Eiffel sẽ được thực hiện ở Bordeaux và Nice, có thể là những nơi khác, như Hoa Kỳ, hiện vẫn có nhiều sự kiện đang trong quá trình chuẩn bị. Cụ thể như ở cầu Bordeaux và Đài thiên văn Nice, chúng tôi sẽ treo một dòng chữ : “Gustave Eiffel, thách thức của sắt thép trước những cơn gió vượt thời gian”, để chỉ ra tính phổ quát trong công trình của Eiffel, bất tử (với thời gian). Chúng tôi chọn tổ chức ở Budapest bởi vì sợi dây liên kết giữa Eiffel và nhà ga xe lửa thật đẹp và đặc biệt là đã được trùng tu và bảo tồn rất tốt. Nhân dịp này, tôi đã đến Budapest vào tháng trước, và khám phá một di sản tuyệt đẹp của Gustave Eiffel, đồng thời đề xuất tổ chức lễ kỉ niệm ở đây. Còn tại Hoa Kỳ, chúng tôi tập trung vào khai thác góc nhìn về Eiffel như một nhà nghiên cứu, với một bảo tàng ở Hoa Kỳ, Smithsonian Institution, sự kiện này cho phép khám phá về Eiffel trong ngành hàng không và những nghiên cứu của ông với Louis Blériot và Breguet, cũng như tượng Nữ thần Tự do, một công trình quan trọng với Eiffel và với người dân Mỹ.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Số báo cổ nhất của tờ Gia Định báo được lưu trữ ở đâu ? Chắc hẳn rất nhiều người sẽ bất ngờ khi biết là số báo này được lưu ở Thư viện đại học Các ngôn ngữ và Văn minh BULAC tại Paris. Cho đến ngày 31/05/2023, người quan tâm có thể nhìn thấy số 4, xuất bản ngày 15/07/1865, cùng với rất nhiều tác phẩm cổ khác trong khuôn khổ triển lãm « Chữ quốc ngữ, nhân tố cơ bản trong sự đổi mới văn hóa Việt Nam từ năm 1860 đến 1945 ». Những tác phẩm này nằm được đặt trong tủ kính, ngay lối đi chính ở tầng trệt của thư viện để mọi độc giả có thể ngắm. Chị Nguyễn Thị Hải, phụ trách phông tiếng Việt và triển lãm, giới thiệu : « Đây là một triển lãm nhỏ do BULAC tổ chức. Người xem có thể xem rất nhiều cuốn sách mà trước đây chỉ được nghe nói đến, ví dụ từ điển của Alexandre de Rhodes, từ điển của Taberd, hoặc những cuốn sách đầu tiên được xuất bản bằng chữ quốc ngữ ở Thái Lan, những cuốn sách được xuất bản bằng chữ quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký, cuốn tiểu thuyết đầu tiên theo phong cách phương Tây ở Việt Nam như Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, hoặc tờ Gia Định báo, tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên, với số báo được gọi là cổ nhất hiện nay được lưu trữ tại BULAC.Các bạn cũng có thể nhìn thấy những cuốn sách dịch của Trương Vĩnh Ký, những cuốn sách dịch của Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản từ những năm 1909 như Tam quốc chí diễn nghĩa hoặc Ba người lính ngự lâm pháo thủ, Những người khốn khổ hoặc Qui-li-vơ du ký… Những cuốn sách đó được lưu trữ ở BULAC từ rất lâu mà có rất nhiều độc giả không biết đến. Đây là lần đầu tiên BULAC giới thiệu đến độc giả những cuốn sách được xuất bản bằng chữ quốc ngữ từ giữa thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX ».Một trong những phông tiếng Việt cổ nhất PhápPhông tiếng Việt của BULAC là một trong những phông cổ nhất Pháp, khoảng 150 tuổi vào năm 2023, rất phong phú với khoảng 13.000 đầu sách (16.500 cuốn), cùng với khoảng 100 tạp chí và đầu báo. BULAC mở cửa rộng rãi cho công chúng, không cần bất kỳ điều kiện nào.Mai Lan Urrizalqui, học thạc sĩ ngành Quan hệ Quốc tế tại trường INALCO, một độc giả thường xuyên của BULAC, cho biết :« Em học tiếng Việt vì em là người Pháp gốc Việt. Em thường đến BULAC để đọc sách về khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam vì có nhiều sách về khoa học chính trị và kinh doanh quản lý ở Việt Nam. Ngoài ra cũng có nhiều sách về nghiên cứu ở Việt Nam và ngữ pháp để luyện tập tiếng Việt ».Lou Vargas, hiện là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành Lịch sử tại Trường Cao đẳng Thực hành (EPHE), học tiếng Việt vì đam mê từ nhỏ nhờ một người bạn gốc Việt :« Trước đây khi em học tiếng Việt, em đến BULAC thường xuyên để tra từ điển, đọc các tác phẩm văn học Việt Nam, xem cách nghiên cứu về địa lý, lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Bây giờ, em đang làm luận án tiến sĩ về bia hậu. Vì BULAC mở cửa cho tất cả mọi người, cho nên em cũng thường xuyên quay lại đây để làm việc, để mượn sách và hôm nay em đến để trả sách ».Phông tiếng Việt của BULAC được gộp từ nhiều thư viện khác nhau : một phần của Viện Viễn Đông Bác Cổ - EFEO, Khoa Ngôn ngữ và Văn minh Đông Á - LCAO của Đại học Paris Cité và nhất là từ Thư viện liên đại học các ngôn ngữ phương Đông - BIULO. Sách báo bắt đầu được sưu tập ngay năm 1869 khi Trường Sinh ngữ phương Đông - INALCO mở khoa tiếng Việt và đặc biệt là nhờ công của Abel Des Michel, năm 1872 được bổ nhiệm làm giáo sư Trường Sinh ngữ phương Đông. Ngoài viết sách, ông còn liên kết với các nhà nghiên cứu Việt Nam thời đó, như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của để mua sách xuất bản ở Sài Gòn rồi đưa sang Pháp làm công cụ giảng dạy và nghiên cứu tiếng Việt tại Paris. Chị Nguyễn Thị Hải nói tiếp : « Ở BULAC có rất nhiều sách được coi là một phông không chỉ chứng kiến cho việc dạy tiếng Việt ở Paris, mà nó còn là một nhân chứng lịch sử cho sự phát triển của chữ quốc ngữ và phổ biến chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Trong số sách quốc ngữ, có thể thấy những cuốn từ điển được xuất bản từ khi hình thành chữ quốc ngữ, như Từ điển Việt-Bồ-Latinh, Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, cuốn Từ điển Annam-Latin và Latin-Annam của Taberd xuất bản năm 1838. Sau đó vào khoảng những năm 1850, có thể thấy những cuốn sách chủ yếu là giáo lý tôn giáo và những câu chuyện kể về tôn giáo được xuất bản bằng chữ quốc ngữ ở Thái Lan, ví dụ Giáo lý yếu lý quốc ngữ. Từ năm 1860, việc in ấn bằng chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ bắt đầu phát triển, nên có rất nhiều sách đầu tiên được in bởi Bản in Nhà nước. Chúng ta có thể thấy Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký xuất bản năm 1866. Đó là bản xuất bản đầu tiên và là một bản rất đặc biệt bởi vì chúng ta biết đến Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký với những bản tái bản sau này, chỉ với khoảng 74 truyện kể, trong khi bản đầu tiên năm 1866 có tất cả khoảng hơn 100 truyện. Vì trong đó có những chuyện không phù hợp với giáo lý Công Giáo nên đã bị kiểm duyệt và bị xóa bỏ. Đây là bản đặc biệt mà BULAC đang giữ ».Kho sách Hán-Nôm và tạp chí quý hiếmPhông tiếng Việt của BULAC còn nổi tiếng với nhiều đầu sách Hán-Nôm quý hiếm. Tất cả đều có thể tra trực tuyến trên trang web của thư viện. Đây là kho báu mà chị Nguyễn Thị Hải không giấu niềm tự hào :« Hiện nay, trong phông tiếng Việt ở BULAC có khoảng hơn 100 đầu sách Hán-Nôm và chủ yếu là sách văn học, vì mối liên hệ đặc biệt giữa Trường Sinh ngữ phương Đông với các nhà học giả ở Nam Kỳ thời đó như Trương Vĩnh Ký, cho nên các tác phẩm được mua, tức là các sách Hán-Nôm thời kỳ đó, chủ yếu là các tác phẩm văn học được lưu truyền rất rộng rãi ở miền Nam Việt Nam, cũng như là những tác phẩm tuồng, ví dụ tuồng Kim Vân Kiều hoặc Lục Vân Tiên, tiếp theo là các tác phẩm văn học như Lâm Sinh Lâm Thoại hoặc Cung oán ngâm khúc… Tất cả những tác phẩm đó đều được lưu ở BULAC. Nếu các bạn muốn tìm hiểu, trên trang web của thư viện BULAC, khi vào đến trang danh mục thư viện, thì sẽ thấy danh sách mà chúng tôi tạo ra cho độc giả để độc giả dễ dàng tiếp cận hơn. Các bạn sẽ thấy danh mục : Sách Hán-Nôm, trong đó có khoảng hơn 100 đầu sách và có thể xem trực tiếp trên đó ». Như đề cập ở trên, số báo cổ nhất còn lại của tờ Gia Định báo hiện được lưu tại BULAC. Kho tạp chí phong phú được ghi trong danh mục « Tất cả những các tạp chí của Việt Nam xuất bản trước năm 1945 » để độc giả dễ dàng truy cập trên thư mục của thư viện.« Ở BULAC có tất cả nào khoảng 70 đầu báo trước năm 1945, trong đó phải kể đến Gia Định báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên được xuất bản ở Sài Gòn năm 1865. Hiện nay chúng ta được biết là số báo cổ nhất còn giữ được cho đến nay là số 4 của tờ Gia Định báo xuất bản ngày 15/07/1865 thì hiện nay BULAC là thư viện duy nhất có được tờ báo này. Ở BULAC, các bạn có thể đọc được rất nhiều tờ báo khác được xuất bản ở Nam Kỳ, ví dụ Lục Tỉnh Tân Văn, Nông Cổ Mín Đàm, An Hà báo, hoặc những tờ báo sau này, như Nam Phong tạp-chí, thậm chí chắc các bạn đã nghe đến báo tên là Tập báo ta (Notre Revue) của Nguyễn Văn Vĩnh được xuất bản vào năm 1909 thì ở BULAC cũng có, tiếp theo phải kể đến những tờ như Phụ nữ Tân văn, Sông Hương, Đông Dương tạp chí». Trong lúc tham quan thư viện, chúng tôi gặp Nguyễn Văn Phúc, một nghiên cứu sinh Việt Nam ở Ý tham gia chương trình trao đổi sáu tháng với Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (CASE) tại Paris. Thư viện BULAC là một nguồn tài liệu hữu ích cho nghiên cứu của Phúc.« Chủ đề nghiên cứu của em là về mối liên hệ giữa luật và giới tính dưới tầm nhìn lịch sử. Em sẽ nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai vấn đề này theo dòng thời gian phát triển ở Việt Nam và cũng so sánh với Trung Quốc và với Pháp để làm rõ chủ đề. Em biết đến thư viện BULAC vì BULAC có nhiều tài liệu về Việt Nam, không những về văn hóa, mà có một số tài liệu về luật đúng với chuyên ngành của em. Đến cuối tháng Tư này em trở về Ý. Trong quá trình 6 tháng, em đã hoàn thành được một chương của luận văn, nghiên cứu về khoảng thời gian phong kiến của Việt Nam ».Được thành lập năm 2011, thư viện BULAC là một đơn vị công, không trực thuộc bất kỳ trường đại học nào như nhiều người vẫn lầm là của INALCO. Thư viện mở cửa miễn phí cho tất cả mọi người từ 10 đến 22 giờ hàng ngày và cung cấp rất nhiều dịch vụ tiện ích cho sinh viên, nhà nghiên cứu. Chị Nguyễn Thị Hải cho biết phông tiếng Việt vẫn không ngừng được mở rộng, bổ sung rất nhiều đầu sách báo mới hàng năm.« Có thể nói rằng phông tiếng Việt ở BULAC là một trong những phông tiếng Việt cổ của nước Pháp và có thể nói là duy nhất được thường xuyên cập nhật những nghiên cứu mới về Việt Nam. Hiện nay, mỗi năm với nguồn kinh phí hiện tại, chúng tôi có thể mua khoảng tầm 200 đầu sách và chủ yếu là đầu sách tiếng Việt được gửi từ Việt Nam sang, cùng với 25 đầu báo, cũng chủ yếu bằng tiếng Việt. Về phần mua sách báo tiếng Việt, chúng tôi liên hệ với một công ty xuất khẩu sách tại Việt Nam. Họ có thể gửi cho chúng tôi danh mục để chúng tôi chọn. Bên cạnh đó, bản thân tôi cũng phải tìm trên tất cả các kênh hoặc mạng xã hội để biết được những xuất bản mới ra, đặc biệt là những cuốn sách phục vụ cho nhu cầu của sinh viên, cũng như các nhà nghiên cứu Việt Nam học ở đây để có thể cập nhật những nghiên cứu mới nhất ở Việt Nam giúp cho sinh viên, cũng như các nhà nghiên cứu ở Pháp có thể có những cái nhìn trao đổi và những cái nhìn cập nhật nhất đối với sự phát triển nghiên cứu tại Việt Nam hiện nay ».

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

"Bên trong vỏ kén vàng": Đấu tranh nội tâm tìm lại linh hồn, phá vỡ vỏ bọc của xã hội

Play Episode Listen Later May 25, 2023 9:39

Ba năm sau khi đoạt giải Illy dành cho phim ngắn hay nhất với Stay Awake, Be Ready (Hãy tỉnh thức và sẵn sàng), đạo diễn trẻ Việt Nam Phạm Thiên Ân trở lại Liên hoan Điện ảnh Cannes lần thứ 76 với bộ phim dài đầu tay Bên trong vỏ kén vàng. Bộ phim dài 3 tiếng được trình chiếu tại Cannes ngày 24/05/2023 trong hạng mục La Quinzaine des cinéastes (Hai tuần lễ đạo diễn). Với những góc máy ấn tượng, ẩn sau những cảnh sương giăng bao phủ núi đồi, phim của Phạm Thiên Ân nói về một tuổi trẻ lạc lõng, đi tìm lẽ sống trong cơn mơ, tăm tối.Thế nào là cuộc sống vĩnh hằng và làm sao để tỉnh thức, bước vào hành trình đi tìm chân lý cuộc sống ? Một chủ đề mà có lẽ đáng ra được đề cập đến khi cầm trong tay ly trà, đàm đạo về đời, nhưng lại được chọn là những câu thoại mở đầu, ngay trong một quán nhậu nhộn nhịp tấp nập tại Sài Gòn và cảnh lộn xộn do tai nạn xe máy. Nhân vật Thiện, dẫn dắt khán giả vào hành trình đi tìm lẽ sống, tìm lại linh hồn bị đánh mất, bắt đầu từ việc đưa thi thể người chị dâu về quê an táng, đi cùng với đứa cháu vừa mất mẹ, cha thì đã bỏ nhà ra đi, ngây ngô hỏi về thiên đàng. Làm sao để giải thích cái chết cho trẻ nhỏ ? Đạo diễn Phạm Thiên Ân đã chọn một cách tiếp cận rất nhẹ nhàng mà nhân văn, qua hình ảnh của một chú chim thoi thóp, lạc đàn, được cứu sống, nhưng rồi lại chết đi, để cho chính đứa trẻ đó tự tay chôn cất. Nhân vật Thiện quyết định lên đường tìm anh trai, Tâm, đã bỏ nhà ra đi. Với những cuộc gặp bất ngờ, hành trình ấy gặp đầy mưa, gió, bùn lầy nhem nhuốc, đôi lúc không rõ đâu là thực đâu là mơ, như là để nhân vật đối diện với chính linh hồn của mình, đang trôi giạc trong làn sương. Nhân dịp này RFI Tiếng Việt đã có dịp trao đổi với đạo diễn Phạm Thiên Ân tại Cannes.Đọc thêm : Phạm Thiên Ân, tài năng trẻ được phát hiện tại CannesTrước tiên, xin cảm ơn đạo diễn đã dành thời gian trả lời RFI. Anh đã giành được giải phim bộ phim ngắn xuất sắc nhất tại Cannes vào năm 2019 qua phim Hãy tỉnh thức và sẵn sàng, điều này đã tạo ra thay đổi gì với anh và hoạt động nghệ thuật của anh hay không ? Phạm Thiên Ân : Qua bộ phim Hãy tỉnh thức và sẵn sàng, tôi đã có cơ hội để thử nghiệm khả năng đạo diễn về việc thể hiện mình, trong sự nghiệp đạo diễn, cũng như cách dàn cảnh. Bộ phim Hãy tỉnh thức và sẵn sàng là bước đệm lớn để tôi gặp được những chuyên gia trong ngành công nghiệp điện ảnh tại Cannes năm 2019. Quan trọng nhất là, với bộ phim đó, tôi đã xin được nhiều quỹ điện ảnh để thực hiện bộ phim dài đầu tay. Những quỹ điện ảnh mà tôi xin được trong quá trình trong vòng hai năm đã hỗ trợ nhiều về tiền kỳ, kịch bản.., quỹ lớn nhất mà tôi nhận được là quỹ của Singapore, giúp tôi khoảng 30% kinh phí của bộ phim, 30% nữa từ những quỹ khác như của Hà Lan Rotterdam… và 40% là kinh phí đến từ Việt Nam. Bên trong vỏ kén vàng là phần tiếp nối của bộ phim ngắn đó, cả hai đều được mở ra từ một quán nhậu. Theo anh, quán nhậu có vị trí như thế nào trong xã hội Việt Nam ?Phạm Thiên Ân : Nhậu là văn hoá của người Việt, là nơi mọi người có thể kết bạn, giao lưu, tạo mối quan hệ. Thực ra tôi thấy quán nhậu là nơi mà mọi người có thể bày tỏ tâm sự mà không sợ bị người khác lên án và là nơi mà người ta có thể thấy được lát cắt của cuộc sống, nhiều hoàn cảnh của các con người khác nhau hội tụ tại đây. Bên cạnh đó, trong phim của tôi, sử dụng hình ảnh quán nhậu ở Sài Gòn là để thể hiện sự tương phản giữa con người, thành thị và nông thôn.Hành trình của nhân vật cũng là hành trình tìm kiếm linh hồn của anh ấy. Về tỉnh thức thì ngay từ đầu phim, tôi muốn đưa câu chuyện này vào, để nhấn mạnh thông điệp của bộ phim, sau đó tạo ra sự đối lập, bình thường những điều mang tính giáo huấn về con người, thường rất nghiêm trang, nhưng mình thử đưa vào một bối cảnh lộn xộn, xô bồ, tạo ra sự giữa đối lập, tương phản. Mưa, gió, tối tăm, sương mù và bùn lầy, không có một cảnh ánh nắng nào, nhân vật Thiện như bước trong cơn mơ dài, không rõ đâu là thực đâu là hư. Ánh sáng duy nhất đến từ đèn xe máy ở cuối con đường, phủ kín màn hình, ngụ ý của đạo diễn là gì ? Phải chăng thế giới, tâm hồn của những người trẻ lại được chiếu sáng từ một loại ánh sáng nhân tạo ?Phạm Thiên Ân : Tôi muốn sử dụng thời tiết thiên nhiên để khắc hoạ tâm hồn của nhân vật chính, một tâm hồn khá là u tối, bế tắc. Thời tiết ảnh hưởng nhiều đến cảm xúc của người xem. Tiếp theo, hình ảnh về hình ảnh nguồn ánh sáng cuối con đường, thì nhân vật chính trải nghiệm nó, dường như là một giấc mơ. Nó là một sự báo trước, anh ta sẽ được tự do và sẽ tìm thấy con người thật của mình sẽ biến đổi, giống như bên trong vỏ kén, mình phá vỡ vỏ kén thì sẽ trở thành con ngài, giống như những con bướm được nhìn thấy được trong đêm u tối.Bộ phim giống như là một bức tranh tổng thể với xã hội, nhân vật chính là người kết nối để tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về xã hội và con người, giống như nhịp sống về thành thị và nông thôn, do đó, trong bộ phim, nhân vật chính khá là ít thoại, gần như là một người đàn ông khá là suy tư, kết nối những câu chuyện khác nhau. Bộ phim dựa trên trải nghiệm của tôi về ơn gọi. Tôi tin rằng ơn gọi sẽ xuất hiện ở mọi thời điểm nào trong cuộc đời của họ. Dựa vào ơn gọi, tôi muốn khắc họa nhân vật và phần nhiều phản ánh đến bản thân tôi hiện tại và quá khứ. Trong bộ phim của tôi, những nhân vật của tôi tạo ra đều có ơn gọi, tức là sống một cuộc đời cống hiến. Họ đang cố gắng trở thành một con người mới. Khi làm phim này, anh có gặp những khó khăn nào hay không ?Phạm Thiên Ân : Đối với Bên trong vỏ kén vàng, khó khăn lớn nhất vẫn đến từ kinh phí. Bình thường đối với một bộ phim, kinh phí thường được xin trước khi quá trình bấm máy. Trong phim của tôi thì quá trình đó diễn ra song song. Đôi lúc cũng phải xoay sở vấn đề về kinh phí, điều này giúp mình trưởng thành hơn sau bộ phim.Tiếp theo, khó khăn thứ hai tôi nghĩ đến đó là kịch bản của bộ phim. Khi bắt đầu bấm máy thì kịch bản đó chưa hoàn chỉnh, với bản năng của mình, giống như hai bộ phim ngắn trước đó, kịch bản được hoàn thiện hơn trong quá trình tìm kiếm bối cảnh và trong quá trình làm việc với diễn viên. Và khó khăn lớn nhất đó là thời tiết của phim, được quay vào mùa mưa sương mù, chia làm ba thời điểm chính.Vỏ kén vàng là hình ảnh tượng trưng cho điều gì, liệu anh có đang ở trong vỏ kén nào hay không ?Phạm Thiên Ân : Về tiêu đề của bộ phim, Bên trong vỏ kén vàng là từ mà tôi dùng để ẩn dụ cho vỏ bọc của xã hội, những thứ chi phối, kéo theo họ vào một vòng lặp của cuộc sống, khiến họ chạy vào một vòng lặp bất tận của tìm kiếm danh vọng và tiền bạc, thì bên trong vỏ kén là hình ảnh của con nhộng, tượng trưng cho linh hồn của con người.Nói về bản thân của mình trong bộ phim, tôi cũng đã từng là một người như là nhân vật chính trong phim, cũng phải xoay quanh sự hối hả của cuộc sống để tìm kiếm con người thật của mình, bộ phim này giống như một sự phơi bày về những trăn trở của đức tin của cuộc sống, giống như rất nhiều người trẻ hiện đang phải đối mặt.Bộ phim được hình thành dựa trên những trải nghiệm cá nhân, những điều mà tôi gọi là ơn gọi. Điện ảnh đến với tôi như là một ơn gọi vậy. Điện ảnh không có giới hạn. Người làm phim có quyền tạo ra thế giới của mình. Trong phim, tôi phải thành thật với bản thân mình, trong khi tôi tạo ra thế giới riêng của mình. Tôi phải tìm ra điều mà tôi tự tin, truyền đạt đến khán giả. Đó là những trăn trở về đức tin, cũng như về cuộc sống, những thứ ảnh hưởng rất nhiều đến bản thân tôi trong hiện tại và quá khứ. Bộ phim cũng để trả lời cho câu hỏi: Mục đích sống của mình là gì?

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

"Bên trong vỏ kén vàng": Đấu tranh nội tâm tìm lại linh hồn, phá vỡ vỏ bọc của xã hội

Play Episode Listen Later May 24, 2023 9:39

Ba năm sau khi đoạt giải Illy dành cho phim ngắn hay nhất với Stay Awake, Be Ready (Hãy tỉnh thức và sẵn sàng), đạo diễn trẻ Việt Nam Phạm Thiên Ân trở lại Liên hoan Điện ảnh Cannes lần thứ 76 với bộ phim dài đầu tay Bên trong vỏ kén vàng. Bộ phim dài 3 tiếng được trình chiếu tại Cannes ngày 24/05/2023 trong hạng mục La Quinzaine des cinéastes (Hai tuần lễ đạo diễn). Với những góc máy ấn tượng, ẩn sau những cảnh sương giăng bao phủ núi đồi, phim của Phạm Thiên Ân nói về một tuổi trẻ lạc lõng, đi tìm lẽ sống trong cơn mơ, tăm tối.Thế nào là cuộc sống vĩnh hằng và làm sao để tỉnh thức, bước vào hành trình đi tìm chân lý cuộc sống ? Một chủ đề mà có lẽ đáng ra được đề cập đến khi cầm trong tay ly trà, đàm đạo về đời, nhưng lại được chọn là những câu thoại mở đầu, ngay trong một quán nhậu nhộn nhịp tấp nập tại Sài Gòn và cảnh lộn xộn do tai nạn xe máy. Nhân vật Thiện, dẫn dắt khán giả vào hành trình đi tìm lẽ sống, tìm lại linh hồn bị đánh mất, bắt đầu từ việc đưa thi thể người chị dâu về quê an táng, đi cùng với đứa cháu vừa mất mẹ, cha thì đã bỏ nhà ra đi, ngây ngô hỏi về thiên đàng. Làm sao để giải thích cái chết cho trẻ nhỏ ? Đạo diễn Phạm Thiên Ân đã chọn một cách tiếp cận rất nhẹ nhàng mà nhân văn, qua hình ảnh của một chú chim thoi thóp, lạc đàn, được cứu sống, nhưng rồi lại chết đi, để cho chính đứa trẻ đó tự tay chôn cất. Nhân vật Thiện quyết định lên đường tìm anh trai, Tâm, đã bỏ nhà ra đi. Với những cuộc gặp bất ngờ, hành trình ấy gặp đầy mưa, gió, bùn lầy nhem nhuốc, đôi lúc không rõ đâu là thực đâu là mơ, như là để nhân vật đối diện với chính linh hồn của mình, đang trôi giạc trong làn sương. Nhân dịp này RFI Tiếng Việt đã có dịp trao đổi với đạo diễn Phạm Thiên Ân tại Cannes.Đọc thêm : Phạm Thiên Ân, tài năng trẻ được phát hiện tại CannesTrước tiên, xin cảm ơn đạo diễn đã dành thời gian trả lời RFI. Anh đã giành được giải phim bộ phim ngắn xuất sắc nhất tại Cannes vào năm 2019 qua phim Hãy tỉnh thức và sẵn sàng, điều này đã tạo ra thay đổi gì với anh và hoạt động nghệ thuật của anh hay không ? Phạm Thiên Ân : Qua bộ phim Hãy tỉnh thức và sẵn sàng, tôi đã có cơ hội để thử nghiệm khả năng đạo diễn về việc thể hiện mình, trong sự nghiệp đạo diễn, cũng như cách dàn cảnh. Bộ phim Hãy tỉnh thức và sẵn sàng là bước đệm lớn để tôi gặp được những chuyên gia trong ngành công nghiệp điện ảnh tại Cannes năm 2019. Quan trọng nhất là, với bộ phim đó, tôi đã xin được nhiều quỹ điện ảnh để thực hiện bộ phim dài đầu tay. Những quỹ điện ảnh mà tôi xin được trong quá trình trong vòng hai năm đã hỗ trợ nhiều về tiền kỳ, kịch bản.., quỹ lớn nhất mà tôi nhận được là quỹ của Singapore, giúp tôi khoảng 30% kinh phí của bộ phim, 30% nữa từ những quỹ khác như của Hà Lan Rotterdam… và 40% là kinh phí đến từ Việt Nam. Bên trong vỏ kén vàng là phần tiếp nối của bộ phim ngắn đó, cả hai đều được mở ra từ một quán nhậu. Theo anh, quán nhậu có vị trí như thế nào trong xã hội Việt Nam ?Phạm Thiên Ân : Nhậu là văn hoá của người Việt, là nơi mọi người có thể kết bạn, giao lưu, tạo mối quan hệ. Thực ra tôi thấy quán nhậu là nơi mà mọi người có thể bày tỏ tâm sự mà không sợ bị người khác lên án và là nơi mà người ta có thể thấy được lát cắt của cuộc sống, nhiều hoàn cảnh của các con người khác nhau hội tụ tại đây. Bên cạnh đó, trong phim của tôi, sử dụng hình ảnh quán nhậu ở Sài Gòn là để thể hiện sự tương phản giữa con người, thành thị và nông thôn.Hành trình của nhân vật cũng là hành trình tìm kiếm linh hồn của anh ấy. Về tỉnh thức thì ngay từ đầu phim, tôi muốn đưa câu chuyện này vào, để nhấn mạnh thông điệp của bộ phim, sau đó tạo ra sự đối lập, bình thường những điều mang tính giáo huấn về con người, thường rất nghiêm trang, nhưng mình thử đưa vào một bối cảnh lộn xộn, xô bồ, tạo ra sự giữa đối lập, tương phản. Mưa, gió, tối tăm, sương mù và bùn lầy, không có một cảnh ánh nắng nào, nhân vật Thiện như bước trong cơn mơ dài, không rõ đâu là thực đâu là hư. Ánh sáng duy nhất đến từ đèn xe máy ở cuối con đường, phủ kín màn hình, ngụ ý của đạo diễn là gì ? Phải chăng thế giới, tâm hồn của những người trẻ lại được chiếu sáng từ một loại ánh sáng nhân tạo ?Phạm Thiên Ân : Tôi muốn sử dụng thời tiết thiên nhiên để khắc hoạ tâm hồn của nhân vật chính, một tâm hồn khá là u tối, bế tắc. Thời tiết ảnh hưởng nhiều đến cảm xúc của người xem. Tiếp theo, hình ảnh về hình ảnh nguồn ánh sáng cuối con đường, thì nhân vật chính trải nghiệm nó, dường như là một giấc mơ. Nó là một sự báo trước, anh ta sẽ được tự do và sẽ tìm thấy con người thật của mình sẽ biến đổi, giống như bên trong vỏ kén, mình phá vỡ vỏ kén thì sẽ trở thành con ngài, giống như những con bướm được nhìn thấy được trong đêm u tối.Bộ phim giống như là một bức tranh tổng thể với xã hội, nhân vật chính là người kết nối để tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về xã hội và con người, giống như nhịp sống về thành thị và nông thôn, do đó, trong bộ phim, nhân vật chính khá là ít thoại, gần như là một người đàn ông khá là suy tư, kết nối những câu chuyện khác nhau. Bộ phim dựa trên trải nghiệm của tôi về ơn gọi. Tôi tin rằng ơn gọi sẽ xuất hiện ở mọi thời điểm nào trong cuộc đời của họ. Dựa vào ơn gọi, tôi muốn khắc họa nhân vật và phần nhiều phản ánh đến bản thân tôi hiện tại và quá khứ. Trong bộ phim của tôi, những nhân vật của tôi tạo ra đều có ơn gọi, tức là sống một cuộc đời cống hiến. Họ đang cố gắng trở thành một con người mới. Khi làm phim này, anh có gặp những khó khăn nào hay không ?Phạm Thiên Ân : Đối với Bên trong vỏ kén vàng, khó khăn lớn nhất vẫn đến từ kinh phí. Bình thường đối với một bộ phim, kinh phí thường được xin trước khi quá trình bấm máy. Trong phim của tôi thì quá trình đó diễn ra song song. Đôi lúc cũng phải xoay sở vấn đề về kinh phí, điều này giúp mình trưởng thành hơn sau bộ phim.Tiếp theo, khó khăn thứ hai tôi nghĩ đến đó là kịch bản của bộ phim. Khi bắt đầu bấm máy thì kịch bản đó chưa hoàn chỉnh, với bản năng của mình, giống như hai bộ phim ngắn trước đó, kịch bản được hoàn thiện hơn trong quá trình tìm kiếm bối cảnh và trong quá trình làm việc với diễn viên. Và khó khăn lớn nhất đó là thời tiết của phim, được quay vào mùa mưa sương mù, chia làm ba thời điểm chính.Vỏ kén vàng là hình ảnh tượng trưng cho điều gì, liệu anh có đang ở trong vỏ kén nào hay không ?Phạm Thiên Ân : Về tiêu đề của bộ phim, Bên trong vỏ kén vàng là từ mà tôi dùng để ẩn dụ cho vỏ bọc của xã hội, những thứ chi phối, kéo theo họ vào một vòng lặp của cuộc sống, khiến họ chạy vào một vòng lặp bất tận của tìm kiếm danh vọng và tiền bạc, thì bên trong vỏ kén là hình ảnh của con nhộng, tượng trưng cho linh hồn của con người.Nói về bản thân của mình trong bộ phim, tôi cũng đã từng là một người như là nhân vật chính trong phim, cũng phải xoay quanh sự hối hả của cuộc sống để tìm kiếm con người thật của mình, bộ phim này giống như một sự phơi bày về những trăn trở của đức tin của cuộc sống, giống như rất nhiều người trẻ hiện đang phải đối mặt.Bộ phim được hình thành dựa trên những trải nghiệm cá nhân, những điều mà tôi gọi là ơn gọi. Điện ảnh đến với tôi như là một ơn gọi vậy. Điện ảnh không có giới hạn. Người làm phim có quyền tạo ra thế giới của mình. Trong phim, tôi phải thành thật với bản thân mình, trong khi tôi tạo ra thế giới riêng của mình. Tôi phải tìm ra điều mà tôi tự tin, truyền đạt đến khán giả. Đó là những trăn trở về đức tin, cũng như về cuộc sống, những thứ ảnh hưởng rất nhiều đến bản thân tôi trong hiện tại và quá khứ. Bộ phim cũng để trả lời cho câu hỏi: Mục đích sống của mình là gì?

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Có một bộ phim loanh quanh những câu hỏi “Tại sao” nhưng lại khiến người ta không thể quên từng chi tiết nhỏ, thậm chí từng lời thoại. Chỉ vỏn vẹn trong chưa tới 90 phút, bộ phim “Cánh bướm” của điện ảnh Pháp – đạo diễn Phillip Muyl đã làm cho khán giả rung động không ngừng với không chỉ những cảnh quay đẹp đẽ mà còn bởi những triết lí sâu xa ẩn bên dưới một câu chuyện tưởng như vô cùng đơn giản. Ra mắt vào năm 2002 và đoạt giải thưởng Bình chọn của khán giả tại Liên hoan phim Jeonju năm 2005, cho tới nay, dù đã hơn 20 năm trôi qua, “Cánh bướm” vẫn nằm trong danh sách những bộ phim Pháp đáng xem nhất.Đó là câu chuyện phiêu lưu của hai người tới vùng núi Vercors, ông già Julien và người đồng hành bất đắc dĩ mà ông phải mang theo, cô bé hàng xóm Elsa 8 tuổi. Ấn tượng ban đầu thật chẳng mấy tốt đẹp khi lần đầu bước chân vào căn hộ của ông Julien, Elsa đã mở cánh cửa phòng ấp bướm khiến chúng bay tán loạn và ngay lập tức cô bị ông già tống ra ngoài trong cơn giận dữ khó chịu. Song, cũng bởi sự khởi đầu đó mà người ta đã hình dung được ngay rằng sau này sẽ có một sợi dây gắn kết kết nối hai ông cháu với nhau. Duy chỉ có một điều, khán giả không thể biết trước, đó là quá trình “làm thân” của hai nhân vật này lại đẹp, chân thành và dễ cảm đến thế. Rồi, bỗng người ta không thể quên được nhân vật Julien, nhà sưu tầm Bướm và Elsa, cô bé với những câu hỏi “Tại sao?”. Hai tâm hồn bị bỏ rơiChỉ trong vài khoảnh khắc đầu phim, không khó để nhận ra Elsa là một cô bé thiếu thốn tình cảm gia đình. Năm phút ngắn ngủi, Elsa bị mẹ để quên trên ô tô khi chuyển nhà tới cùng căn hộ với ông Julien và sau đó là bị quên cả ở trường. Mẹ của Elsa có bầu em khi mới 16 tuổi, bị người tình bỏ rơi, người phụ nữ trẻ đã phải tự bươn chải để nuôi con và rồi cái tuổi đôi mươi còn đang bỡ ngỡ với bao vui thú, cô vừa phải làm việc, vừa có những mối quan hệ riêng tư bạn bè bên ngoài. Thế là Elsa đã học được cách tự lập từ nhỏ, tự chơi một mình, đi học một mình, đôi lúc còn ăn và ngủ một mình. Những đêm căn hộ của ông Julien vang động bởi tiếng đập bóng rổ thình thịch giữa bóng tối tưởng như phải thật tĩnh lặng dành cho giấc ngủ của một đứa trẻ. Elsa nói với ông rằng cô bé muốn thành người lớn, thành người vĩ đại và trong tâm tưởng của một cô nhỏ 8 tuổi thì vĩ đại tức là cao lớn, mà muốn lớn nhanh chỉ có thể nhờ môn bóng rổ. Ngay cả cái tên của Elsa cũng bị nhầm, thật ra, tên cô bé là Elisa, viết tắt của Elisabeth, nhưng vì mẹ em đã vội vàng mà bỏ rơi mất chữ I. Dẫu sao Elsa cũng hạnh phúc với điều đó, bởi em không thích tên mình được viết tắt từ tên của ai khác. Sống trong một gia đình thiếu thốn tình cảm nhưng người ta không hề thấy bất cứ sự tiêu cực nào ở Elsa, mà trái lại, với gương mặt lấm chấm tàn nhang, đôi mắt xanh biếc hấp háy và cái miệng tươi tắn lúc nào cũng ham học hỏi, ham tìm tòi, Elsa khiến cho khán giả tươi tỉnh và tự nhoẻn cười mỗi khi thấy em. Ông Julien đã từng phải thốt lên với Elsa rằng không hiểu em thở vào lúc nào khi cứ luôn miệng tíu tít như thế. Chính điều đó đã tác động mạnh tới ông, một tâm hồn đau khổ tự tách biệt mình với thế giới.Từ đầu tới cuối phim, khán giả biết rằng Julien đã mất con trai khi anh được 28 tuổi. Việc ông sưu tầm bướm cũng vì lời hứa với anh. Nhưng dường như người ta cảm nhận được một cái khác sâu sa hơn ở công việc Julien đang làm, đó là sau nỗi đau mất con, ông sống như cuộc sống của loài bướm. Ẩn sau vẻ ngoài lạnh lùng khô khan kia chính là một tâm hồn đẹp, đau khổ và bất mãn, giống như con bướm xinh đẹp nằm trong cái kén sù xì xấu xí, đợi một ngày nào đó sẽ tách khỏi vỏ và hóa thân tung cánh. Khi Elsa ngồi trong quán café đợi mẹ… cứ tưởng Julien sẽ để kệ con bé… Khi Elsa chui vào ô tô của ông để được đi chu du cùng… cứ tưởng Julien sẽ đem con bé vào đồn cảnh sát để họ “tống cổ” em về nhà… Khi buộc phải đưa Elsa đi cùng và vào shop mua đồ dùng cho con bé… cứ tưởng Julien sẽ không sắm sửa gì thêm ngoài đôi giày mới… Nhưng không. Ông già cô độc đã đem Elsa về nhà để đợi mẹ, ông đã mang con bé đi theo lên núi để săn bướm đêm và không chỉ là một đôi giày mới, ông đã sắm sửa cho em cả áo khoác và một chiếc mũ màu vàng tươi nổi bật. Cứ thế, họ có chuyến chu du cùng nhau lên Vercors, vùng núi tươi đẹp ở Đông Nam nước Pháp. Không một sự cố nào quá kinh khủng xảy ra, không có những mâu thuẫn gay cấn hay hiểm nguy rình rập, thời khắc hai ông cháu dành cho nhau là dành cho thiên nhiên, cho những câu hỏi lằng nhằng nhưng dễ thương của Elsa và tình yêu thương dành cho con trẻ trỗi dậy trong lòng người cha già tưởng như đã quá mệt mỏi với việc thực hiện lời ước nguyện cuối cùng của con trai trước khi anh qua đời. Ba từ kì diệuTôi biết bạn yêu tôi, nhưng tôi cần bạn nói ra điều đó, được không? Ba từ kì diệu mà ai cũng nghĩ rằng họ chỉ cần thể hiện nó bằng hành động chứ không cần phải nói ra, nhưng kì thực, đó lại là điều nên được nói nhất trên thế gian này. Đạo diễn Phillip Muyl đã gài cắm đầy ẩn ý khi để Julien từng là một nghệ nhân sửa đồng hồ trước khi ông hoàn toàn tập trung vào sưu tầm Bướm. Ông có thể làm chủ công cụ tính thời gian nhưng lại không thể làm chủ thời gian. Khi biết loài bướm đêm Isabelle chỉ sống được ba ngày ba đêm thì Elsa đã tỏ ra thật buồn, cuộc sống của chúng quá ngắn ngủi và Julien đã giải thích với cô bé về khái niệm của sống và chết. Thế nào là dài, thế nào là ngắn? Cuộc sống này đầy rẫy những bất ngờ, cả cái chết cũng có thể đến thật bất ngờ vào bất cứ lúc nào. Đôi khi, đời sống của ai đó không thể tính bằng thời gian, mà tính bằng việc họ đã sống như thế nào. “Đôi khi, ta sống không đủ để nói hết một câu”. Câu thoại đầy ẩn ý này, về sau, người xem mới hiểu ra, rằng Julien đang ân hận bởi ông chưa bao giờ nói ba cái từ kì diệu đó với con trai của mình cho tới khi anh mất. Suốt quá trình chăm sóc con trai sau vụ tai nạn mà anh gặp phải, Julien chỉ dành mọi thời gian có thể cho anh, mang cho anh từng con bướm, từng loài mà ông tìm thấy như anh yêu cầu nhưng chưa từng nói “Cha yêu con”. Ông nghĩ đó là tất cả tình yêu ông dành cho anh, những hành động ấy đủ để chứng tỏ ông yêu thương anh và vì thế, ông đã không nói nó ra. Cuối cùng, ông dành 15 năm để đi tìm kiếm loài bướm Isabelle theo ý nguyện của anh, loài bướm chỉ xuất hiện 10 ngày duy nhất trong năm và vô cùng khó bắt, như là để ve vuốt nỗi day dứt tận đáy lòng ông. Julien đã tìm thấy loài bướm quý hiếm nhưng không phải trên núi Vercors mà là ở ngay trong nhà mình, trong số những cái kén mà ông từng sưu tầm và đang còn ngủ. Thế có nghĩa là không phải đi đâu xa, tình yêu ở ngay cạnh chúng ta, chỉ cần bản thân ta muốn tìm kiếm nó, thì rồi một ngày, nó sẽ hiện hữu. Cái cảm xúc lần đầu tiên mất mát của mẹ Elsa cũng giống như Julien khi ông mất đi người con duy nhất của mình. Cuộc sống hàng ngày quá gấp gáp và vội vã nên nhiều khi cô quên mất tài sản vô giá của cô chính là Elsa. Mấy ngày Elsa đi với ông Julien là mấy ngày mẹ của em thấm thía sự đau khổ. Ám ảnh ông già hàng xóm bắt cóc con khiến cô hoảng sợ, cô khóc trên truyền hình van xin người ta đừng làm hại con mình và cuối cùng, khi mọi việc được làm sáng tỏ, cô biết rằng cô phải nói với con ba từ kì diệu ấy. Ông Julien ngồi đó ngắm nhìn hai mẹ con. Tác giả bộ phim khéo léo để mẹ Elsa thì thầm vào tai em. Không một từ nào lọt ra ngoài cho bất cứ người nào khác nghe được, ngoài em. Và đôi má em ửng hồng, những nốt tàn nhang như rung rinh trên gương mặt tươi sáng với nụ cười chưa từng đẹp hơn ở một cô bé 8 tuổi được mẹ yêu thương. Màn đêm buông xuống. Sau khi chứng kiến con bướm đêm Isabelle vỡ kén và tách cánh màu xanh mướt long lanh, ông Julien đưa Elsa lên sân thượng để thả nó về với tự nhiên. Elsa nói với ông rằng mẹ của em cũng tên là Isabelle. Ngẫu nhiên làm sao, cuối cùng, ông Julien đã tìm lại được tình yêu cuộc sống của mình, là con bướm đêm Isabelle, còn Elsa, em cũng tìm lại được mẹ của mình sau rất nhiều năm tháng tưởng như bị lãng quên. Thế rồi cùng nhau, họ ngắm nhìn loài Bướm hiếm tung cánh vút lên, vượt ra khỏi cái kén xấu xí để ban tặng tình yêu thương và sự sẻ chia.

song ra li ut nh hai ng nam cha kh sau papillon khi ngay duy vercors

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Đấu bò tót tại Pháp : Truyền thống văn hóa vùng miền hay nạn ngược đãi động vật ?

Play Episode Listen Later May 12, 2023 9:35

Cùng với Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và một vài nước châu Mỹ La-tinh, Pháp là 1 trong ít nước trên thế giới vẫn còn cho phép tổ chức các cuộc đấu bò tót - corrida. Mùa hè là mùa diễn ra lễ hội đấu bò tót (feria) thu hút khá đông du khách đến miền nam Pháp. Nhưng đấu bò tót tại Pháp, trong suốt hơn 1 thế kỷ rưỡi tồn tại, vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, thậm chí còn bị xem là nghịch lý kiểu Pháp. Bị tố là môn đấu dã man, nhưng đấu bò tót lại được xem là truyền thống, di sản văn hóa địa phương ở 3 tỉnh miền nam Pháp : Nouvelle-Aquitaine, Occitanie và Provence-Alpes-Côte-d'Azur, nên không bị bộ Luật hình sự quy vào các hành vi ngược đãi động vật, vốn dĩ thường bị phạt nặng tại Pháp, làm dấy nên nhiều tranh cãi. Để hiểu thêm về corrida tại Pháp, RFI ngày 08/03/2023 đã có buổi phỏng vấn giáo sư Eric Baratay, Đại học Lyon, chuyên về lịch sử động vật. RFI : Xin giáo sư cho biết nguồn gốc môn corrida - đấu bò tót tại Pháp ? Eric Baratay : Về mặt lịch sử, đấu bò tót ra đời tương đối gần đây, từ nửa sau thế kỷ 19. Các công ty biểu diễn từ Tây Ban Nha đã đến Pháp và đề xuất tổ chức các trận đấu bò tót. Vào thời đó, họ đề xuất tổ chức đấu bò tót trên khắp nước Pháp, họ không giới hạn các trận đấu bò tót ở miền nam nước Pháp, mà còn đề xuất tổ chức ở nhiều nơi tại Paris và các thành phố miền bắc, chẳng hạn ở Lille …Thời kỳ đầu, những đề xuất tổ chức đấu bò tót đã vấp phải 2 kiểu phản đối : Trước hết là đạo luật Grammont được thông qua vào năm 1850, cấm ngược đãi vật nuôi, một khung pháp lý đủ mạnh và đã khiến các công ty, nhà tổ chức biểu diễn người Tây Ban Nha phải đề xuất các trận đấu bò tót giả, nghĩa là các trận đấu mà bò tót không bị đâm chết. Sự phản đối thứ hai diễn ra đặc biệt mạnh mẽ trong giới trí thức, báo chí và quan chức chính phủ, chủ yếu là ở Paris. Chính vì những lẽ đó, môn đấu bò tót gặp nhiều khó khăn ở giai đoạn đầu khi mới được đưa vào Pháp, trong vòng khoảng 50 năm, cho đến những năm 1900.RFI : Vậy từ khi nào các trận đấu bò tót được tổ chức nhiều ở Pháp ? Eric Baratay : Có một bước ngoặt diễn ra vào những năm 1900 - 1910, khi các cuộc đấu bò tót, mà trong trận đấu con vật bị đâm chết, đã được tổ chức ở miền nam nước Pháp. Trên thực tế, các đời chính phủ kế tiếp nhau đều để mặc cho mọi chuyện diễn ra để không làm mất lòng cử tri địa phương, bởi một số cử tri là những người thuộc giai cấp tư sản ở địa phương, thích những thứ ngoại lai. Đấu bò tót được du nhập từ nước ngoài nên họ rất thích. Một số cử tri khác là người Tây Ban Nha nhập cư : ngày càng có nhiều người Pháp gốc Tây Ban Nha ở miền nam nước Pháp. Đối với những người này, đấu bò tót là ký ức về nguồn cội Tây Ban Nha của họ, cho phép họ nhớ đến gốc gác Tây Ban Nha. Chính dưới áp lực kép nói trên mà các đời chính phủ Pháp đã cho phép các trận đấu bò tót, mà trong trận đấu con vật bị đâm chết, được diễn ra ở miền nam nước Pháp. Họ không dám can thiệp vì lý do bầu cử và các nỗ lực cấm đấu bò tót trong những năm 1900 - 1920 đều đã thất bại vì những lý do liên quan đến bầu cử.Như vậy là đấu bò tót phát triển tại Pháp rất chậm. Chẳng hạn, thành phố Nimes, hiện nay được xem là thủ phủ của các trận đấu bò tót ở Pháp, nhưng ban đầu cũng phải sau rất nhiều thời gian thì mới chấp nhận môn đấu bò tót. Trước đây, cũng có rất nhiều ý kiến phản đối đấu bò tót kể cả ở Nimes, bởi vì phần đông dân cư cho rằng đó không phải là đấu bò truyền thống kiểu Pháp, họ phản đối các cuộc đấu bò kiểu Tây Ban Nha. Phải đến những năm 1910-1920 thì đấu bò tót mới thực sự được chấp nhận ở Nimes. RFI : Nhưng hiện nay có nhiều người bảo vệ corrida với lý do là đấu bò tót là truyền thống ở miền nam Pháp ?Eric Baratay : Thời trước, đấu bò tót không phải truyền thống địa phương, nhưng bây giờ người hâm mộ lại bảo vệ corrida và nói rằng đấu bò tót là một truyền thống của miền nam Pháp, tức là đã có sự đảo chiều. Dẫu sao thì truyền thống này cũng chỉ là rất gần đây thôi và cũng chỉ được công nhận trong cộng đồng người hâm mộ, chứ còn khá đông người dân miền nam Pháp vẫn không thừa nhận corrida là truyền thống. RFI : Corrida phát triển mạnh nhất trong giai đoạn lịch sử nào ? Và tại sao lại có tính vùng miền nam - bắc như hiện nay ?Eric Baratay : Corrida đã đạt một thành công rất lớn ở miền nam Pháp, đặc biệt là vào những năm 1950 - 1970, khi số các các trận đấu bò tót được tổ chức tăng rất nhiều cùng với sự phát triển của loại hình du lịch đại chúng trong giai đoạn 30 năm huy hoàng, nhiều người đến từ Bắc Âu hay từ miền bắc đất nước để xem đấu bò vì họ có cảm tưởng đó thực sự là một tập tục của miền nam nước Pháp. Vậy đấy, đấu bò đã rất thành công ở miền nam nước Pháp, trái lại môn corrida chưa bao giờ có được thành công ở miền bắc nước Pháp. Các trận đấu bò chưa bao giờ được tổ chức thường xuyên ở miền bắc. Các công ty Tây Ban Nha đã cố gắng rất nhiều, nhưng họ vấp phải quá nhiều sự phản đối gay gắt ở miền bắc.Đến năm 1951, đấu bò đã được Hạ Viện Pháp hợp pháp hóa. Hạ Viện cho phép tổ chức corrida ở miền nam đất nước nhưng cấm ở miền bắc, điều này càng củng cố suy nghĩ rằng đấu bò là một tập tục của miền nam Pháp. Và do đó, đấu bò đã rất phát triển trong những năm 1950 - 1970.RFI : Từ khi nào corrida bắt đầu thoái trào ? Eric Baratay : Từ những năm 1980, corrida đã bắt đầu đi xuống và tôi có thể nói là từ khoảng 20 năm trở lại đây thì suy giảm mạnh. Số trận đấu bò giảm rất nhiều, các địa điểm tổ chức đấu bò cũng giảm mạnh. Bây giờ các trận đấu bò được tổ chức tập trung trong đợt lễ hội kéo dài nhiều ngày, được gọi là « feria ». Các trận đấu bò giờ chỉ còn được duy trì tại các feria, bởi vì khi đó có đông người hơn nên các trận đấu bò vẫn thu hút một được một nhóm khán giả, nhưng quả thực đã có sự giảm sút mạnh. Hơn nữa, ngay cả tại các đợt lễ hội feria, chẳng hạn ở thành phố Nîmes, những trận đấu bò cũng không thể được tiếp tục nếu không có trợ cấp của chính quyền địa phương, của nhà nước vì không còn nhiều người xem như cách nay 40 - 50 năm. Bây giờ, nếu chỉ dựa vào khán giả thì sẽ bị thâm hụt và các trận đấu không thể diễn ra. RFI : Nhưng tại sao hiện nay vẫn còn dấy lên những tranh cãi về việc cấm đấu bò tót ? Eric Baratay : Các cuộc tranh luận đã diễn ra hồi thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, rồi biến mất vào nửa cuối thế kỷ 20 bởi vì corrida đã được Hạ Viện Pháp hợp pháp hóa hồi năm 1951.Từ khoảng 20 năm trở lại đây thì tranh luận lại dấy lên và ngày càng gay gắt, bởi vì những người phản đối đấu bò đặt vấn đề về số phận con vật, về cách đối xử với những con bò tót. Trước đây, trong thế kỷ 19, cuộc tranh luận chủ yếu liên quan đến vấn đề về đạo đức, tinh thần : Liệu có thể để mọi người xem các trận đấu hung dữ, bạo lực như vậy không ? Người ta nghĩ rằng xem những trận đấu như vậy sẽ mang lại bạo lực giữa con người với con người, chứ người ta không quan tâm đến số phận của những con bò tót. Bây giờ thì vấn đề được quan tâm nhiều nhất là số phận dành cho chúng. Từ những năm 1990, người ta đã có thể đo lường mức độ đau đớn và chịu đựng của động vật. Nếu con bò chịu đau trong trận đấu, nó sẽ tiết ra một số chất, hoặc là những chất để giúp nó vượt qua cơn đau, hoặc các chất tiết ra để che giấu sự kiệt sức của cơ thể chúng, nhưng thực tế là con vật không thể chịu nổi nữa. Chỉ cần đo nồng độ các chất này trong cơ thể chúng là biết con vật đang phải chịu đựng những đau đớn. Các nghiên cứu đã được thực hiện đối với những con bò sau cuộc đấu và người ta đã chứng minh rằng chúng thực sự đã chịu những cơn đau mạnh. Trước đây, trong một thời gian rất dài, người hâm mộ đã phản đối những điều này. Chẳng hạn, trong cuốn sách « Chết vào buổi chiều », nhà văn Heminway đã khẳng định rằng một con bò sắp chết, sau khi lãnh những nhát kiếm, còn cảm thấy ít đau hơn một người bị bong gân. Cho đến những năm 1990, thì vẫn cứ có người nói ngược, người nói xuôi, có những người nói rằng chúng không đau đớn, một số khác lại nói là chúng phải chịu đau. Nhưng kể từ những năm 1990 thì mọi chứng cớ đã rõ ràng, làm dấy lên những phản đối từ phe chống corrida.Còn về những người ủng hộ môn đấu bò, lập luận của họ không còn là con vật không phải chịu đau, mà họ nói rằng đó là một truyền thống. Họ còn có xu hướng nói rằng đó là một truyền thống có từ thời xa xưa, thậm chí là từ hàng ngàn năm nay. Họ liên hệ một cách dễ dàng môn đấu bò tót với những bức khắc họa từ thời tiền sử và khẳng định rằng có một tín ngưỡng tôn thờ bò tót và đó là nguồn cội của môn đấu bò tót. Họ cũng dễ dàng tạo mối liên hệ giữa đấu bò tót với các trò chơi ở đảo Crète thời cổ đại, nhưng chúng tôi biết rằng chưa bao giờ các trò chơi thời cổ đại này tạo ra những ảnh hưởng ở Tây Ban Nha, người Crète chưa bao giờ đến Tây Ban Nha. Đó chỉ là cách để họ nói rằng đấu bò là một truyền thống lâu đời, trong khi thực tế là ở Pháp, nó mới chỉ có từ hơn trăm năm nay, chứ không phải là từ xa xưa. Thế nhưng, ngày nay, lý lẽ về truyền thống là một lập luận thắng thế ở Pháp, được lắng nghe tương đối và họ có xu hướng tranh thủ lý lẽ này và nói rằng đấu bò là một phần bản sắc của miền nam nước Pháp.RFI : Vậy ở các nước khác mà môn đấu bò trước nay đã phát triển mạnh, như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, châu Mỹ La-tinh tình hình hiện nay biến chuyển ra sao ? Ở Tây Ban Nha, đấu bò cũng đã bắt đầu bị phản đối, Barcelona ở xứ Catalulya đã cấm đấu bò tót. Nhiều cuộc tranh luận về đấu bò tót ở Tây Ban Nha đã nổ ra vì ngay cả tại nước này, đa số người dân đều không ủng hộ môn đấu bò tót. Còn ở châu Mỹ La-tinh, môn đấu bò tót đang suy giảm mạnh, hoặc đã bị cấm hoặc đang trong quá trình bị cấm, nhiều quốc gia đang có kế hoạch cấm, bởi vì ngoài lập luận là con vật phải chịu đựng cơn đau, còn có một lập luận khác rất có ý nghĩa, đó là đấu bò bị xem là một tập tục của những kẻ đô hộ xuất phát từ Tây Ban Nha và do thực dân áp đặt, nên cần loại trừ. Chính điều này khiến ở châu Mỹ La-tinh, môn đấu bò tót đang suy giảm mạnh. RFI tiếng Việt chân thành cảm ơn giáo sư Eric Baratay đã tham gia chương trình !

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Nhạc phẩm "Je te donne" (Ta cho bạn) là một trong những giai điệu quen thuộc nhất của Jean-Jacques Goldman. Phiên bản ghi âm gần đây, phát hành vào đầu tháng 04/2023, là bài song ca của Jenifer với M Pokora. Hai nghệ sĩ Pháp đã chọn nhạc phẩm này để đánh dấu tình bạn 20 năm, kể từ khi họ mới vào nghề. Cách đây đúng hai thập niên, nữ ca sĩ Jenifer giành hạng nhất trong mùa đầu tiên của cuộc thi hát truyền hình Star Academy. Hầu như vào cùng một thời điểm, Matt Pokora (nghệ danh là M Pokora) đoạt giải quán quân với nhóm Link Up, trong chương trình PopStars. Không lâu sau đó, M Pokora tách ra khỏi nhóm và anh thành công khi khởi nghiệp hát solo.20 năm sân khấu, 20 năm cảm xúcTrong những bước đầu sự nghiệp, hai nghệ sĩ làm quen với nhau vì họ thường tham gia biểu diễn trong cùng các show truyền hình. Hai mươi năm sau, họ vẫn là bạn thân và tuy mỗi người đều có con đường sự nghiệp riêng, nhưng lần đầu tiên họ quyết định ghi âm chung một bản song ca. Bài "Je te donne" cũng như bản nhạc ''L'amitié'' của Françoise Hardy là những giai điệu tiêu biểu nhất về chủ đề "Tình bạn".Có thể nói là sự nghiệp của Jenifer & M Pokora tuy diễn ra song song, nhưng lại có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều thành danh nhờ về đầu một cuộc thi hát truyền hình. Jenifer cũng như M Pokora đều từng được tặng danh hiệu nghệ sĩ Pháp xuất sắc nhất nhân kỳ trao giải thưởng âm nhạc châu Âu MTV Europe Awards.Trong vòng hai mươi năm sự nghiệp, mỗi nghệ sĩ đã bán được hơn 5 triệu đĩa hát. Các album thành công nhất của họ đều đạt mức đĩa kim cương. Cả hai đều theo đuổi dòng nhạc pop kết hợp với urban, rock, disco, điện tử hay RnB. Mùa thu năm ngoái, cả ''Jen'' lẫn ''Matt'' đều cùng phát hành album phòng thu thứ 9 của mình.Song song với các dự án ghi âm solo hay tập thể, Jenifer cũng như M. Pokora cùng đảm nhận vai trò huấn luyện viên trong chương trình The Voice, phiên bản tiếng Phap, Jenifer xuất hiện thường xuyên hơn trong khi M Pokora sau khi thành hôn với ca sĩ người Mỹ Christina Milian, đã sống nhiều năm ở Los Angeles, Hoa Kỳ. Anh về Pháp khi có hợp đồng ghi âm hay biểu diễn. Trở lại Paris lần này, M Pokora sẽ cùng tham gia với Jenifer với tư cách là ''coach'' trong chương trình thi hát theo nhóm mang tên là Dream Team, sẽ được phát sóng trong thời gian tới.Trong 20 năm tình bạn, hai nghệ sĩ hiếm khi nào bỏ lỡ cơ hội hát chung với nhau, hầu như năm nào họ cũng tham gia đợt trình diễn trong đoàn nghệ sĩ Les Enfoirés nhằm gây qũy giúp đỡ Les Restos du coeur (Các quán ăn tình thương). Dĩ nhiên là cả hai không quên cảm ơn khách hâm mộ, thành phần khán giả trung thành nhất của mình, luôn dành cho cả hai nhiều cảm tình ưu ái trong 20 năm qua như dòng tin nhắn họ đăng trên tài khoản Instagram ký tên "Jen & Matt".Kỷ niệm 20 năm tình bạn trên sân khấuHiện tại, Jenifer đang trên đường lưu diễn khắp nước Pháp. Đợt biểu diễn sẽ kết thúc vào cuối năm 2023 tại nhà hát Accor Arena. Về phần mình, M Pokora cũng đang chuẩn bị cho chuyến lưu diễn ''Épicentre'' của anh, một show biểu diễn hoành tráng khổng lồ theo kiểu Mỹ mà anh sẽ khai mạc tại nhà hát La Défense Arena, chuyến lưu diễn sẽ tiếp tục tại 35 sân khấu lớn của các nhà hát Zénith trên khắp nước Pháp.Liệu bài song ca "Je te donne" của Jean-Jaques Goldman là bước đầu tiên cho một dự án hợp tác chung sắp tới ? (như hai ca sĩ Vitaa và Slimane đã từng làm với album ''Versus'') Điều này chưa có gì là chắc chắn cả, vì Jen và Matt đều khá bận rộn với lịch biểu diễn hiện thời của họ. Cả hai nghệ sĩ đều đã từng thành công trước đây khi xen kẽ các dự án ghi âm nguyên tác cũng như các tập nhạc cover gồm những giai điệu ghi âm lại. Jenifer từng dành nguyên một album để hát lại dòng nhạc của France Gall (qua ngòi bút của hai tác giả Serge Gainsbourg và Michel Berger). Còn M Pokora từng ăn khách với album tưởng niệm Claude Francois, đồng thời anh là một trong những nghệ sĩ dẫn đầu hai dự án Thế hệ trẻ hát nhạc Goldman. Ngoài việc phát hành trong tháng này nhạc phẩm ''Je te donne'', Jenifer và M Pokora sẽ đi xa hơn nữa khi quyết định cùng biểu diễn trên sân khấu trong khuôn khổ Liên hoan âm nhạc thành phố Nîmes vào mùa hè năm nay.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Đất đai thuộc về ai ? (Đoàn Hồng Lê, 2009), Ở phường Thành Công có làng Thành Công (Phan Thị Vàng Anh, 2004), Trăng trên lò gạch (Lê Thu Minh, 2020), khán giả Pháp tại hội trường Thư viện đại học các ngôn ngữ và văn minh BULAC lần lượt sống chung với những lo toan, bất bình của nông dân ở một xã tỉnh Quảng Nam phải bán đất để xây đại dự án du lịch xa hoa, chuyện cái loa phường hỏng ở Hà Nội hay số phận của lò gạch cuối cùng ở Mang Thít, đồng bằng sông Cửu Long. Ba tác phẩm điện ảnh phản ánh cuộc sống của người dân ở ba miền Việt Nam được giới thiệu trong chương trình “Khi phim tài liệu kể chuyện một đất nước” trong khuôn khổ Liên hoan Điện ảnh hiện thực Quốc tế tại Paris (Cinéma du réel). Tất cả các nhà làm phim có điểm chung là đều theo học hoặc được hướng dẫn bởi Ateliers Varan Vietnam (Xưởng làm phim Varan). RFI Tiếng Việt đã gặp gỡ, phỏng vấn ba thành viên của hội, bà Sylvie Gadmer, nhà dựng phim đồng sáng lập Ateliers Varan Vietnam, đạo diễn Trần Phương Thảo hiện hướng dẫn và sản xuất phim của các nhà làm phim trẻ của hội Varan Vietnam và nhà làm phim, đạo diễn Đoàn Hồng Lê.RFI : Câu hỏi đầu tiên xin dành cho nhà làm phim Sylvie Gadmer. Bà là nhà đồng sáng lập Ateliers Varan Vietnam, tại sao Việt Nam nằm trong mạng lưới ? Bà Sylvie Gadmer : Ateliers Varan là một trường điện ảnh tài liệu, có trụ sở ở Paris, chủ yếu dựa vào thực hành. Trường không hề giống những trường khác vì không có giáo viên, không có lớp học hay giáo án. Sinh viên bắt đầu ngày học đầu tiên với máy quay trên tay và một cây gậy để thu âm trực tiếp. Còn tại sao lại là Việt Nam ? Bởi vì tôi mang dòng máu Việt. Trong một chuyến công tác Cam Bốt năm 1995, tôi may mắn biết đến Ateliers Varan qua một xưởng làm phim do Rithy Panh và Leonardo di Costanzo phụ trách. Lúc đó, Cam Bốt đang chuyển mình, tôi không đi sâu vào chi tiết, nhưng đó là thời điểm mấu chốt, một bước ngoặt trong lịch sử của Cam Bốt. Trong những năm 1990, Việt Nam cũng như nhiều nước khác bắt đầu mở cửa. Cộng đồng người Việt ở Paris thấy là tình hình biến chuyển. Cá nhân tôi đến Việt Nam năm 1993 để gặp gia đình. Tôi thấy mọi thứ chuyển mình, cởi mở, thêm vào đó là mong muốn được bày tỏ, được khám phá. Trong Ateliers Varan, ý tưởng phát triển một xưởng làm phim ở Việt Nam từng bước được hình thành. Dự án mất rất nhiều năm vì một xưởng làm phim không giống như làm một bộ phim, vì cần đến kinh phí, dụng cụ, thiết bị quay phim để sau đó còn để lại cho các sinh viên Việt Nam giúp họ có thể tiếp tục sau khóa học đầu tiên. Công việc này mất vài năm. Và đến năm 2004, nhờ sự hỗ trợ của cộng đồng người Việt ở Paris, chúng tôi nắm bắt tình hình. Tiếp theo là nhờ Xưởng Phim tài liệu Trung ương ở Hà Nội nơi chúng tôi đã gặp các giám đốc, những con người nhiệt huyết muốn tiếp cận loại hình điện ảnh này ở Việt Nam lúc bấy giờ.RFI : Khóa học đầu tiên được tổ chức vào năm 2004 và liên tục cho đến nay. Học viên, sinh viên được tuyển chọn, đào tạo hoặc hướng dẫn như thế nào ? Bà Sylvie Gadmer : Ý tưởng của điện ảnh thực tế là thu thập một ký ức được trải nghiệm, tiếp nhận những câu chuyện có thật, bắt đầu từ những câu chuyện cá nhân. Điện ảnh thực tế là cố gắng truyền tải, là điện ảnh dựa trên mối quan hệ giữa nhân vật được quay và người quay phim. Vì thế, con người càng chìm đắm trong chủ đề của họ thì càng có được sự gắn kết trong phim và càng làm chủ đề được lan tỏa hơn. Đối tác Việt Nam đầu tiên mà chúng tôi làm việc chung là Xưởng phim tài liệu và Khoa học Trung ương ở Hà Nội nên dĩ nhiên phần lớn thực tập sinh là từ xưởng này. Nhưng không chỉ có thế, bởi vì nhìn từ quan điểm đào tạo, điều quan trọng là có được một nhóm đa dạng được nuôi nấng từ nội bộ, cho nên còn có một nhà văn, một nghệ sĩ tạo hình. Tôi không nhớ chính xác vì cách đây cũng đã gần 20 năm. Nhưng dù sao, điều quan trọng là có những con người đến từ những chân trời khác nhau, dù là đa số đến từ xưởng phim tài liệu.RFI : Ateliers Varan nhấn mạnh đến điện ảnh hiện thực và âm thanh trực tiếp. Thể loại này khác với phim tài liệu như thế nào ?Bà Sylvie Gadmer : Thực ra không có sự khác biệt. Âm thanh trực tiếp chính là âm thanh mà chúng ta nghe thấy vào lúc này. Có nghĩa là chị để cho tôi nói, trong trường hợp này, tôi là người được ghi hình. Chị nghe thấy tôi, nhìn thấy tôi và giọng của tôi được thu vào camera đang ghi hình tôi.Ở Việt Nam, trong những năm 2000 thì không hẳn như vậy. Lúc đó, các phim tài liệu thường chủ yếu có lời bình, có nghĩa lời bình đi trước rồi đến hình ảnh. Văn bản phải được gửi đến một ủy ban xem xét trước đã, sau đó người ta chiếu hình ảnh để minh họa tài liệu đó. Lợi ích của âm thanh trực tiếp là trả lại tiếng nói cho người đang được quay. Phim tài liệu thường sử dụng cách làm này vì là đi tìm gặp người khác. Nhưng cũng có nhiều phim tài liệu sáng tạo hoạt động theo kiểu khác, thường mang tính nghệ thuật và mỗi đạo diễn có ngôn từ riêng của họ. RFI : Khóa học đầu tiên tại Việt Nam của Ateliers Varan được tổ chức vào năm 2004. Từ đó, có thể thấy cứ khoảng hai hoặc vài năm mới tổ chức một khóa. Thời gian và vấn đề tài chính có phải lý do chính không ? Bà Sylvie Gadmer : Và cần cả năng lượng nữa, bởi vì làm một bộ phim tốn rất nhiều thời gian trong cuộc sống và công việc. Dĩ nhiên có nhiều người sản xuất mỗi năm một bộ phim tài liệu, nhưng chuyện đó khá hiếm bởi vì cần phải có thời gian để tìm tư liệu, lên ý tưởng cho bộ phim, suy nghĩ về nó, quay phim, dựng phim tài liệu. Toàn bộ quá trình đó thường mất 3-4 năm.Tổ chức mỗi năm một khóa học cũng không thực sự có ý nghĩa bởi vì ý tưởng của chúng tôi không phải là cứ nối hết khóa học này sáng khóa học khác một cách máy móc mà phải có mong muốn, bởi vì Ateliers Varan đáp ứng một nguyện vọng chứ không thể áp đặt một khóa học như vậy được. Cần phải có thời gian chuẩn bị, lựa chọn thực tập sinh và thời gian để các nhà đào tạo lấy lại sức vì Ateliers Varan có phương châm làm việc, có từ thời giảng viên rất tận tâm André Van In, là đồng hành với các thực tập sinh sau cả khi hoàn thành khóa học, giúp họ làm thế nào triển khai bài học mà họ học được và đồng hành với mong muốn của các nhà làm phim trẻ trong dự án tương lai của họ. Do đó cũng cần có thời gian.RFI : Đạo diễn Đoàn Hồng Lê, chị có rất nhiều bộ phim được chú ý, gần đây nhất là bộ phim tài liệu xúc động Người mẹ. Chị từng theo học và hiện tham gia giảng dạy tại Ateliers Varan Vietnam. Kinh nghiệm ở Ateliers Varan làm thay đổi như nào cách làm phim và làm việc của chị như thế nào ? Đạo diễn Đoàn Hồng Lê : Chỉ có thể nói ngắn gọn là tôi đã học cách để nhìn con người như họ vốn là. Tức là một con người luôn có trắng có đen, có tốt có xấu, và khi đến với một nhân vật, mình không tôn vinh họ mà cũng không phán xét họ mà mình chấp nhận họ với hai mặt bình thường như là con người vốn là. Đó là điểm thứ nhất.Điểm thứ hai là học cách chấp nhận hiện thực cuộc sống cũng như nó vốn là. Tức là kể về hiện thực cuộc sống như đang diễn ra chứ không phải là mình thúc đẩy theo như cách trước đây mà các nhà làm phim của truyền hình thường hay làm. RFI : Đạo diễn Trần Phương Thảo nổi tiếng với bộ phim tài liệu Đi tìm Phong. Hiện tại, chị là quản lý Ateliers Varan Vietnam. Dường như những năm gần đây, Ateliers Varan Vietnam tập trung vào một chủ đề cụ thể, mỗi chủ đề được lựa chọn như thế nào ? Đạo diễn Trần Phương Thảo : Không có một chủ đề nào cố định cả, tại vì Ateliers Varan Vietnam có hai thể loại phim : phim của Trại sáng tác và phim trong khuôn khổ dự án cá nhân của một đạo diễn và chúng tôi sản xuất. Đây là hai thể loại khác nhau. Thường thì phim của Trại sáng tác, như trong Trại sáng tác đầu tiên, chủ đề hoàn toàn tự do tại vì học làm đạo diễn, đó là chia sẻ cái nhìn của mình, suy ngẫm của mình về xã hội, về con người. Cho nên, chủ đề đầu tiên bao giờ cũng là tự do. Việc sản xuất phim tài liệu trên thế giới nói chung càng ngày càng khó khăn, cho nên khi chúng tôi có một cơ hội nào đấy hoặc nhận được một lời mời nào đấy thì tất nhiên sẽ nhận lời. Khi có lời mời của nhóm Varan Paris và của bộ Ngoại Giao Pháp trong một chương trình liên quan đến sự thay đổi của đồng bằng sông Cửu Long thì tất nhiên các đạo diễn thành viên của nhóm rất muốn thực hiện. Rõ ràng Mêkong là một vùng sinh thái phong phú nhất nhì thế giới và cũng là vùng chịu nhiều ảnh hưởng nhất bởi biến đổi khí hậu trên thế giới. Rõ ràng mình là một nhà làm phim tài liệu kể chuyện về sự thay đổi của đời sống xã hội tại đất nước mình thì với một cơ hội như thế, chúng tôi nhận lời. Các chủ đề vẫn là do học viên tự do lựa chọn, còn chủ đề lớn chỉ là khuôn khổ thôi, thành thử ra không có thông điệp gì cả.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ba nhà làm phim, đạo diễn của Ateliers Varan Vietnam Sylvie Gadmer, Trần Phương Thảo và Đoàn Hồng Lê.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Tại Pháp, 8 biểu tượng đại diện cho nền đệ ngũ Cộng Hoà, đó là : quốc kỳ 3 màu xanh trắng đỏ, quốc ca La Marseillaise, tiêu ngữ (Tự do - Bình đẳng - Bác ái), ngày quốc khánh 14/7, bó gậy gỗ với chiếc rìu, Gà trống gaulois, Đại ấn, và Marianne. Nếu như các biểu tượng khác không thay đổi từ nhiều năm qua, thì hình ảnh Marianne, xuất hiện trên mọi tài liệu văn bản chính thức của chính phủ Pháp, cho đến tem bưu điện, đã trải qua nhiều thay đổi. Chân dung của Marianne là cách mà mỗi tân tổng thống “thể hiện giá trị của nền Cộng Hoà trong nhiệm kỳ của mình”. Mariane trở thành hiện thân của Cộng Hoà Pháp kể từ sau cuộc cách mạng Tư Sản Dân Quyền Pháp 1789 qua tác phẩm “Nữ thần tự do dẫn dắt nhân dân” của hoạ sĩ Eugène Delacroix. Hình ảnh người phụ nữ quần áo xộc xệ, đội mũ Phrygien cầm cờ Pháp tiến lên phía trước, dẫm đạp lên đống đổ nát, khói lửa. Bảo tàng Bưu Điện (Musée de la Poste) tại Paris tổ chức cuộc triển lãm với tên gọi “Những diện mạo gương mặt của Cộng Hoà Pháp”, từ ngày 23/05/2022 đến 01/04/2024, giới thiệu những thay đổi của nàng Marianne trong tem đỏ, kể từ lần đầu tiên phát hành cho đến nay. Sự kiện này nhằm giới thiệu với công chúng Pháp những câu chuyện đằng sau những bản tem được phát hành mang chân dung nàng Marianne và cả những bản thảo chưa từng được công bố, nhất là trong bối cảnh Bưu điện Pháp thông báo loại bỏ tem đỏ để thay bằng tem điện tử từ tháng 01/2023. Mỗi lần xuất hiện trên tem là một lần nàng Mariane thay đổi diện mạo, mang những ý nghĩa tượng trưng khác nhau cho chế độ chính trị của Cộng Hoà Pháp. Đôi khi, tem bưu chính cũng bị chính trị hóa. Đồng giám tuyển Monika Nowaka của triển lãm, trả lời trang Artdutimbre, cho biết : “Nếu như Marianne được ví là biểu tượng của nền Cộng Hoà và sự Tự do được sinh ra vào năm 1792, xuất hiện trên con triện cũng như những đồng tiền xu thời điểm đó, thì đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nàng Marianne không còn giữ ưu thế nữa…Mãi cho đến năm 1944, tên của nàng Marianne mới được nhắc đến trở lại, đồng thời đã giành lại vị trí của mình. Đó là lý do tại sao chúng tôi lựa chọn giới thiệu lại lộ trình này, câu chuyện của Marianne, những đổi thay cũng như những ý đồ, hay ẩn ý được thể hiện trong mỗi lần nàng xuất hiện trên con tem bưu chính.” Lộ trình thăm quan triển lãm làm nổi bật hàng trăm tác phẩm, được trưng bày theo trình tự thời gian. Đầu tiên là giai đoạn 1943-1944, khi chiến tranh vẫn bao trùm nước Pháp. Theo sáng kiến ​​​​của tướng Charles de Gaulle, tem bưu chính in hình Marianne, do Edmond Dulac thiết kế đã được tin ấn và phát hành tại những vùng hải ngoại đang dần được giải phóng, để chuẩn bị cho 1 nước Pháp sớm được tự do. “Marianne de Dulac trở thành mẹ của tất cả Marianne”, như chú thích của bảo tàng Bưu Điện. Hình ảnh “Marianne de Dulac” trở thành biểu tượng mới của nền cộng hòa. Các bì thư dán tem với hình ảnh nàng Marianne được gửi đi khắp lãnh thổ Pháp thời bấy giờ, như tại đảo Corse, khu vực này được giải phóng vào tháng 10/1943, trước đó không hề có tem bưu chính. Đến tháng 06/1944, chính phủ lâm thời của cộng Hoà Pháp do tướng De Gaule lãnh đạo đã yêu cầu sản xuất các loại tem mới “cho một nước Pháp giải phóng”. Đó phải là một nước Pháp nông nghiệp, một nước Pháp vừa bước ra khỏi cuộc chiến và bắt đầu công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Một cuộc thi vẽ nàng Marianne đã được tổ chức để chọn ra hình ảnh Marianne thể hiện tốt nhất hình ảnh nước Pháp lúc bấy giờ. Tác phẩm do hoạ sĩ Pierre Gandon, thể hiện một nàng Marianne “giải phóng”, đã được lựa chọn. Biểu tượng quyền lực ? Tại sao nàng Marianne lại trở thành biểu tượng đại diện cho nước Pháp, cho nền Cộng Hòa ? Nhà sử học Maurice Aguilon, tác giả của của cuốn “Les métamorphoses de Marianne”, giải thích trên France Inter (năm 2001) như sau : “Bởi vì khi lật đổ chế độ quân chủ, giới cầm quyền thấy chỉ tuyên bố thành lập Nhà nước là chưa đủ mà còn muốn cố gắng thể hiện quyền lực đó. Ở dưới chế độ quân chủ, đó là điều bình thường và tự nhiên khi thấy đại diện chính của quyền lực là chân dung của nhà vua và một sốt biểu tượng khác. Tuy nhiên, khi ta xoá bỏ chế độ quân chủ và chân dung của nhà vua, để không phải đối mặt với khoảng tường trống, đại diện cho quyền lực, có vẻ như không có giải pháp nào khác đó là tìm lại trong kho tàng “truyền thống” những biểu tượng để có thể đại diện cho những thứ trừu tượng. Bởi vì diện mạo của chính phủ Cộng Hòa trừu tượng. Xin nhắc lại về định luật ngày 25/09/1880. Hoa Lys được thay thế bởi biểu tượng của sự tự do. Việc lựa chọn một hình tượng đại diện cho tự do của Cộng Hòa Pháp, lấy hình ảnh Marianne đội mũ Phrysien, theo một cách nào đó, giống như là mượn hình tượng tự do phổ quát để biến lấy thành của mình.” Chiếc tem bưu chính đầu tiên được phát hành ở Pháp năm 1840, mang hình ảnh của nàng Cerès. Sau hàng thế kỷ, tem hiện hữu trong cuộc sống thường nhật của hàng triệu người dân Pháp. Mỗi một chiếc tem được phát hành với những hình ảnh của các nhân vật mang tính biểu tượng, những công trình văn hoá lịch sử, hay những tác phẩm nghệ thuật. Đó là những hình ảnh phản ánh những sự kiện đánh dấu Lịch sử. Hình ảnh đó vì vậy thay đổi theo thời gian, đó không chỉ đơn giản là một mảnh giấy dán trên bì thư, mà chúng còn là cách thể hiện diễn đạt, sáng tạo, kể lại những câu chuyện lịch sử. Đọc thêm : Nàng Marianne, biểu tượng của dân tộc PhápHình ảnh nàng Marianne xuất hiện trên tem bưu chính không chỉ mang ý nghĩa về mặt chính trị mà còn cả về nghệ thuật. “Tem bưu chính cũng không chỉ là công cụ để thu phí vận chuyển, mà còn là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo”. Khi nền đệ ngũ Cộng Hoà được thành lập, “vẽ lại chân dung Marianne” trở thành truyền thống cho mỗi nhiệm kỳ tổng thống. Các cuộc thi được tổ chức để chọn ra một Marianne phù hợp nhất. Không chỉ những con tem được thông qua, triển lãm của bảo tàng Bưu Điện cũng trưng bày những bản nháp, hay các bản không được duyệt trong các cuộc thi cũng con tem nguyên bản cuối cùng được tổng thống Pháp chấp thuận. Nhắc đến nàng Marianne thì không thể không nhắc đến tác phẩm “Tự do dẫn lối dân tộc” của Eugne Delacroix. Đây cũng là hình ảnh được hoạ sĩ Pierre Gandon lấy cảm hứng sáng tác tem trong một cuộc thi vào năm 1977. Nàng Marianne ‘cách mạng', hay còn được gọi là “Tự do của Gandon” đã được chọn làm biểu tượng đánh dấu cho nhiệm kỳ tổng thống cánh tả đầu tiên trong nền đệ ngũ Cộng Hoà của Pháp, khi François Mitterand đắc cử vào năm 1981. Tổng thống Mitterand muốn dùng một biểu tượng mạnh mẽ đánh dấu cho sự khởi đầu của nhiệm kỳ của mình. Lập trường chính trị trong tem Trên thực tế, những tấm tem nhỏ bé, được hàng triệu người Pháp sử dụng, đôi khi lại được xem như là những “sứ giả” truyền tải những thông điệp về lập trường chính trị của tổng thống Cộng Hoà Pháp. Năm 1977, thiết kế Marianne mà tổng thống Giscard d'Estaing chọn có khuôn mặt quay sang bên phải. Năm năm sau đó, tổng thống François Mitterrand, vị lãnh đạo cánh tả đầu tiên của nền đệ ngũ Cộng Hoà, đã chọn nàng Marianne quay sang bên trái, nói đến sự lãnh đạo của cánh tả. Lựa chọn Marianne đôi khi không tránh khỏi những tranh cãi. Theo đài phát thanh Pháp France Inter, năm 2013, tổng thống François Holland muốn thể hiện một nhiệm kỳ đánh dấu tầm quan trọng của giới trẻ. Ông đã yêu cầu sinh viên đại học và học sinh trung học bỏ phiếu các bức vẽ khác nhau để chọn ra diện mạo mới cho Marianne. Tác phẩm của Olivier Ciappa đã được bầu chọn. Tuy nhiên nghệ sỹ cho biết sáng tác của mình được lấy cảm hứng từ người đồng sáng lập phong trào nữ quyền Femen, Inna Shevchenko. Lựa chọn này đã khiến đảng Dân Chủ Công Giáo không hài lòng và kêu gọi tẩy chay tem Còn đối với tổng thống đương nhiệm Emmanuel Macron, tại nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã chọn mẫu thiết kế của họa sĩ đường phố, Yseult YZ Digan, làm biểu tượng của nền Cộng Hòa. Đó là một nàng Marianne “dấn thân” (engagée) với ánh mắt có chút hờn dỗi mà kiên quyết, để tóc xoăn dài và đội mũ Phrygien, thể hiện tính hiện đại và khát khao bứt phá.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Nhắc tới nhóm L.E.J (Elijay), giới yêu chuộng nhạc trẻ nghĩ tới ngay một ban tam ca thành công cách đây bảy năm nhờ một loạt các bài hát trình bày trên mạng dưới dạng liên khúc. Mặc dù nổi tiếng nhờ hát nhạc Anh Mỹ, nhóm này thật ra hoạt động chủ yếu tại Pháp. Đầu năm nay, ban tam ca Elijay/L.E.J đã cho ra mắt một tuyển tập chọn lọc gồm các bản nhạc Pháp hay nhất. Xuất thân ban đầu từ ban hợp xướng Radio France, chuyên đi biểu diễn cùng với Dàn nhạc giao hưởng Đài phát thanh Pháp, Lucie cùng với Elisa và Juliette (tốt nghiệp nhạc viện Saint-Denis) thành lập nhóm Elijay/L.E.J vào năm 2013, tức cách đây vừa đúng một thập niên. Quen nhau từ thời còn nhỏ, ba cô bạn trẻ đi học cùng trường và có cùng một lứa tuổi (họ đều sinh ra vào năm 1993). Nghệ danh của nhóm lấy tên của ba thành viên, rồi ghép lại ba chữ đầu tiên. Được đào tạo bài bản qua các lớp nhạc cổ điển, nhưng ba thành viên trong nhóm đều thành thạo các trào lưu âm nhạc thời nay, kể cả hip-hop và soul pop. Ngoài năng khiếu thanh nhạc, ba thành viên nhóm Elijay còn biết chơi khá nhiều nhạc cụ kể cả kèn saxo (Lucie Lebrun), trống và bộ gõ (Elisa Paris), cello và đàn bass (Juliette Saumagne). Điều này được thấy rất rõ trong cái tài hòa âm phối khí của họ, nơi giọng ca acapella (hát đơn hay hát bè) được sử dụng như một nhạc khí hẳn hoi. Thành danh nhờ sở trường soạn liên khúcVào mùa thu năm 2013, ban tam ca đoạt giải nhất nhân kỳ liên hoan âm nhạc "Nuits de Champagne". Nhờ vậy, họ được mời đi biểu diễn tại khá nhiều liên hoan có uy tín khác ở Pháp trong những mùa hè sau đó, trong số này phải kể đến các liên hoan như Printemps de Bourges, Rolling Saône, ProMeaux Festival, liên hoan đa nghệ thuật thành phố Montjoux ….Quan trọng hơn nữa nhóm Elijay/L.E.J ký hợp đồng với công ty Live Nation Entertainment, để hát trong phần mở đầu đợt biểu diễn tại Pháp của thần tượng Pharrell Williams, vào tháng 06/2015. Hai tháng sau, ban tam ca đưa lên mạng YouTube liên khúc đầu tiên của mình mang tựa đề ''Summer 2015''. Sử dụng kỹ thuật hòa quyện đan xen tiêu biểu của mashup (công phu hơn medley), nhóm này kết nối 11 bản nhạc thịnh hành thời bấy giờ thành một liên khúc mùa hè 2015. Tài năng của họ thu hút sự chú ý của tạp chí Time của Mỹ. Nhờ được giới truyền thông Pháp phổ biến rộng rãi thông tin, video đầu tiên của nhóm thu hút gần 100 triệu lượt người xem. Đến khi bản nhạc được phát hành trực tuyến, liên khúc này giành lấy ngay hạng đầu thị trường đĩa đơn tại Pháp.Thành công bước đầu khá bất ngờ mở đường cho ban tam ca ký hợp đồng ghi âm và biểu diễn. Tính đến nay, nhóm này đã phát hành 4 album phòng thu, xen kẻ các bản nhạc nguyên tác của nhóm với nhiều giai điệu phóng tác ghi âm lại thành liên khúc. Album đầu tay của nhóm Elijay/L.E.J lập kỷ lục số bán khi đạt mức tương đương với hai đĩa bạch kim, trong khi hầu hết các liên khúc phát hành vào mỗi mùa hè đều đạt mức đĩa vàng. Ban tam ca chỉ một lần phá vỡ thông lệ, khi cho phát hành liên khúc nhạc pop rock thập niên 1980 vào mùa thu năm ngoái, thay vì vào mỗi mùa hè như những năm trước.Tuyển tập thứ tư dành riêng cho nhạc PhápRiêng về album gần đây nhất của nhóm, đây là lần đầu tiên ban tam ca ghi âm lại toàn bộ các giai điệu tiếng Pháp để vinh danh các tác giả đàn anh cũng như đề cao các giai điệu nhạc Pháp thuộc vào hàng di sản. Nhóm này đem lại một lối tiếp cận khác với các tác phẩm kinh điển như "Je suis malade" (Tương tư) của Serge Lama, "Les feuilles mortes" (Lá thu chết) phiên bản của Yves Montand, ''L'Aigle noir'' (Cánh chim đen) của Barbara, "La Bohème" (Kiếp phóng lãng) của Aznavour và nhất là ''La Javanaise'' của Gainbourg nhưng qua lối diễn đạt của Juliette Gréco ….. Trên album thứ tư, ban tam ca đã thực hiện ba liên khúc : ''Foule sentimentale & La vie en rose'', ''Mon amant de Saint-Jean & Mistral Gagnant", ''Jardin d'hiver & Que reste-t-il de nos amours''. Tuy các bài hát không có cùng chủ đề, nhưng nhóm này vẫn hòa quyện tài tình các giai điệu, đan xen khéo léo các câu chữ, các trích đoạn thường bổ sung cho nhau làm cho ý từ thêm nổi bật. Về cốt cách, ban nhạc vẫn thể hiện lòng trung thành với nguyên tác, còn qua lối phối khíhòa âm, họ lại thành công khi đưa các giai điệu thời xưa vào kỷ nguyên hiện đại, trong cách sắp xếp liên kết họ lại tạo ra được những nhịp cầu nối khác lạ thay vì làm mới. Nhờ vào nhạc cảm tinh tế lạ thường, lối hòa âm phá cách táo bạo, nhóm Elijay /L.E.J lại tạo được nhiều cảm giác bất ngờ thích thú nơi giới yêu nhạc Pháp. Câu chuyện đã bao lần được kể, chp giai điệu thêm quen thuộc gần gũi, nhưng niềm say mê như thể vẫn chưa hề luống tuổi.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Năm 2019, được chọn trình chiếu ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Fifigrot, “Selfie”, một bộ phim của Điện Ảnh Pháp, tập hợp số lượng đông đảo đội ngũ Biên kịch và Đạo diễn - lên tới 10 người - cũng như dàn diễn viên cả chính lẫn phụ vô cùng dồi dào đã đạt được giải thưởng “Amphore d'or”, là giải quan trọng nhất và gây tiếng vang lớn trong lòng khán giả. Ai cũng biết, từ “Selfie” là chỉ việc tự chụp ảnh bản thân (hoặc nhiều người) bằng thiết bị điện tử hiện đại trên nền tảng kĩ thuật số. Từ này mới xuất hiện khoảng năm 2002 nhưng dần dần đã trở thành hiện tượng trên toàn cầu bởi nó gắn liền với sự phát triển của mạng xã hội. Thế có nghĩa là, hẳn, người xem chưa cần biết chính xác bộ phim mang cái tên đầy sức ám chỉ này muốn kể câu chuyện gì thì đã có thể hiểu nó sẽ mang lại cho chúng ta những tầng ý nghĩa như thế nào. Vào cái thời đại mà hết thảy mọi thứ đều có thể tìm thấy trên mạng Internet, công nghệ xâm nhập vào cuộc sống của chúng ta, có những người mạnh mẽ vượt qua sự cám dỗ và sức ảnh hưởng của nó, nhưng cũng có những người phải chịu cảnh đổ vỡ chỉ vì công nghệ. Từ gia đình, trường học, tới công sở hay chuyện yêu đương đều có thể bị ảnh hưởng. “Selfie” chính là như thế!Bộ phim là một loạt những câu chuyện nhỏ, nhiều hoàn cảnh, số phận, ghép vào nhau tạo nên nhiều mảng màu hoàn hảo của cuộc sống số.Một gia đình có con bị bệnh hiểm nghèo có nhu cầu chia sẻ với mạng xã hội. Một cô giáo dạy Văn cổ điển bỗng bị buộc phải làm quen với cách dạy mới áp dụng công nghệ. Một thương nhân luôn nhận được những quảng cáo kêu gọi mua sản phẩm bán trên mạng vô tình phù hợp với mọi nhu cầu của anh ta. Một chàng thanh niên lựa chọn trang Chat-love để có được tình yêu của đời mình. Và vô số những người từ quyền chức, giàu có, danh cao vọng trọng tới những nhân viên văn phòng quèn đều vướng vào vụ rò rỉ thông tin trên một ứng dụng có thể khiến cuộc đời họ thay đổi hoàn toàn.Ai cũng có bí mật của riêng mình. Nhưng liệu, cái bí mật đó có thật sự là bí mật, khi chúng ta “ăn với công nghệ, ngủ cùng công nghệ, làm việc với công nghệ, học bằng công nghệ và yêu nhờ công nghệ”? Nơi chúng ta đang sống liệu có đúng là chỉ dành cho chúng ta hay không? Giờ thì có lẽ khán giả đã hiểu tại sao “Selfie” lại gần gũi với ta như vậy! Sức mạnh của công nghệKhông thể phủ nhận, công nghệ có một sức mạnh ghê gớm. Ma lực của sự kết nối, sẻ chia cũng là một mặt tích cực đáng ca ngợi. Như trong phim, có thể thấy phần lớn thời lượng là dành cho gia đình Perez với hoàn cảnh rất đáng cảm thông. Cậu con trai út Lucas của họ mắc một căn bệnh hiếm gặp, sự sống của cậu bé chỉ tính bằng tháng. Thời gian trôi qua, họ cùng nhau chống chọi với bệnh tật bằng tinh thần lạc quan và yêu đời. Hai vợ chồng muốn những ngày tháng cuối cùng của con trai phải thật vui vẻ đáng nhớ. Do đó, họ thực hiện mong ước của cậu bé, là làm video clip chia sẻ lên mạng xã hội và đợi cho tới khi đủ 2 triệu lượt xem. Ban đầu, chỉ là chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, những lần đi khám bệnh, chữa trị, ăn ngủ hàng tuần ở bệnh viện của cậu bé 10 tuổi. Một người ốm là cả nhà cùng chiến đấu. Những lo lắng, những cơn đau về thể xác của con trai và lạc quan về tinh thần của cả gia đình họ đều được đăng lên mạng xã hội. Sau mỗi lần tải video lên, họ sẽ cùng nhau ngồi đợi, tìm kiếm từng lượt xem, từng lượt tương tác.Cái mâu thuẫn hiện lên ngay từ phân cảnh đầu của phim, khi 5 người, bố mẹ, anh trai, chị gái và Lucas cùng nhau ngồi đợi cho đủ 2 triệu lượt xem và ánh mắt hạnh phúc của cậu khi đạt được cái mốc mà cậu muốn. Charle, người anh trai lớn không thích thú với việc bị phụ thuộc bởi mạng xã hội và không thể nán lại với cả gia đình để đợi giây phút “định mệnh” của em trai. Nhưng có vẻ như đó chưa phải là Định mệnh của họ. Điều đang tới với họ là cơn nghiện mạng xã hội không thể dừng lại. Từ những lượt theo dõi khổng lồ, gia đình Perez bắt đầu được truyền thông để ý. Họ được Hollywood mời sang tham dự buổi ra mắt phim và rất có thể sẽ là nhiều hợp đồng quảng cáo khác. Tuy nhiên, phép màu đã xảy ra khi bác sĩ thông báo Lucas bất ngờ khỏi bệnh một cách thần kì.Không, “mạng xã hội thật sự không phải chỗ cho lòng tốt và sự vị tha”, đó là một câu thoại trong phim. Điều cay đắng đã tới với gia đình Perez khi mà việc con trai bé nhỏ của họ chiến thắng căn bệnh quái ác lại cướp đi hầu hết lượt theo dõi họ trên mạng xã hội. Không còn bệnh tật, những video của họ chỉ còn vài trăm lượt xem, thậm chí là ít hơn nhiều lượt xem một con mèo biết làm trò. Người ta lãng quên họ rất nhanh, kế hoạch đi Hollywood bị hủy bỏ, ngay cả món quà mà người ta hứa dành tặng cho Lucas cũng không còn. Hai vợ chồng Perez căng thẳng, suy tính nát óc cách tạo ra các video mới, từ việc nấu ăn, đi siêu thị mua đồ, cho tới việc lôi cả cô con gái Milou ra để tạo nên một căn bệnh điên khùng khác nhằm mua vui cho thiên hạ. Những lời bình luận ác độc liên tiếp ném vào họ, khiến họ suy sụp, chán nản, bế tắc.Cú sốc của hai vợ chồng Perez ảnh hưởng trực tiếp tới Charle, con trai lớn, tới mức cậu đã bỏ nhà đi. Việc Charle bỏ sang Serya, tham gia vào hàng ngũ của những kẻ khủng bố không những không thể cảnh tỉnh cha mẹ mình, mà trái lại, đoạn video đăng tải cậu cùng nhóm khủng bố xả súng ở một thị trấn đã được 3 triệu lượt xem và làm cha mẹ cậu phát cuồng. Nó như một cứu cánh cho họ. Và kết quả là gia đình Perez đã có một chủ đề mới cho mạng xã hội. Những lượt xem, lượt theo dõi tăng chóng mặt dành cho cha mẹ của một kẻ khủng bố non trẻ.Sức mạnh của con ngườiKhông phải ai cũng đầu hàng sự hấp dẫn của mạng xã hội và công nghệ. Hẳn là thế, bởi chúng ta là con người và chúng ta có nhận thức của những người tốt. Trong một loạt câu chuyện được bày ra ở “Selfie”, người ta thấy lấp ló tỉnh thức níu kéo những suy nghĩ sạch sẽ và tinh tế, làm nên sự khác biệt của mảng màu “cuộc sống thời công nghệ”.Đó là cô giáo dạy Văn học Bettina. Người chưa bao giờ có một chiếc điện thoại thông minh trong đời nhưng lại buộc phải tiếp cận với công nghệ để dạy học. Chiếc máy tính bảng được nhà trường cung cấp “rơi vào đầu” cô với vô vàn những điều mới mẻ buộc phải làm quen đã mê hoặc Bettina rất nhanh. Không dùng thì thôi, một khi dùng chắc chắn cái mê cung ấy sẽ cuốn lấy bạn. Bettina bỏ bê việc dạy, lơ là trong mọi cuộc họp và đắm chìm vào mối quan hệ với Toon, một diễn viên hài đang lên, được mệnh danh là “hiện tượng kĩ thuật số toàn cầu”. Tất cả chỉ dừng lại ở việc chat chit, viết bình luận trên mạng, Bettina phải lòng anh chàng mà hầu như mọi người phụ nữ đều phải lòng. Nhưng có một điều cũng chắc chắn khác, rằng cô phải lòng cả công nghệ và mạng xã hội chứ không chỉ là Toon.Do đó, chính mạng xã hội đã thức tỉnh Bettina khỏi mối tình vô hình này. Bước tới cuộc hẹn chính thức đầu tiên, đầy hào hứng và phấn chấn, Bettina hình dung ra cả cuộc đời cô về sau này khi ở bên Toon. Và rồi, cuộc sống riêng tư của họ bị dò xét, bị mổ xẻ từ những búa rìu dư luận của một “mạng xã hội không phải chỗ cho lòng tốt và sự vị tha”. Bettina bừng tỉnh. Đây không phải điều cô cần cho cuộc sống của mình. Cô không thuộc về nó. Bettina bỏ về, không gặp mặt Toon, cắt đứt mọi liên lạc với anh chàng, trở lại với cuộc sống không công nghệ của mình, đọc sách bằng giấy và lúc nào cũng kè kè sổ bút.Giữa guồng quay của công nghệ, chúng ta đều có thể lựa chọn cách sống của bản thân, giống như nhân vật thức tỉnh thứ hai là Florian, chàng trai trẻ nhờ trang chat-love để tăng điểm trên mạng xã hội, cho vừa vặn với cô gái mà anh say mê. Họ tìm nhau, hẹn hò nhau dựa trên thang điểm của ứng dụng chat chứ không phải bằng cuộc sống đời thường. Khi trải qua biết bao cố gắng để đạt mức 5, mức cao nhất mà cô bạn gái trong mơ lựa chọn, khi được cô yêu thương và khoe ảnh từng ngày từng giờ trên mạng xã hội, Florian mới nhận ra đó không phải tình yêu thật. Tình yêu sẽ không mệt mỏi và khoa trương đến thế. Tình yêu sẽ không chỉ phụ thuộc vào số điểm bạn có trên mạng hay những người tương tác với bạn ở đó. Thế giới của bạn là ở đây. Bạn không phải một người máy, một ma nơ canh, hay một con búp bê. Bạn là người và bạn có quyền sống, có quyền riêng tư, có quyền yêu như một người rất đỗi bình thường.Dù không quá nổi danh hay đạt bất cứ một giải thưởng nào, cái mà “Selfie” làm được, đó chính là khiến người xem vừa cười ra nước mắt, vừa lặng lẽ tự ngấm tự ngẫm với bản thân. Liệu, ta đã sống như một người tốt trong thế giới ảo chưa từng dừng lại này?!

hollywood internet ai chat perez li bi gi florian selfie nh hai ban ng kh toon sau trong khi tuy charle milou

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

« Viết văn để sống, để thay đổi dòng đời ». Ngoài văn chương, Colette còn là người của báo chí, của sân khấu kịch nghệ, là một ngôi sao trong làng giải trí của Paris đầu thế kỷ XX, là một nhà phê bình nghệ thuật, là chủ một hiệu mỹ phẩm, là một phụ nữ ba đời chồng với hàng loạt tình nhân thuộc cả hai giới tính. 150 năm ngày sinh Colette, tác giả tập truyện « Claudine » vẫn là người đi trước thời đại. Là phận gái, lại còn nghèo, nhà quê lên tỉnh, trong vài năm Colette chinh phục cả Paris với ngòi bút, tài năng và nghị lực. Tháng 8/1954 khi bà qua đời, Colette là phụ nữ đầu tiên được nước Pháp tổ chức quốc tang.Điều gì đã viết nên huyền thoại Colette ? Phải chăng do Colette là tiểu thuyết gia dám đề cập đến thực tế của xã hội qua đoạn trường của những người phụ nữ phải lén lút phá thai, do nhà báo Colette đã phác họa ra biết bao nhiêu chân dung những người đàn bà can đảm đối mặt với chiến tranh trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất ? Do ngoài thế giới của văn chương và báo chí, Colette còn là người của điện ảnh, là một vũ công, là một nữ diễn viên sân khấu kịch nghệ từng xuất hiện gần như khỏa thân trước ánh sáng đèn màu ? Hay đơn giản Colette là một người đàn bà tự do và thiết tha yêu cuộc sống để rồi bà đã đưa tất cả những đam mê ấy, những mảnh đời của chính mình, vào tiểu thuyết văn chương ?Ngày 28/01/1873 Sidonie Gabrielle Colette chào đời trong ngôi nhà của gia đình ở Saint -Sauveur en Puisaye, tỉnh Yonne vùng Bourgogne, miền đông nước Pháp. Năm 20 tuổi, Sidonie Gabrielle không một đồng xu dính túi, theo chồng, Henry Gauthier-Villar, thường được biết đến dưới cái tên thân mật là Willy, lên Paris sinh sống.Là một nhà phê bình đã thành danh trong giới viết văn cũng như trong làng giải trí ca nhạc, Henry khuyến khích người vợ trẻ viết văn, viết về thế giới chung quanh bà thời còn con gái. Năm 1900 cuốn sách đầu tiên của tập truyện Claudine ra mắt độc giả, nhưng đó là những tác phẩm được biết đến như của một nhà văn mang tên Willy.Hiện tượng ClaudineClaudine trở thành một « hiện tượng » cả về văn học lẫn xã hội. Đã có biết bao nhiêu cô gái mới dậy thì thời bấy giờ muốn ăn mặc như Claudine, muốn để tóc kiểu Claudine ? Sách bán đắt như tôm tươi. Hai vợ chồng Colette thu về bạc triệu.Khi chia tay với Willy năm 1906, Colette hai bàn tay trắng. Bà khám phá ra rằng, người chồng thứ nhất của mình đã chuyển nhượng toàn bộ bản quyền cho nhà xuất bản… Colette lao vào cuộc chiến để đòi « trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar ». Colette là một nhà văn, là một tác giả và bà không cần phải ẩn mình dưới bất kỳ một cái bóng nào. Từ đó bà sáng tác dưới tên riêng của mình. Một nhà văn lớn mang tên Colette ra đời.Nhưng Colette đâu chỉ giam mình trong thế giới văn học. Bà đã khám phá nhiều bộ mặt khác nhau của làng giải trí : Colette học múa, bà say mê với nghệ thuật sân khấu kịch câm, với thể loại ballet … Đam mê đó cho phép cô gái « nhà quê lên tỉnh » này bắc được biết bao nhịp cầu với những tên tuổi hàng đầu trong số các văn nghệ sĩ thời đó như là các nhà văn Anatole France, Marcel Proust... hay những nhạc sĩ sáng giá nhất ở Paris thời bấy giờ như Gabriel Fauré, Claude Debussy, Maurice Ravel …. Và đương nhiên là phải kể đến bà hầu tước Belbeuf, nhũ danh Mathidle de Morny. …Năm 1906 khi chia tay với chồng là Willy, Colette đã dọn về ở với Mathidle de Morny, con gái một gia đình quyền quý, thích giả dạng nam nhi. Hai người có cùng một đam mê nghệ thuật. Họ cùng nhau dựng và diễn vở kịch câm Rêve d'Egypte - Giấc mơ Ai Cập. Trong sáng tác này, trên sân khấu hai người đàn bà đã trao cho nhau những nụ hôn nồng thắm nhất, làm chấn động cả xứ Paris kinh kỳ. Nữ diễn viên Sabine Haudepin kể lại :Sabine Haudepin : « Bà diễn chung với người tình khi đó là cô Missy. Trên sân khấu, Colette đóng vai một người đàn bà quyến rũ Missy, còn Missy thì cải trang thành đàn ông. Phải nói là cả giới thượng lưu ở Paris khi đó đến xem họ diễn và rồi cùng nhau đánh hội đồng cặp bạn diễn này. Đến nỗi cảnh sát trưởng của Paris đã phải can thiệp. Điều gây sốc ở đây là Missy, tức là Mathide de Morny, con gái của quận công Morny, một gia đình danh giá và danh tiếng thời đó, dám cải trang thành nam giới. Đó là điều xã hội Pháp đầu thế kỷ 20 không thể chấp nhận. Hình ảnh của Missy trên sân khấu trong bộ âu phục nam là một xì -can- đan khủng khiếp lắm. » Khán giả la ó, làm loạn trong rạp hát. Tai tiếng lan rộng đến nỗi vở Rêve d'Egypte bị cấm diễn sau hai buổi ra mắt khán giả Paris. Colette và Missy không còn có thể công khai xuất hiện trước công chúng. Một ngòi bút sắc bén trong ngành báo chí Văn đàn Pháp, sân khấu Paris chưa là những sân chơi đủ rộng cho Colette. Từ 1903 bà bắt đầu cộng tác với nhật báo Gil Blas. Colette phụ trách mục điểm tin văn hóa nghệ thuật. 1909 bà cộng tác đều đặn với nguyệt san Akademos. Đây là tờ báo đầu tiên tại Pháp đề cập đến chủ đề đồng tính dưới góc độ tích cực. Cùng năm bà gặp gỡ Henry de Jouvenel, tổng biên tập báo Le Matin và đã cùng với ban biên tập gồm 150 nhà báo, hơn 500 công nhân và kỹ thuật viên, viết nên tên tuổi cho một trong những tờ báo uy tín nhất thời bấy giờ, mỗi ngày với trên dưới 1 triệu độc giả.Colette nhanh chóng tìm được một chỗ đứng trong tòa soạn. Bà viết bài, được điều sang Ý làm phóng sự, được cử đi theo dõi và tường thuật về lễ nhậm chức của tổng thống Raymond Poincaré ...Nhà báo Colette đã viết nhiều về những mảnh đời bị chiến tranh tàn phá. Năm 1916 chẳng hạn, được điều sang Ý làm phóng sự, Colette viết về những người mẹ mỏi mòn mong con trở về như sau : « có những bà mẹ đợi chờ, những người mẹ mong rằng chiến tranh buông tha con mình, trả chúng về với gia đình, dù hình hài không nguyên vẹn (…). Nhưng bao nhiêu người trong số ấy may mắn tìm lại được con mình ?»Đệ Nhất Thế Chiến kết thúc năm 1918. Gần hai thập niên sau, Colette trong cương vị một phóng viên tháp tùng chuyến đi đầu tiên của du thuyền Le Normandie nối liền thành phố cảng Le Have với New York …Trong suốt thời gian cộng tác với Le Matin, Colette đã khẳng định vị trí của bà. Năm 1919 bà điều hành toàn bộ các mục văn hóa của tờ báo uy tín này. Colette đã tuyển một cô thư ký về làm việc cùng với bà và đã đem lòng yêu thương người cộng tác viên đó, dù đã là vợ của tổng biên tập Henry de Jouvenel từ 1912.Colette chia tay với tờ báo năm 1924 khi bà ly dị với chồng sau tai tiếng gian díu với con trai riêng của chồng, thua bà tròn 30 tuổi. Trong sự nghiệp báo chí, Colette đã cộng tác với rất nhiều tạp chí, hay nhật báo. Trong đó có những tên tuổi như tờ Le Figaro, nguyệt san Marie Claire …Bà phụ trách đủ mọi mục : từ điểm sách đến phê bình văn học, từ mục đưa tin văn hóa nghệ thuật đến bình luận về các cuộc biểu diễn thời trang … cũng chính trong công việc này Colette có dịp tiếp cận với thế giới của các nhà làm mỹ phẩm và bà đã lao vào việc kinh doanh phấn son, nước hoa … cho phái đẹp.Viết để sống, để khẳng định chính mìnhTrong mọi hoàn cảnh, Colette vẫn có thời gian để sáng tác. Trong hơn một nửa thể kỷ cầm bút, bà để lại 24 cuốn tiểu thuyết, hàng chục các công trình biên khảo … Frédéric Maget, một nhà nghiên cứu về văn phong về dòng sáng tác của Colette và ông cũng là chủ tịch Hội Những Người Bạn của Colette giải thích : đối với tác giả của Gigi, viết là lẽ sống : Frédéric Maget : « Viết đối với Colette là để làm đảo lộn một trật tự nào đó, là để hóa thân, để thay đổi … dòng đời. Sáng tác đã cho phép bà trở thành Colette, cho phép làm nên tên tuổi của bà, cho phép bà công khai khẳng định bản sắc muôn hình vạn trạng của chinh mình. Nhờ sáng tác và ngòi bút, Colette đã tự viết nên huyền thoại của chinh mình ».« Sống một cách tự do », « tự do yêu đương » « tự do và công khai khẳng định giới tính », tự giành cho mình quyền được sống, vậy Colette có phải là một nhà đấu tranh cho nữ quyền hay không ? Simone de Beauvoir xưa kia nhìn nhận Colette là « nhà văn nữ lớn duy nhất ». Ở đầu thế kỷ XXI, Emmanuelle Lambert một cây bút đã viết rất nhiều và rất khâm phục Colette, lại trả lời là không :Emmanuelle Lambert : « Colette không phải là người có bản chất của một nhà tranh đấu. Theo chỗ tôi biết, bà không có ý chí chính trị gì nhiều. Bản thân Colette sống trong một môi trường bảo thủ. Bà bước ra ngoài vòng lễ giáo nhưng không vì thế mà có thể nói Colette là một phụ nữ có đầu óc cấp tiến. Bà bước ra ngoài khuôn phép của xã hội thời đó vì muốn được sống một cách tự do. Tự do yêu đương, cho dù đối tượng có thể là người cùng giới. Bà cũng đã không thu mình trong cái vị trí mà xã hội muốn áp đặt cho bà. Colette sinh ra trong một gia đình nghèo. Xã hội Pháp khi đó không có chỗ đứng cho một phụ nữ, mà lại còn không có tài sản. Thế rồi bà không muốn sống trong bóng tối, không muốn phải che đậy tình yêu, giới tính, hay phải giấu giếm những ham muốn về xác thịt … Colette đã không ngừng đấu tranh để giành lại bản quyền tác giả bị người chồng cũ là Willy tước đoạt. Bà đã đấu tranh để có được một chỗ đứng trong xã hội và trước sân khấu đèn màu. Tóm lại Colette, theo tôi không là một nhà đấu tranh cho nữ quyền vì lý tưởng chính trị, nhưng cuộc sống của bà lại mang đậm nét của rất nhiều cuộc đấu tranh đòi bình đẳng, bình quyền cho phụ nữ ». Dù vậy theo quan điểm của chủ tịch Hội Những Người Bạn của Colette, thì bà là một người mở đường …Frédéric Maget : « Như vừa nói Colette có thể không là một nhà đấu tranh vì nữ quyền nhìn từ góc độ chính trị, nhưng bà là người đưa vào văn học những chủ đề như là phá thai, những ham muốn của nữ giới … Phải nói rằng Colette đã quan sát rất kỹ trước khi bà đặt bút sáng tác và với bà văn chương và nghệ thuật viết báo gần như không có nhiều khác biệt. Bằng chứng là Colette đã khai thác một số đề tài khi bà làm công tác của một nhà báo, của một phóng viên để làm chất liệu sáng tác. Bà đã từng khẳng định rằng, văn chương không chỉ là trí tưởng tượng mà đó phải là những gì xác thực nhất của cuộc sống thường ngày. » Cuộc đời của nữ văn sĩ Colette là một tác phẩm nghệ thuật muôn màu. Sidonie Gabrielle đi trước thời đại cả một thế kỷ. Không được vinh dự trở thành phụ nữ đầu tiên được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp, nhưng Colette được Viện Hàn Lâm Hoàng Gia Bỉ về Ngôn Ngữ và Văn Học Pháp vinh danh. Bà từng đoạt giải thưởng Goncourt năm 1945 và 5 năm sau đó được đề cử giữ chức chủ tịch Ban Giám Khảo Goncourt, giải thưởng cao quý nhất của văn đàn Pháp.Colette được cả thế giới biết đến qua sách vở và nhờ điện ảnh. Tới nay hơn một chục tác phẩm của bà đã được chuyển thể lên màn ảnh lớn. Bộ phim đầu tiên được thực hiện năm 1917 (Claudine đi học) và gần đây nhất, năm 2009 đạo diễn Stephen Frears đã dựng lại phim từ tiểu tuyết Chéri.Nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh Colette, ít nhất 7 cuốn sách mới về cây bút nữ này của Pháp sẽ ra mắt độc giả trong năm 2023. Nhưng vào lúc mà Thụy Sĩ tổ chức một cuộc triển lãm lớn về tác giả tuyển tập Claudine, rồi từ Montréal đến Luân Đôn, Hồng Kông, hay Beyrouth tổ chức những cuộc hội thảo và nhiều sinh hoạt văn hóa khác để vinh danh Colette, thì Paris lại rất kín tiếng.Thư Viện Quốc Gia BNF thông báo phải đợi đến năm 2025 mới tổ chức một cuộc triển làm về sự nghiệp đa dạng và đa chiều của người con gái « nhà quê lên tỉnh » này. Phải chăng vì phá vỡ những lằn ranh về giai cấp, về giới tính, xóa bỏ những đường biên giới giữa những thể loại nghệ thuật khác nhau mà cho đến tận bây giờ Colette vẫn là một đề tài gây nhiều tranh luận - đến nỗi từ Thư Viện Quốc Gia đến Viện Hàn Lâm Pháp đều tránh nhắc đến tên bà ?

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

« Mê Mèo » không là cái « tật » của riêng gì các nhà văn Pháp. Giải Nobel Văn Học người Mỹ, tác giả cuốn Ngư Ông và Biển Cả, Ernest Hemingway, yêu mèo vì chúng « tuyệt đối không vì lẽ này hay lẽ khác mà che đậy, giấu giếm tình cảm ». Đến nay con mèo đen Béhémoth (con Hà Mã) vẫn là một biểu tượng của bảo tàng Boulgakov tại thủ đô Matxcơva từ tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita (viết trong giai đoạn 1927-1939) của tác giả người Nga Mikhail Boulgakov. Trong làng hội họa, từ Pierre Bonnard đến Pablo Picasso, xa hơn nữa là những Leonardo da Vinci của Ý hay danh họa người Nhật, Hiroshige (1797-1858) đều đã đưa hình ảnh con mèo vào nghệ thuật. Đương nhiên không thể quên thư pháp Mèo của danh họa Việt Nam Lê Bá Đảng được ông lấy nguồn cảm hứng từ một con phố vừa hẹp, vừa ngắn ở quận 5 - Paris La Rue du Chat Qui Pêche.La Rue du Chat Qui Pêche, Phố Con Mèo Câu Cá cũng là tựa đề cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Hungary, Jolan Foldes.Mèo sống trong nhung lụaRiêng trong văn đàn Pháp, bất luận nam hay nữ, thật không hiếm các tác giả « mê Mèo ». Ở vào thế kỷ thứ 17, Charles Perrault (1628-1703) với Chú Mèo Đi Hia đã làm mê hoặc độc giả với một con mèo biết nói và thông minh, giúp chủ từ hai bàn tay trắng trở thành phò mã… Con mèo Micetto giáo hoàng Leo XII để lại đã gắn bó với văn sĩ Chateaubriand (1768-1848) như bóng với hình trong giai đoạn ông làm đại sứ Pháp tại tòa thánh Vatican. Một tác giả sinh sau Chateaubriand một chút là nhà thơ Théophile Gautier (181 -1872) cũng yêu mèo không kém có lẽ bởi ông biết rất khó để làm bạn với mèo. Trong căn hộ của Théophile Gautier ở Neuilly sur Seine, ngoại thành Paris, Eponine được nhà thơ xem như một thành viên trong gia đình. Con mèo đen có đôi mắt xanh ve ấy đã cùng ông tiếp những vị khách tên tuổi nhất thời bấy giờ từ nhà khoa học Louis Pasteur đến những người bạn văn của Gautier như Goncourt, Mérimée…Về phần tác giả Ao Quỷ, George Sand (1804-1876), tựa như Théophile Gautier bà cũng rất yêu mèo bởi đấy là một « ông thần giữ của ». Của cải của nhà văn nữ này không là vàng bạc, châu báu mà là những gì bà muốn « giữ kín sâu thẳm tận đáy lòng ».Từ thập niên 1970, phim hoạt họa của Walt Disney The Aristocats-Gia Đình Mèo Quý Tộc không còn xa lạ với nhiều thế hệ khán giả khắp bốn phương nhưng có mấy ai biết rằng, Duchess, con mèo trắng xinh đẹp sống trong nhung lụa với ba con mèo con và « nhân vật » con mèo hoang Thomas O'Malley tốt bụng trong phim trong chính là phiên bản mèo mượn từ truyện ngắn Le Paradis des Chats-Thiên đường của những con Mèo (năm 1874) của nhà văn Pháp Emile Zola. Hình tượng của phụ nữMột nhà thơ lớn của thế kỷ XIX là Charles Baudelaire đã ít nhất hai lần đưa Mèo vào thi ca qua hai bài thơ Le Chat và Les Chats. Cả hai nằm trong toàn cập Les Fleurs du Mal-Những bông hoa đau khổ (1847).Le Chat Viens, mon beau chat, sur mon cœur amoureux/ Hỡi con mèo xin đẹp, hãy đến gần trái tim si tìnhRetiens tes griffes de ta patte/ Giấu bớt đi những chiếc vuốt nhọnEt laisse-moi plonger dans tes beaux yeux, mêlés de métal et d'agate (…)/ Cho ta thả hồn vào đôi mắt diệu huyền của đá xanh màu lục bảo …Ở đây, con Mèo là tình yêu, là hình bóng của người đàn bà đẹp, dù đấy là một vẻ đẹp lạnh lùng, là một mối tình ngoài tầm với, mong manh và dễ vỡ. Đến cuối bài thơ, người tình và con mèo với đôi mắt trong veo của « đá xanh màu lục bảo » chỉ còn là một. Bản chất tự do và độc lập của Con Mèo và Người Đàn Bà là điều khiến Baudelaire khâm phục, dù biết rằng tình yêu rất dễ chắp cánh bay xa…Trái lại trong bài thơ Những Con Mèo, Les Chats cũng Beaudelaire đơn thuần nói về những người bạn « đáng yêu », « hiền hòa » dù đầy « cá tính » ẩn chứa một chút gì « kỳ diệu, huyền bí » : cái dáng vẻ uy nghi của những pho tượng đầu người thân sư tử trong văn hóa Ai Cập, hay nhân vật Erabus trong thần thoại Hy Lạp, con trai của Thần Nguyên Thủy Chaos và Bóng Tối… Từ bạn đồng hành đến mối tâm giaoTrong văn đàn Pháp hiếm ai chung thủy với mèo, quan sát mèo và dành cho chúng một chỗ đứng riêng biệt trong toàn bộ tác phẩm của mình như nhà văn nữ Colette (1873-1954).Bà sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà tại thị trấn Saint Sauveur en Puisaye, vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền đông nước Pháp với rất nhiều muông thú. Frédéric Maget, chủ tịch hội Những Người Bạn của Colette kể lại nhà văn Pháp này thường nói, ngôi nhà thời thơ ấu của bà là nơi « có một sự mất trật tự trong không khí đầm ấm » có nghĩa rằng đấy là nơi « lúc nào cũng tấp nập chó, mèo, gà, sóc, dơi » … Tất cả những con thú đó luôn hiện diện bên bà trước khi đi vào văn học. Nhưng trong suốt cuộc đời và sự nghiệp, với Colette, Mèo là con vật trung thành nhất, nếu không muốn nói là « người bạn tri kỷ ». Frédéric Maget : « Những con mèo của Colette xuất hiện từ những tác phẩm đầu tay cho đến những sáng tác cuối cùng. Đương nhiên Dialogues de bêtes-Đối thoại của xúc vật (1904) được biết đến nhiều hơn cả. Trong tác phẩm này, các con thú dưới ngòi bút của Colette biết nói và chúng là những con vật rất quen thuộc với bà. Thế rồi Colette đã giàu trí tưởng tượng, ‘nhân vật' chính trọng truyện, là con mèo Kiki La Doucette, thực ra là biệt danh mà bà dành để gọi người chồng thứ nhất của mình. Dưới tên gọi có vẻ thùy mị và dễ thương đó, thì con mèo trong tác phảm này lại đầy nam tính » Francette, Saha, Kiki La Doucette, … là những con Mèo ẩn hiện trong trên dưới 50 tác phẩm của bà. Đáng chú ý nhất là Con Mèo Cái, Saha mà bà đã đưa một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của mình La Chatte, phát hành năm 1933. Frédéric Maget : « Colette đã dành một chỗ đứng riêng biệt cho mèo, và hiếm có một nhà văn nào gần như là viết cả tiểu sử về mèo như bà. Thí dụ như độc giả biết rõ tên tuổi của từng con mèo trong sáng tác của Colette, họ biết rõ con mèo đó sinh ngày nào, mất ngày nào, nó có bao nhiêu anh chị em… Ta biết là Colette yêu nhất con mèo cuối cùng mà bà chỉ gọi nó với cái tên đơn giản là Con Mèo Cái- La Chatte, như trong tiểu thuyết cùng tên. Độc giả của Colette biết là con mèo này sinh ngày 25/12/1925 và nó đã chết ngày 12/02/1939. Nhà văn yêu con mèo này đến nỗi, khi chia tay với nó bà không bao giờ nuôi thêm một con mèo nào khác. Không một con mèo nào khác có thể lấp vào khoảng trống mà La Chatte để lại trong lòng người nghệ sĩ này ». Trong tiểu thuyết La Chatte, con mèo Saha cùng với cặp vợ chồng Alain và Camille là một bộ ba : Mèo và Camille cùng muốn độc quyền ngự trị trong trái tim của Alain. Người vợ trẻ ghen đến điên cuồng vì một con mèo. Mọi việc đổ vỡ khi Camille « ám sát » hụt Saha. Alain bỏ nhà ra đi với con mèo trên tay. Tựa như Sidonie-Gabrielle Colette, anh đã chọn quay lưng lại với thế giới của loài người, bởi xúc vật « không bao giờ phản bội ».Biểu tượng của sự kiêu căng, gian xảoNhưng không phải ai cũng yêu Mèo như Colette hay dành cho con thú bốn chân này những « vai diễn đẹp » trong tác phẩm của mình. Con mèo dưới ngòi bút của nhà văn François Rabelais thế kỷ XV-XVI là biểu tượng của giới quan lại tham ô, vơ vét của dân để làm giàu như trong tùy bút Isle Sonnante, ra mắt độc giả năm 1562 (9 năm sau khi tác giả qua đời).Ông vua trong làng thơ ngụ ngôn của Pháp là Jean de La Fontaine không mấy có cái thú yêu Mèo. Với ông đấy là những con vật « độc ác », « giả dối », « kiêu căng, thông minh » nhưng « xảo quyệt ». Thâm hiểm, độc ác là hình ảnh gắn liền với hồng y giáo chủ Richelieu, dưới thời vua Louis XIII. Ông là người sáng lập ra Viện Hàn Lâm Pháp. Hồng y Richlieu mê Mèo đến nỗi, có lúc ông nuôi đến 14 con mèo, cử hai người hầu hạ chúng ngày đêm. Mèo của Richelieu chỉ ăn thăn gà.Thú vị không kém là trường hợp của văn hào Pháp, André Malraux, vị bộ trưởng Văn Hóa đầu tiên của nước Pháp, đã cùng với tướng de Gaulle có một đam mê : cả hai cùng rất yêu Mèo. Malraux không thể sống thiếu Mèo đến nỗi ông đòi bằng được người tình là nhà văn Louise de Vilmorin đục tường trong dinh thự của bà để cho các con Mèo của ông được « tự do đi lại, thả bước từ buồng nọ sang phòng kia ». Hiềm nỗi, ông bộ trưởng Văn Hóa này dưới thời tướng de Gaulle vì quá yêu mèo mà đã quên mất rằng dinh thự của gia đình de Vilmorin tại thị trấn Verrières le Buisson, ngoại ô phía nam Paris, được xếp vào hàng « các công trình kiến trúc và di tích lịch sử ». Đâu đó André Maleraux đã đặt tình yêu Mèo lên trên cả một di sản văn hóa lịch sử, dù đó là một dinh thự có giá trị lịch sử.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Năm 2023 đánh dấu công viên Disneyland Paris - ốc đảo văn hóa Mỹ trong lòng nước Pháp - bước sang năm thứ 31. Được Walt Disney đầu tư kỹ lưỡng đến từng chi tiết để tạo nên một trong những "công viên đẹp nhất từng được xây dựng", nhưng lịch sử 3 thập niên phát triển của Disneyland Paris không phải lúc nào cũng đẹp như trong chuyện cổ tích. Một kỳ vọng mang tên Euro Disneyland Đến với Disneyland Paris là đến với những hình ảnh lung linh sắc màu, đẹp như trong chuyện cổ tích, nhất là vào mùa lễ hội Haloween và mùa Giáng Sinh, năm mới, những điệu nhạc vui tươi, rộn ràng từ sáng đến tối, các đoàn diễu hành của các công chúa, hoàng tử và những nhân vật bước ra từ thế giới phim hoạt hình Walt Disney, những màn bắn pháo hoa hoành tráng vào ban đêm. Thế nhưng đằng sau thế giới kỳ ảo đó là cả một chặng đường khó khăn của Disneyland Paris mà có lẽ Walt Disney đã không lường tới, có lẽ vì đã quá lạc quan mà không tính tới những nét khác biệt về văn hóa Âu - Mỹ. Là công viên Disney duy nhất tại châu Âu, Disneyland Paris (tên lúc đầu là Euro Disneyland) hiện được xem là điểm đến du lịch hàng đầu của châu lục này. Khai trương năm 1992, Euro Disneyland là công viên Disney thứ tư trên toàn thế giới, sau công viên Disney ở Florida, California (Mỹ) và Tokyo (Nhật Bản). Sau 4 năm xây dựng, với khoản tiền đầu tư 22 tỉ francs của Walt Disney, ngày 12/04/1992, Euro Disneyland đã mở cửa đón khách tại vùng Marne-la-Vallée, ngoại ô đông nam thủ đô Paris của Pháp, một sự kiện lớn hiếm có. Trên đài France Culture, ngày 09/04/2022, nhân dịp sinh nhật 30 năm của Disneyland Paris, nhà sử học Sébastien Roffat, chuyên gia về lịch sử phim hoạt hình, tác giả cuốn sách « Biến giấc mơ thành thực tế. Lịch sử Disneyland Paris » (NXB L'Harmatan) nhắc lại: « Đó là một trong những chiến dịch marketing lớn nhất mà người ta chưa từng biết tới trong lịch sử. Quả thực, họ đã dành nhiều năm chuẩn bị tinh thần cho người dân châu Âu để họ đón nhận việc mở cửa Disneyland : các cửa hàng mua sắm Disney, các câu lạc bộ Disney, và có hàng tá chương trình truyền hình đã được chuẩn bị trong suốt một thời gian dài. Quả đúng là Disney đã chuẩn bị việc mở cửa Disneyland cứ như thể đây là lần đầu tiên họ tổ chức một sự kiện như vậy. Vả lại, đây cũng là dự án bất động sản cực kỳ lớn của nước Pháp vào cuối thế kỷ 20, chỉ sau khu trung tâm kinh tế tài chính La Défense. Chính vì thế, đó là sự kiện khai trương không thể bỏ lỡ. Họ đã thực sự chuẩn bị tinh thần cho người dân châu Âu từ rất nhiều năm trước đó, và đỉnh điểm là buổi lễ ngày 11/04/1992. Trước đó vài ngày, đã có tới hơn 100.000 người đến thử các trò chơi, thử nghiệm cách tiếp đón quản lý khách tham quan xem mọi chuyện sẽ diễn ra thế nào … ». Nghịch lý Disney : Khi thế giới không như trong mơ … Ngoài các khu vui chơi, công viên còn là tổ hợp khu mua sắm, nhiều nhà hàng và 7 khách sạn. Độ tỉ mỉ trong từng chi tiết, vốn đã được đòi hỏi rất cao ở The Walt Disney Compagny đã được đẩy lên mức tối đa cho công viên tại Pháp, bởi công ty Mỹ nghĩ rằng người châu Âu vốn dĩ tinh tế, nên Euro Disneyland không thể được trang trí một cách rẻ tiền. Trước khi công viên ở Pháp mở cửa đón khách, ban quản lý đã tuyển dụng tới 10.000 nhân viên. Walt Disney kỳ vọng ngay trong năm đầu tiên, Disneyland Paris sẽ đón tới 11 triệu du khách. Thế nhưng theo chuyên gia Sébastien Roffat, tác giả cuốn sách « Biến giấc mơ thành thực tế. Lịch sử Disneyland Paris », đến năm 1993,các con số thống kê đã khiến ban quản lý công ty phải hoàn toàn lo ngại : số tiền mỗi khách chi ra khi đến công viên, tỉ lệ khách đặt phòng khách sạn … đều thấp hơn so với các ước đoán ban đầu. Ông Sébastien Roffat giải thích thêm về một nghịch lý mang tên Disney : « Trong cuốn sách, tôi đã cố gắng chỉ ra cho mọi người thấy có một nghịch lý khá là khác thường. Đó là một điểm đến du lịch hàng đầu châu Âu. Nếu nhìn bề ngoài thì đó là một thành công rất lớn. Khi tìm hiểu các tài liệu trong những năm 1980, trước khi Disneyland mở cửa, dự báo số khách đến thăm công viên cho thấy họ đã từng tưởng là Marne-la-Vallée sẽ trở thành Florida của châu Âu. Họ nghĩ rằng số khách có thể sẽ nhiều gấp đôi so với ở Florida, bởi vì dân số châu Âu nhiều gấp đôi, mà diện tích công viên thì chỉ bằng một nửa. Và trong tất cả các tài liệu quảng cáo, họ đều nói là sẽ có đông khách hơn so với ở Florida, ở California, ở Nhật Bản. Họ đã nói là công viên « được thiết kế cho châu Âu » và đã tưởng tượng ra rằng sẽ có nhiều triệu khách đến mỗi năm. Thế nhưng, thực tế lại không hề giống như trong các dự báo. Công viên Disney ở châu Âu là một trong những công viên ít du khách nhất trong thế giới Disney ». Một sai lầm văn hóa đắt giá Trong bộ phim tài liệu The Inagineering Story (Disney+), được báo Le Point trích dẫn, ông Micheal Eisner, chủ tịch - tổng giám đốc The Walt Disney Compagny thời đó, thừa nhận : « Chúng tôi đã xây quá nhiều phòng khách sạn, chúng tôi đã tốn quá nhiều chi phí (…) Chúng tôi đã nghĩ rằng sẽ có thể khiến du khách ở Pháp chi nhiều tiền giống như khách hàng ở Florida. Nhưng nghĩ như vậy thực sự là xuẩn ngốc ». Theo sử gia Roffat, một sai lầm khác của The Walt Disney Compagny là họ đã bê nguyên « hình mẫu Mỹ » đặt vào châu Âu : « Đây lại một lần nữa là nghịch lý. Khi chúng tôi đặt câu hỏi cho người Mỹ là quý vị muốn đi nghỉ ở đâu, thì có đến 75% trả lời là họ muốn có một kỳ nghỉ trong một công viên vui chơi giải trí. Đó không phải là câu trả lời của dân châu Âu, người Pháp thì lại càng không. Người Pháp muốn đi nghỉ ở biển, về nông thôn hay là đi lên núi, chứ họ không muốn có một kỳ nghỉ ở công viên vui chơi giải trí. Đó chính là vấn đề mà Disney gặp phải. Họ cứ nghĩ rằng cách tiêu dùng của dân châu Âu cũng giống như người Mỹ. Nhưng người châu Âu không thể đi nghỉ 15 ngày trong một công viên vui chơi giải trí. Có những người Mỹ có thể lưu lại 1 tuần, thậm chí 15 ngày trong công viên Walt Disney World ở Florida. Nhưng người ta đi thăm Disneyland Paris chỉ một ngày thôi. Vậy đấy, người Mỹ và người châu Âu không có chung một câu trả lời, họ thực sự có thói quen văn hóa hoàn toàn khác nhau. Và tôi tin rằng đó cũng là một vấn đề cơ bản, cốt lõi, không bao giờ có thể khắc phục được, tức là người châu Âu và người Mỹ không có cùng cách tiêu dùng giải trí giống nhau. » Người châu Âu có nhiều ngày nghỉ hơn người Mỹ, nhưng chi tiêu ít hơn nhiều. Vé vào cửa, tiền ăn, tiền mua đồ lưu niệm … với người châu Âu, chi phí để trải nghiệm thế giới cổ tích ở Euro Disneyland là quá đắt đỏ, và quá … Mỹ. Một biểu tượng của cú sốc văn hóa Âu - Mỹ : trong các nhà hàng ở Euro Disneyland, khách hàng không được phục vụ cả rượu vang, lẫn bia, bởi trong thế giới Mickey không có chỗ cho đồ uống có cồn. Ấy vậy mà thế giới không rượu bia của chú chuột Mickey lại được đặt tại Pháp, xứ sở của rượu vang, của champagne. Và còn có nơi nào khác xứng đáng là xứ sở của bia hơn châu Âu ? Thế nên, rốt cuộc, « ốc đảo văn hóa Mỹ » trong lòng nước Pháp cũng đã phải nhượng bộ : rượu vang đã xuất hiện trong nhà hàng của Euro Disneyland. Thế giới Mickey trong lòng thế giới Molière Về phía Pháp, cho dù vào những năm 1980, tránh để dự án khổng lồ rơi vào đất Tây Ban Nha, Paris đã trải thảm đỏ mời gọi The Walt Disney Compagny đầu tư, thế nhưng, ngược lại, Euro Disneyland ngay từ đầu đã bị công chúng, kể cả giới văn nghệ sĩ, trí thức, chính trị gia Pháp, bài bác kịch liệt. Họ không thể mở lòng với « một thế giới Mỹ » ngay trong lòng nước Pháp, sát cạnh thủ đô Paris cổ kính, hoa lệ. Nhưng rồi, theo thời gian, Disneyland Paris cũng đã dần được tiếp nhận cởi mở hơn, hòa mình vào đời sống văn hóa, giải trí tại nước Pháp. Sử gia Sébastien Roffat nhìn nhận : « Đúng là chúng ta thấy có một sự thay đổi hoàn toàn. Chẳng hạn, Jack Lang, với tư cách bộ trưởng Văn Hóa Pháp, đã từ chối đến khai trương công viên, cho dù ông đã được mời và được đề nghị đến. Ngay từ đầu, đã có một tâm lý thù ghét tại nước Pháp. Đã có những chỉ trích kiểu như : đó là cây đinh cuối cùng đóng vào quan tài chôn vùi văn hóa Pháp, đó là bang thứ 51 của nước Mỹ. Quả là rất lạ khi đọc được những điều như vậy. Và đúng là người ta còn nói đến một « thảm họa Tchernobyl về văn hóa ». Có rất, rất nhiều những bài báo bài bác Mỹ, nhất là bài bác Disneyland, với những chỉ trích kiểu như chuột Mickey trèo lên tháp Eiffel, ăn mất tháp Eiffel. Hồi năm 1992, mọi người không hiểu tại sao lại phải Mỹ hóa thú giải trí. Thế nhưng, cũng rất nhanh sau đó Disneyland đã xâm nhập được vào văn hóa Pháp. Và khi đọc lại những ý kiến, xem lại những hình ảnh đó người ta lại thấy kỳ cục, buồn cười. Thậm chí tổng thống Mỹ George Bush đã từng phải thúc ép tổng thống Pháp Mitterrand đến Disneyland chụp một bức ảnh hồi năm 1994. Trước đó, George Bush đã gọi điện cho chủ tịch - tổng giám đốc Disney và nói rằng « Tôi tin rằng ông cần tôi giúp một tay, rằng ông muốn tôi cùng vợ con tôi đến đó ». Và rồi, George Bush đã nói với Mitterrand « Nào, chúng ta sẽ đến dùng bữa ở nhà hàng Auberge de Cendrillon (Nhà trọ của nàng Lọ Lem) ». Sau đó, công chúng thấy ảnh của Mitterrand chụp tại công viên, nhưng ông ấy có vẻ chẳng mấy vui vẻ ở đó. Nhưng chí ít thì tổng thống Pháp Mitterrand cũng đã đến đó. Dần dần, cuối cùng thì Disneyland cũng trở thành một phần của nước Pháp và các chính trị gia cũng tỏ ra hòa dịu hơn, các nhà trí thức cuối cùng cũng vậy. Ngày nay, các bài viết chỉ trích Disneyland cũng ít hơn nhiều và đối với các chính trị gia thì việc cho thấy điều đó cũng đã trở nên khá bình thường ». Như vậy là, sau quãng đường dài 30 năm, những sai lầm trong tính toán, những khác biệt, thậm chí là cú sốc văn hóa, đã dần được lấp đi. Được đặt chân vào thế giới cổ tích Walt Disney tại vùng Paris vẫn là niềm ước ao không chỉ của trẻ nhỏ mà cả các bậc phụ huynh. Nay Disneyland Paris đã trở thành điểm đến du lịch hàng đầu châu Âu, trước Covid, mỗi năm thu hút tới 15 triệu du khách. Tổng cộng, sau 30 năm, Disneyland Paris đã thu hút được 375 triệu lượt khách. Riêng đối với Pháp, Disneyland Paris mang lại 6,2% doanh thu cho ngành du lịch, sử dụng 60.000 lao động trực tiếp và gián tiếp. Nếu chỉ tính riêng số người làm việc ngay tại chỗ, Disneyland Parislà nơi sử dụng nhiều nhân công nhất châu Âu : 16.000 lao động.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Năm nay, Pháp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Louis Pasteur, một nhà bác học chưa bao giờ học ngành y, nhưng lại cống hiến rất nhiều cho y khoa. Cha đẻ của những vac-xin chống bệnh dại, bệnh than... cũng là người mở đường cho các ứng dụng lâm sàng, cho các nghiên cứu về bệnh truyền nhiễm. Những phát hiện của Pasteur không chỉ đã cứu sống mạng người, mà còn cứu cả những ngành khác của Pháp, từ cất rượu vang cho đến tơ tầm, chăn nuôi, những cột trụ của kinh tế Pháp thời bấy giờ. Tuy nhiên, Pasteur (1822-1895) sẽ không có được hào quang từ khi còn sinh thời nếu thiếu Marie, một người vợ đảm đang, « cộng tác viên đắc lực nhất, trung thành nhất ». Từ thế kỷ XIX, Marie và Louis Pasteur đã ý thức được rằng, tiếng tăm của Pasteur chỉ có thể vang xa nếu những phát minh của nhà khoa học này được phổ biến với công luận và phải có ích cho cộng đồng. Gia đình Pasteur đi trước thời đại, vận dụng truyền thông và những mối quen biết để đạt đến đích. Là một con người cần mẫn, đam mê với công việc, với một phương pháp nghiên cứu nghiêm túc và khoa học, Pasteur đi từ phát hiện này đến những khám phá khác. Louis Pasteur cống hiến cả cuộc đời cho công việc nghiên cứu, cho khoa học. Nhưng bí quyết nào giúp Louis Pasteur, với hai bằng tiến sĩ về vật lý, hóa hóa học ban đầu, tìm ra nguyên lý của quá trình lên men, tìm ra những phương pháp để bảo quản từ sữa, đến rượu, bia … trước khi trở thành « ông tổ của khoa truyền nhiễm », một nhà vi sinh vật học nổi tiếng nhất mọi thời đại ? Kính hiển vi trong tay một nhà điều tra RFI tiếng Việt mời bà Sylvie Morel, giám đốc điều hành hai bảo tàng Louis Pasteur tại Dole và Arbois trong vùng Jura, miền đông nước Pháp, trả lời các câu hỏi này. Dole là nơi Louis Pasteur sinh ra ngày 27/12/1822, trước khi gia đình ông dọn về Arbois, cách Dole hơn 30km. Trước hết, Sylvie Morel nhắc lại bối cảnh của ngành nghiên cứu khoa học hồi thế kỷ XIX và phương pháp làm việc phổ biến thời bấy giờ. Sylvie Morel : « Thế kỷ thứ 19 thực sự là thời điểm khoa học thăng hoa. Các trường đại học, các phòng thí nghiệm, các trung tâm nghiêm cứu càng lúc càng có uy tín. Đó cũng là giai đoạn mà công việc nghiên cứu dành một chỗ đứng riêng biệt để thực hiện các cuộc thí nghiệm ở vườn bách thảo, trong sở thú, hay các viện bảo tàng … Tất cả nhằm tìm hiểu về thế giới của các sinh vật cả trong hiện tại lẫn quá khứ, thí dụ như các nhà khoa học cũng đã tìm hiểu về đời sống của các loài khủng long. Vào thời đó, các nhà khoa học quan tâm đến các loài vi khuẩn. Louis Pasteur quan sát thế giới ấy qua lăng kính hiển vi. Với ống kính hiển vi, ông đã quan sát các loại vi sinh vật, bởi vì khi ấy một số nhà khoa học, đứng đầu là Félix Archimède Pouchet, đã tin vào thuyết tự sinh, theo đó mọi sinh vật đều được tự nhiên sinh ra, không cần đến một sinh vật khác. Louis Pasteur chứng minh điều ngược lại khi ông công bố quy luật tạo sinh ». Ra khỏi phòng thí nghiệm để quan sát thế giới chung quanh Sylvie Morel : « Quả thực là trước Pasteur, giới nghiên chủ yếu quan sát và so sánh để từ đó đưa ra những kết luận khoa học. Có khi thành công, nhưng phương pháp đó cũng có những giới hạn của nó. Riêng Louis Pasteur tiến hành các cuộc nghiên cứu như một viên cảnh sát mở điều tra hình sự vậy ! Xuất phát từ một điểm khởi đầu, Pasteur đi tìm những bằng chứng quan sát trên thực địa. Louis Pasteur đã bước ra khỏi các phòng thí nghiệm, ông tiếp xúc với những người trong cuộc. Thí dụ khi nghiên cứu tìm hiểu về bệnh than, ông gặp thẳng giới chăn nuôi. Ông hỏi họ cặn kẽ nhiều điều trước khi đưa ra một loạt giả thuyết. Khi có được những giải thích thỏa đáng, Pasteur tiếp tục đào sâu hơn để đưa ra những lập luận khoa học. Ông cho công bố kết quả nghiên cứu đó và thường thì những tài liệu này được các đồng nghiệp của Louis Pasteur thảo luận. Các cuộc tranh cãi thường rất sôi nổi. Cũng có thể là Pasteur và các cộng tác viên của ông phải thực hiện những cuộc thí nghiệm khác nữa, hay họ phải tìm ra những xét nghiệm chứng minh điều ngược lại với những lập luận của Pasteur … » Nhà điều tra Louis Pasteur và con mắt « tinh đời » Sylvie Morel : « Chính phương pháp nghiên cứu chính xác đó là khác biệt giữa Louis Pasteur với các đồng nghiệp cùng thời. Ông đã thành công trong lúc các nhà khoa học khác thất bại. Cần nói thêm là Pasteur đã có một đội ngũ đông đảo các cộng tác viên để thực hiện hàng loạt thí nghiệm một cách rất tỉ mỉ và cũng phải công nhận rằng Louis Pasteur có con mắt rất tinh đời, ông có khiếu đặc biệt để biết rằng phải 'điều tra' theo hướng nào, tìm ra những điểm nhấn và từ đó tiếp tục tìm tòi (…) Louis Pasteur rất kiên trì trong công việc. Ông làm việc nghiêm túc và rất có phương pháp. Chỉ nội điều đó không thôi đã khiến các đối thủ của ông tuy bực mình, nhưng ai cũng phải nể phục cái tinh thần trách nhiệm đó. Thế rồi, không chỉ trích được Louis Pasteur về phương diện khoa học, về mặt nghiên cứu … người ta viện cớ Louis Pasteur không phải là bác sĩ để tấn công ông, để phản bác những phát minh của ông trong lĩnh vực y khoa. Họ coi thường Pasteur vì ông chỉ là một nhà hóa học và do vậy « ông biết gì về y khoa mà dám xen vào lĩnh vực này ». Nhưng sau này, chính Viện Hàn Lâm Y Khoa của Pháp đã vinh danh Lous Pasteur! Thuận vợ thuận chồng tát Biển Đông cũng cạn Ngoài đời, Louis Pasteur là một con người rất có cá tính. Được bổ nhiệm về dạy ở đại học Strasbourg, ông đã mạnh dạn trực tiếp xin hỏi cưới con gái ông viện trưởng là cô Marie Laurent. Giám đốc bảo tàng Louis Pasteur, bà Sylvie Morel, kể lại về tính táo bạo của Louis : Sylvie Morel : « Marie Pasteur là con nhà gia thế, thân phụ của bà là khoa trưởng Đại học Strasbourg. Louis gặp bà khi ông được bổ nhiệm về Strasbourg dạy khoa Lý - Hóa. Khi ấy Louis Pasteur 26 tuổi, Marie thua ông 4 tuổi. Louis Pasteur ý thức được rằng Marie xuất thân từ một gia đình danh giá. Gia đình Laurent quen biết rộng, có ảnh hưởng trong giới khoa học, trí thức và cả trong giới văn nghệ sĩ. Marie Laurent là một trong ba cô con gái của ông viện trưởng. Ở thế kỷ 19, để nên vợ nên chồng, gia đình hai họ bao giờ cũng phải nhờ một người thứ ba đứng ra làm mai mối, để nhỡ có bị từ chối, không bên nào mất mặt. Vậy mà Louis Pasteur cả gan viết thư trình bày thẳng nguyện vọng với ông viện trưởng. Vị giáo sư mới 26 tuổi này đã nói rõ thân thế : Gia đình Pasteur khá giả nhưng không giàu có lắm, ông có một cô em gái hơi bị khờ … và Louis đi thẳng vào vấn đề khi xin được làm rể ông viện trưởng Đại Học Strasbourg. Louis đã trông thấy Marie là người đàn bà đảm đang, một phụ nữ có học thức và ông biết rằng có thể trông cậy nhiều vào bà ». Marie, một cận vệ trung thành bảo vệ hình ảnh của Louis Pasteur Marie Pasteur cùng chồng làm việc trong các phòng thí nghiệm, theo ông quan sát thực địa. Bà tự tay nuôi tằm, giúp ông quan sát khi Louis Pasteur nghiên cứu về bệnh nhộng tằm đe dọa cả mảng sản xuất lụa tơ tằm của Pháp. Tại Viện Pasteur - Paris, Marie luôn là « cái bóng của Louis, khiêm tốn, kín đáo và đầy nghị lực », là sợi chỉ đỏ gắn kết các cộng tác viên của Louis Pasteur ngay trong viện nghiên cứu mang tên chồng. Sylvie Morel : « Bà Pasteur có lẽ là một phụ nữ có nhiều tham vọng về mặt khoa học không thua gì chồng. Nhưng ở thời điểm đó, nữ giới không có quyền thể hiện tham vọng riêng của mình và không thể có tương lai về mặt nghề nghiệp như nam giới. Marie chóng sinh con, nhưng bà không mấy trực tiếp chăm lo cho con cái. Trong khi đó, Louis Pasteur khoảng 45-46 tuổi đã bị tai biến mạch máo não, ông bị liệt nửa người bên trái và cần được bà chăm sóc từng chút một. Marie đã hết sức tận tụy bên chồng. Bà luôn bên ông trong công việc hàng ngày, ở các phòng thí nghiệm, bà giúp ông ghi chép kết quả nghiên cứu. Marie theo dõi báo chí hàng ngày xem họ viết gì về Louis Pasteur, xem các đối thủ của ông đả kích Pasteur như thế nào, xem có ai mạo danh Pasteur để giành lấy vinh quang hay không. Hơn thế nữa, Marie là người đầu tiên Louis Pasteur chia sẻ những phát hiện mới, là người đầu tiên nhà khoa học Pháp này trắc nghiệm xem những lập luận khoa học của ông có vững chắc hay không trước khi công bố rộng rãi kết quả ». Một số tài liệu cho thấy Marie Pasteur rất chú trọng đến hình ảnh của Louis Pasteur trước công chúng. Ta có thể nói bà là « nhân viên truyền thông trước thời đại »? Sylvie Morel : « Về mặt này, Marie không phải là người duy nhất. Bản thân Louis Pasteur cũng chú trọng rất nhiều vào hình ảnh của ông. Cả hai người cùng ý thức rằng họ cần phải trau chuốt hình ảnh của Louis Pasteur và đương nhiên là tiếng nói của bà rất có trọng lượng. Chẳng hạn như ở thế kỷ 19, người ta thường chụp ảnh, đó là những bức chân dung cỡ vừa và nhỏ, để tặng cho những người chung quanh, giống như những tấm danh thiếp. Pasteur có vài ông thợ chụp ảnh chuyên nghiệp để hoàn thành nhiệm vụ này. Nhỡ chẳng may mà Marie không hài lòng về một bức chân dung nào đó của Louis Pasteur, lập tức ông thợ ảnh bị khiển trách ngay. Tại viện bảo tàng Pasteur còn lưu lại một bức thư Pasteur đã gay gắt chê trách ông thợ chụp ảnh, Paul Petit, vì ông này lỡ chụp thế nào mà để nhìn vào người ta thấy ngay cái mũi quá khổ của Pasteur. Nói cách khác, Louis Pasteur muốn gột tẩy hết những nét xấu về hình thức của ông. Bởi đấy có thể là những cái cớ để các đối thủ của Louis Pasteur tấn công ông, thay vì họ chú trọng đến các công trình nghiên cứu, đến những phát hiện về khoa học của ông. Marie cố vấn cho chồng là phải rất chú trọng vào hình ảnh của ông trước công luận. Chính vì thế mà phần lớn người ta thấy hình ảnh Louis Pasteur bệ vệ trong thế ngồi, bởi sau nhiều lần bị tai biến, chân ông yếu, đứng lâu không được. Tay trái của Pasteur thì phải tì vào bàn hay thành ghế. Ta cũng thấy ảnh của của Louis Pasteur tránh chụp từ góc trái, đây là nửa người ông bị liệt… Louis Pasteur che giấu tất cả những nét xấu bề ngoài. Thí dụ như do thấp nên từ trước khi bệnh Pasteur đã thiên về các kiểu ảnh trong thế ngồi. Pasteur bị cận thị nhưng lại rất chú trọng vào thần sắc . Ông không muốn để lộ bất kỳ một nhược điểm nào về thể xác, kể cả những điểm không đáng kể, như chuyện ông bị cận thị chẳng hạn ».

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Chợ Noel Trung cổ Provins, Pháp : Lễ hội hóa trang của những người hoài niệm lịch sử

Play Episode Listen Later Dec 21, 2022 9:24

Sau hai năm vắng bóng vì dịch Covid-19, chợ Noel Trung cổ ở Provins, Pháp, quay trở lại với những người yêu thích hóa trang thành những nhân vật lịch sử hoặc những người thời xưa. Kỵ binh, chiến binh Viking, hay hải tặc, người dân của thành phố Provins, cách thủ đô Paris khoảng 100 km, dường như không quá xa lạ với những người hóa trang thành những nhân vật thời Trung cổ đi lại trong thành phố. Người mặc áo lính, vác khiên vác giáo, người thì đội mũ hải tặc, hay chỉ đơn giản là mặc những trang phục cổ xưa, hoà vào không khí lễ hội hóa trang, trong thời tiết giá lạnh của những ngày Giáng Sinh đang đến gần. Provins thường được biết đến với lễ hội Trung cổ được tổ chức vào mùa xuân và mùa hè, thu hút hơn 90 000 khách du lịch đến chỉ trong hai ngày cuối tuần. Vào năm 2009, chợ Noel Trung cổ vào mùa đông được tổ chức, khiến thành phố có niên đại từ thế kỷ XI như đi ngược dòng thời gian, trở về quá khứ. Chuyến du hành về thời Trung cổ Kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng nổ cách đây 2 năm, đây là lần đầu tiên chợ Noel Trung cổ mở cửa trở lại đón du khách trong hai ngày 10-11/12. Bên cạnh những gian hàng bày bán như ở các chợ Noel truyền thống, trong dịp này, khoảng 60 gian hàng được mở ra, bày bán hoặc giới thiệu những nét văn hoá Trung cổ, đưa khách vào một cuộc du hành thời gian. Các hoạt động giải trí bên lề cũng được tổ chức, như bắn cung, các tiết mục biểu diễn nhảy, phun lửa, đánh trận giả và kể chuyện cổ tích cho trẻ nhỏ. Chợ Noel Trung cổ ở Provins không chỉ đặc sắc bởi cách hóa trang của những người đến xem, mà còn nhờ vào chính những chủ gian hàng nhập vai, kể lại một câu chuyện về thời xưa, kể về nhân vật mà họ thủ vai. Ông Gael Kossa cho biết: “Hiện tôi là một người Scandinave, vào thế kỷ thứ IX ở Đan Mạch, chính xác là vào năm 870, sau cuộc viễn chinh vĩ đại của quân đội Viking. Tôi đang mặc quần áo dân sự, nên có thể thấy tôi không phải là một quý tộc, ngay cả tôi nghĩ tôi đang mặc rất nhiều đồ có màu đỏ.” Ông Gael thuộc hiệp hội Germanicus, chuyên tổ chức các trò chơi cổ xưa, chủ yếu là trò chơi chiến tranh. Tổ chức của ông có mặt tại nhiều lễ hội Trung cổ để giới thiệu về hoạt động của hội cũng như các trò chơi mà họ thiết kế. Chủ tịch hiệp hội Germanicus, cũng là người sáng tạo các trò chơi, ông Jérémie Torton cho biết : “Trò chơi mà chúng tôi thiết kế giống như một loại Escape game – trò chơi tìm cách trốn thoát. Nhưng phải cần khoảng 60 người chơi, họ sẽ lựa chọn đội chơi của mình cũng như nhân vật. Chúng tôi chuẩn bị trang phục cho họ hoàn toàn, từ quần áo, vũ khí, áo giáp. Chúng tôi đưa ra những câu đố cần phải giải mã để tìm được vàng, nhưng cũng có thể tìm vàng bằng cách khác, đó là kết liễu những đối thủ.” "Đặc sản" Trung cổ tại chợ Noel Tại trung tâm quảng trường Saint Quiriace, các thương nhân bắc bếp lửa, nấu rượu vang nóng, thoang thoảng mùi quế hồi. Rượu được múc từ các nồi bắc trên bếp củi, chứ không phải từ bình như tại các chợ Noel truyền thống. Các gian hàng bán đồ tại chợ cũng rất khác lạ. Thay vì bán đồ trang sức hay các loại bánh ngọt thường ăn vào dịp năm mới, các gian hàng ở chợ Noel Trung cổ bày bán cung tên, đồ hoá trang, áo choàng, hay những vật dụng trang trí thủ công. Đôi khi, du khách sẽ bắt gặp một nhóm nhạc chơi những điệu nhạc xưa cổ, hay một nhóm người mặc đồ truyền thống từ vùng Bretagne, kéo các du khách vào nhảy cùng họ. Đối với những người thích phong cách Trung cổ châu Âu, đây là dịp để diện những bộ trang phục theo chủ đề. Như trường hợp của bà Laetitia, cùng chồng hoá trang thành cướp biển đến chợ Noel. “Chúng tôi đến chợ, vì đây là sự kiện dành cho những người thích hoá trang thời Trung cổ là chính, nhưng vì đây là dịp Noel nên làm được cả hai thì càng tốt. Chúng tôi có rất nhiều trang phục theo kiểu Trung cổ, có khi là cần cả một gian phòng mới có thể cất hết các trang phục cổ của chúng tôi.” Còn cô Suzan, khoác áo choàng lông màu trắng, tự hào khoe bộ trang phục mà mẹ cô đã tự tay may cho cô. Cô chọn vải và chọn mẫu, còn mẹ cô thì vốn thích may vá và làm những trang phục cổ xưa. Bà đã dành 3 tháng để hoàn thành chúng. Cô Suzan cho biết : “Có lần tôi đã phát hiện ra là có một chợ Noel với chủ đề Trung cổ. Thông thường thì các lễ hội hoá trang Trung cổ thường là vào mùa hè nóng nực. Do vậy, đây chính là dịp để mặc áo choàng và bộ đồ này, vì đúng là trời không nóng mà còn rất lạnh”. Lưu giữ kỹ nghệ của người thầy của lửa Tại một gian hàng bày bán các đồ trang trí kim khí, hai người thợ rèn đang quạt lửa, cầm búa gõ vào miếng kim loại đã được đốt nóng chảy để tạo hình. Từ búa cho đến máy quạt lửa, tất cả đều là những công cụ thô sơ thời xưa. Khăn trùm đầu, trong bộ trang phục màu xám, phong cách Trung cổ, một người thợ rèn giải thích với những người đứng xem quá trình tạo ra một mũi tên : “Tôi vừa cho miếng sắt này vào lửa và hiện vẫn còn nóng, miếng kim loại này càng được tinh luyện thì càng nóng. Bây giờ tôi sẽ đập bẹp xuống, và kéo dài phía trên, sau đó cuộn tròn đầu mũi tên lại, để làm giá đỡ, gắn đầu gỗ vào.” Những người thợ rèn này làm việc cho hiệp hội “La Forge du Berry”, thường có mặt tại nhiều lễ hội khác nhau, để giới thiệu các kỹ nghệ rèn sắt từ thời Trung cổ cho công chúng. Chủ tịch của hiệp hội, ông Cyril De Ballegon, cho biết “làm nghề rèn sắt, giống như là thực hiện một giấc mơ của trẻ thơ”, qua những câu chuyện cổ tích. Ông Cyril cho rằng việc bảo tồn và duy trì nghề này rất quan trọng. Hiệp hội của ông gồm dưới 10 người, và ông tự hào nói đã thành công truyền nghề, truyền đam mê rèn sắt cho những người trẻ. Đó chính là những người hiện đang rèn sắt, giới thiệu kỹ nghệ này cho công chúng ở Provins. Ông Cyril cho biết thêm : “Chúng tôi đã chứng kiến nhiều lễ hội biến mất, những nơi mà chúng tôi đã từng tham gia. Thật đáng buồn. Nhưng cũng có những lễ hội vẫn tồn tại như ở Provins. Sau Covid, chúng tôi dần dần quay trở lại công việc của mình và chúng tôi hy vọng rằng có thể tiếp tục phát triển, truyền bá kiến thức của chúng tôi. Tôi cho rằng việc bảo tồn những kiến thức kỹ nghệ cổ xưa này rất quan trọng bởi chúng ta luôn có nguy cơ phải quay trở lại quá khứ, và phải rèn sắt như tổ tiên của chúng ta. Lỡ có một ngày không còn máy tính hoặc các thứ khác thì sao. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Do vậy, ai có bàn tay khéo kéo đều có thể xoay sở tốt hơn trong tình trạng này hơn là những người chỉ biết đến công nghệ.” Không chỉ bởi âm thanh búa đập vào sắt kêu inh ỏi, mà còn cả những ngọn lửa bắt mắt, sưởi ấm tiết trời lạnh 0 độ ở Provins, gian hàng rèn sắt của ông Cyril có lẽ là khu vực thu hút đông khách nhất, cả người lớn lẫn trẻ nhỏ. Một du khách nói: “Tôi rất thích những đồ vật mà có một câu chuyện đằng sau, nhất là khi chúng được chế tạo bởi một người đặt niềm đam mê tình yêu và tài năng vào trong đó.” Trong đám đông đứng trước “xưởng rèn” của ông Cyril, bà Dominique và chồng cũng có mặt. Bà cho rằng : “Chợ Noel Trung cổ sống động hơn và thú vị hơn. Chợ Noel hiện nay thì chỉ có tiền và vì tiền. Trong khi ở đây, thì mọi người ai cũng vui vẻ. Tôi thấy gian hàng của ông thợ rèn là rất thú vị, chúng tôi đã dành khá nhiều thời gian ở đó. Bởi vì ngày xưa, thợ rèn là một người có vai trò quan trọng, một người có địa vị trong làng, là người thầy của lửa.” Provins - trung tâm thương mại của châu Âu thời Trung cổ Cách đây hơn chục thế kỷ, Provins được cho là nằm ở ngã tư của các tuyến đường thương mại kết nối châu Âu. Vào thế kỷ 12 và 13, Provins là một trung tâm thương mại bậc nhất, có tiền tệ riêng và nổi tiếng với những hội chợ Champagne. Thành phố Trung cổ được quy hoạch để phục vụ nhiều thương nhân : đường được mở rộng cho các đoàn xe đi qua, nhiều kho hàng được xây dựng để cho thuê. Khi đó, Provins có vài chục nghìn cư dân và cũng nổi tiếng với nghề sản xuất rèm cửa và buôn bán đồ da, sắt và dao kéo. Nay Provins không còn là một trung tâm kinh tế, mà chỉ là một thành phố nhỏ với khoảng 12 000 dân. Tuy nhiên, nhà thờ và những nơi sinh hoạt tôn giáo cũng như các hầm rượu từ hàng chục thế kỷ trước và đặc biệt là lễ hội Trung cổ vẫn còn được gìn giữ nguyên vẹn. Vào năm 2001, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Provins là một trong những di sản của thế giới cần được bảo vệ.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Nhắc tới Hope, một tác phẩm điện ảnh của Hàn Quốc được sản xuất vào năm 2013, người ta nhớ ngay tới vụ án Nayoung từng làm rúng động nước này. Hành động tra tấn và xâm hại tình dục một bé gái 9 tuổi một cách tàn ác của hung thủ hồi năm 2008 lại chỉ phải chịu cái án quá nhẹ so với những gì hắn đã gây nên. Làn sóng phẫn nộ lan mạnh bao trùm, dấy lên hồi chuông cảnh tỉnh về tội phạm tình dục tuổi vị thành niên đồng thời khiến cho đạo diễn Lee Joon-ik, người vẫn luôn đam mê và thành công với dòng phim Lịch sử, đã phải lên tiếng. Tác phẩm mang tên “Hi vọng” của ông cùng các cộng sự ngay lập tức được đánh giá cao và đoạt giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 34 tại Hàn Quốc. Điều ngạc nhiên hơn cả là HOPE mang danh phục hiện một vụ án có thật song hoàn toàn không có bất cứ một hình ảnh bạo lực nào xuất hiện trên phim. Nó chỉ mở màn bằng cảnh cánh diều Hi vọng bay cao trong gió trên bầu trời trong xanh rồi một ngày rớt xuống đúng chân kẻ thủ ác để rồi bị nghiền nát đớn đau. Người xem cảm thấy nỗi thất vọng đau khổ tận cùng, gục ngã theo tiếng khóc không nên lời của người mẹ, ánh mắt thất thần của người cha và hành trình vượt lên những ám ảnh, những điều tiếng, dị nghị của xã hội, của truyền thông, những vật vã cả về thể xác lẫn tinh thần… để tiếp tục cuộc sống như vốn dĩ đang diễn ra của ba người trong gia đình bé Soo Won. Nỗi đau bất tận Bởi có lẽ không một cảnh bạo lực nào hiện hữu trong phim nên người ta biết rằng, cảm nhận nỗi đau – theo cái cách mà Lee Joon-ik tạo ra – chính là cảm nhận bằng hành trình “xuyên thấu qua nó”. Nỗi đau ấy không chỉ tồn tại khi cái ác diễn ra mà nó sẽ theo nạn nhân và gia đình họ đi suốt cuộc đời, ở trong từng bữa ăn, giấc ngủ, từng bước đi, từng cử chỉ hành động lời nói. Đối mặt với sự việc giống như thử thách quá lớn với gia đình Soo Won. Nhìn con gái bé nhỏ bị tổn thương thể xác kinh khủng, họ vừa chăm sóc con, vừa theo sát quá trình điều tra của cảnh sát vừa phải bảo vệ con trước búa rìu dư luận. Trường đoạn Dong Hoon, cha của Soo Won, vượt qua hàng rào dày đặc của truyền thông, xốc vội con gái lên tháo chạy khỏi phòng bệnh trong khi trên cơ thể cô bé vẫn gắn đầy dây rợ và ống truyền đã tạo nên ấn tượng vô cùng mạnh mẽ. Túi đựng chất thải vỡ ra. Giữa tiếng con khóc, người cha luống cuống dùng giấy lau chùi cho con, run rẩy động viên con mà chính anh cũng đang hoảng hốt… dường như khán giả cảm thấy căm giận kẻ thủ ác hơn bao giờ hết. Ai đáng phải trải qua những điều kinh khủng hơn thế? Không ai cả. “Tôi muốn chết”. Soo Won đã kể với Nhà trị liệu tâm lí về điều bà nội cô bé nói trước lúc lâm chung. Và khi được hỏi con nghĩ gì về câu nói đó thì cô đã trả lời “thế nghĩa là tại sao tôi được sinh ra”. Sau sự việc, Soo Won hoàn toàn câm lặng. Có vẻ như băn khoăn duy nhất trong đầu óc non nớt của cô bé lúc này chính là “tại sao điều đó lại xảy ra với mình”. Cũng giống cảm xúc của cha mẹ cô, Dong Hoon và Mi Hee đã thốt lên “Tôi mong điều đó xảy ra với tất cả trẻ em trên thế giới, để con tôi không phải chịu sự đau đớn một mình”. Họ có phải người xấu không, khi có cái suy nghĩ độc ác ấy? Không, họ chỉ đang quá đau khổ mà thôi. Họ cảm thấy bế tắc trước hoàn cảnh con gái phải chịu đau đớn về thể xác lúc còn quá nhỏ, chịu nỗi ám ảnh khủng khiếp về tinh thần lúc con chưa kịp hiểu chuyện gì, khi họ phải nghe tiếng con rên rỉ mỗi đêm và hình dung ra con bé sẽ phải sống với những tổn thương trên cơ thể đến suốt cuộc đời. Không một bậc làm cha làm mẹ nào có thể chịu đựng nổi nhưng gia đình bé nhỏ của họ đã phải đối mặt với nó, phải học cách chấp nhận và vượt qua nó, bởi sẽ không ai có thể giúp họ được ngoài chính bản thân họ. Những bận rộn sai lầm Không phải người lớn đều là những người vô tội. Gia đình bé Soo Won được dựng lên từ đầu phim trong khung cảnh khá bận rộn. Cuộc sống hiện đại như một cái guồng khổng lồ cuốn họ đi với biết bao lo toan, bao mối quan hệ phải dùng tới Tiền dù là những mối quan hệ không đâu. Họ cũng không phải người dư giả gì và vì thế, việc gia đình sắp đón thêm một thành viên mới được Mi Hee giấu kín. Một người cha làm công nhân chỉ chờ tới giờ được về nhà là cắm mặt vào tivi xem thể thao giải trí, một người mẹ bận rộn với cửa hàng tạp hóa tới mức không thể có đủ thời gian buộc tóc cho con gái vào mỗi sáng… và cũng chỉ đủ ăn… Cảm giác tội lỗi dấy lên trong họ, đau và ân hận khi buổi sáng hôm ấy, họ đã không đích thân đưa con gái tới trường dù trời mưa khá lớn. Họ đã không hình dung được cái buổi sáng như mọi ngày bận rộn xáo xác lại trở thành buổi sáng định mệnh nghiệt ngã với con gái và với gia đình họ. Mang trong mình nỗi ân hận, dằn vặt, Dong Hoon nắm tay con lúc cô bé chợt tỉnh sau ca phẫu thuật, òa khóc khi con gái thều thào với anh rằng “con biết cha mẹ quá bận nên con không gọi điện cho cha mẹ, con đã gọi cấp cứu”. Sẽ ra sao nếu bạn không phải là người mà con cái gọi đầu tiên lúc chúng gặp khó khăn? Bạn đã là những bậc cha mẹ đúng nghĩa chưa? Tiền có thể rất cần nhưng khi họ không có tiền thì bạn bè có thể hỗ trợ giúp đỡ họ, như cái cách mà mọi người cùng quyên góp cho đợt điều trị đặc biệt của Soo Won. Cái họ thật sự CẦN là tình thương và sự gắn kết. Sau nỗi đau, dường như Mi Hee và Dong Hoon thấu hiểu và yêu thương nhau hơn. Lần đầu tiên từ đầu phim, giữa những quay cuồng sống và làm việc, hai vợ chồng đã ôm nhau. Những bận rộn ấy có ý nghĩa gì khi mà cuộc sống của họ không còn như trước. Họ cần phải ở gần nhau. Đó là bài học mà họ phải trả một cái giá quá đắt thì mới có được. Và giờ đây, chắc chắn em trai của Soo Won sau khi chào đời sẽ có được một gia đình Đẹp đúng nghĩa. Tình phụ tử bất diệt Sau sự việc đau đớn ấy, từ một người Cha chỉ biết ngày ngày làm việc, tối về nhà xem thể thao giải khuây, đến bát cơm cũng bưng ra bàn tivi để ăn, Dong Hoon bỗng khát khao gần con, sẻ chia với con. Cái lần bế con chạy và lau chùi chất thải dây ra người Soo Won, anh chợt nhận ra anh không thể là một người Cha bình thường được nữa. Con gái anh sợ đàn ông, kể cả bố. Những tiếng khóc nấc, những ánh nhìn hoảng hốt và cơ thể căng cứng của Soo Won tác động mạnh mẽ lên Dong Hoon. Ám ảnh từ những hành động man rợ của kẻ thủ ác khiến cô bé co cụm, cảm thấy bị đe dọa trước sự hiện diện của đàn ông lớn tuổi và che mặt khi thấy bố. Đau khổ vì không thể ở gần con để động viên an ủi và chăm sóc, Dong Hoon đã nghĩ ra cách mà có lẽ chỉ có ở trong phim của Lee Joon-ik. Đây là chi tiết đắt giá trong tác phẩm điện ảnh này, tạo bất ngờ đồng thời lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả. Đó là người Cha Dong Hoon đã mượn một bộ đồ giả trang nhân vật hoạt hình mà con gái thích, chui vào trong đó, giữa cái nóng nực mùa hè, để được gần con. Dong Hoon hoàn toàn im lặng, đóng tròn vai người bạn Hoạt Hình ở bên cạnh Soo Won. Không chỉ thời gian dài đằng đẵng mấy tháng trời nằm viện mà cả khi đã về nhà, đã hòa nhập lại với cuộc sống bình thường và trở lại trường học, Soo Won vẫn thấy sự hiện diện của người bạn Hoạt Hình. Giữa giờ làm việc, Dong Hoon vội vã chạy về, trong bộ đồ thân thiện đó, nhảy múa giữa sân trường, bí mật đón đường con khi con đi học về, tặng quà, tặng kẹo cho con. Dưới cái vỏ ấy, anh đã khiến con gái cười. Nụ cười rạng rỡ xua đi tất cả những ân hận và buồn lo của người Cha. Rồi khi bị “bắt quả tang”, khi con gái hỏi “Cha phải không”, Dong Hoon vẫn không dám trả lời. Người cha đứng lặng trong bộ đồ nhân vật hoạt hình, để kệ cho con gái tháo bỏ cái đầu của nhân vật ra. Những giọt mồ hôi lăn dài, tràn trề trên gương mặt anh và con gái giơ tay lau chúng đi, nhoẻn cười… là lúc người ta bật khóc. Vượt lên trên nỗi đau, tình Cha con đã chiến thắng nỗi sợ hãi, chiến thắng những ám ảnh tột cùng về cả thể xác và tinh thần, để lại được đón nhận và tôn vinh. Nếu nói rằng HOPE chỉ là Hi vọng thì chắc chắn chưa phải. Đó là cả những tình yêu nảy mầm từ nỗi đau thẳm sâu. Xin được mượn một lời thoại trong phim để khẳng định điều đẹp đẽ mà tác phẩm đã mang tới cho khán giả… “Lúc cô đơn là lúc tốt bụng nhất. Lúc buồn là lúc cười to nhất… vì Họ không muốn ai đau đớn như Họ”.

ai gi nh ng cha kh sau mang cn xin xanh

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Trẻ em và những độc giả sách báo trẻ trở thành thượng đế trong sáu ngày Hội chợ sách báo trẻ Montreuil (từ 30/11 đến 05/12/2022). Hội chợ thường niên là điểm hẹn của 450 nhà xuất bản, trong đó có nhiều nhà xuất bản nhỏ. Khoảng 280 tác giả đến giao lưu với công chúng nhí và kí tặng sách. Các nhà xuất bản như dựng cả hiệu sách trên hai tầng triển lãm. Độc giả có thể ngắm nghía, lật từng trang sách, thậm chí thoải mái đọc nếu không muốn mua. Rất nhiều nhà sách vẫn giữ truyền thống dán những mẩu giấy nhỏ nêu cảm nhận của nhân viên nhà sách đã đọc tác phẩm đó. Khuyến khích tạo thói quen đọc cho trẻ ngay từ nhỏ Tại những gian hàng dành cho độc giả nhỏ tuổi nhất, từ 0-3 tuổi, nhiều con thú bông, nhân vật trong những tác phẩm nổi tiếng, được đặt xen kẽ những chồng sách hoặc dựa vào kệ sách. Sách dành cho độ tuổi này luôn được cải thiện, không chỉ bắt mắt về hình thức, hình vẽ ngộ nghĩnh, mà giờ còn có thêm thú bông nhỏ gắn kèm hoặc có nhạc, tiếng nói để các bé có thể chạm vào được, cảm nhận được. Đây là đối tượng độc giả vô cùng quan trọng, theo nhận định của chuyên gia đa ngôn ngữ Virginie Kremp, nhà xuất bản Migrilude, khi trả lời RFI Tiếng Việt tại hội chợ : « Đúng, đối với tôi, việc thu hút sự chú ý của trẻ, thậm chí là trước cả khi bé chào đời, khi còn trong bụng mẹ, là rất quan trọng bằng cách đọc to những câu chuyện để bé quen dần với tiếng mẹ đẻ. Và việc đọc truyện cho bé ngay khi mới sinh, để cho các bé cầm sách, và bố mẹ ở bên cạnh để đọc cho trẻ cũng rất hữu ích cho việc phát triển ngôn ngữ, trí tuệ và óc phê phán của trẻ. Chúng ta càng đưa ra nhiều loại sách, những câu chuyện về thế giới và diễn giải thế giới theo cách khác nhau, thì càng đánh thức được tinh thần và phát triển ý tưởng riêng cho trẻ về vạn vật. Chúng ta vẫn muốn có những cá nhân tự do, có nhận thức, suy nghĩ về thế giới xung quanh mình. Vì vậy, đối với trẻ em, sách thức tỉnh những khái niệm đó ngay từ đầu. Kể những câu chuyện cho bé là điều rất quan trọng bởi vì chúng ta đều là người kể chuyện, tất cả chúng ta đều được tạo nên từ những câu chuyện, từ những huyền thoại… Thực ra, không phải tôi nói điều đó mà là triết gia nổi tiếng Paul Ricoeur. Kể chuyện cho bé là giúp bé xây dựng, sắp xếp trong đầu hoặc trong cuộc sống đầy biến động sau này, làm thế nào liên kết giữa việc sinh ra trên cõi đời và cuộc sống xung quanh chúng ta, đặc biệt là mang lại ý nghĩa cho cuộc sống đó. Đó là việc rất quan trọng ». Cuộc sống đó, thế giới đó, bạn mong muốn như thế nào ? Thế giới đã hoàn tất hay vẫn cần sáng tạo ? Khùng khùng hay thi vị ? Lộn xộn hay gọn gàng ? Trầm tư hay hư ảo ? Đó là những câu hỏi gói trong chủ đề chính « Désirs de mondes » (tạm dịch : Những ham muốn thế giới) của hội chợ sách báo trẻ Montreuil lần thứ 38. Theo một khảo sát được CNL - Trung tâm Sách Quốc Gia Pháp và Viện Ipsos công bố tháng 03/2022, khoảng 84% thanh niên Pháp thích đọc sách, khoảng 81% trong độ tuổi từ 7 đến 25 đọc sách để giải trí với mức trung bình là 5,4 quyển/năm. Con số này khá là cao, nhưng nếu tách môi trường học đường, tỉ lệ trên giảm dưới ngưỡng 80%. Do đó, theo bà Virginie Kremp, gia đình và cha mẹ đóng vai trò rất lớn trong việc tạo thói quen cho trẻ đọc sách. « Chúng ta chỉ có cách là khích lệ các bé đọc. Trẻ em lớn lên bằng cách bắt chước cha mẹ và những gì xảy ra xung quanh chúng. Nếu trẻ có cha mẹ siêng đọc thì các bé cũng trở thành những người đọc sách. Còn trong những gia đình không có sách hoặc không có ai đọc sách, thì cũng sẽ không có con cái chăm đọc sách. Trường học cũng có thể tạo thói quen đọc sách, nhưng đó vẫn là trường hợp đặc biệt. Vì thế, ý tưởng là giáo dục việc đọc sách và đọc những câu chuyện càng sớm càng tốt cho các bé. Đây là phương pháp phổ thông, nhưng cũng là một niềm vui kết nối giữa âm thanh, ngôn ngữ. Tôi xuất bản nhiều sách bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau để thúc đẩy tiếng mẹ đẻ, chứ không chỉ là những ngôn ngữ có nhiều người sử dụng. Chúng ta đang ở Pháp, nơi mà theo tôi, không chỉ có tiếng Pháp, mà còn có đủ kiểu tiếng mẹ đẻ khác nhau, thường được nói trong gia đình. Những ngôn ngữ đó cần được lưu giữ và duy trì. Các gia đình nên tiếp tục nói ngôn ngữ của họ. Việc có nhiều sách cho trẻ em và có nhiều hình ảnh trong đó giúp kết nối với những gì nghe được, như âm thanh, từ ngữ. Khi con người bắt đầu học đọc, học viết thì họ cũng bắt đầu mày mò tìm hiểu và hình ảnh là một công cụ hỗ trợ cho trí tưởng tượng tuyệt vời ». Sở thích của độc giả trẻ Pháp cũng tùy theo độ tuổi. Theo thăm dò của CNL - Trung tâm Sách Quốc gia và Viện Ipsos, độc giả từ 7-19 tuổi thường đọc các thể loại truyện tranh : BD, manga, comics. Độ tuổi từ 20-25 thường đọc tiểu thuyết và truyện tranh. Trong giai đoạn phong tỏa chống dịch Covid-19, lượng độc giả tăng nhiều hơn để « giết thời gian » và cũng đọc sách điện tử nhiều hơn. Hội chợ, nơi giao lưu, gặp gỡ tác giả Đối với độc giả, hội chợ sách luôn là dịp đặc biệt để tiếp xúc, gặp gỡ các tác giả. Cho nên các nhà xuất bản không thể bỏ qua hoạt động này với những chương trình giao lưu, kí tặng dầy đặc. Với họ, hội chợ là dịp để giới thiệu sách mới hoặc quảng bá cho nhà xuất bản : « Đúng thế. Nước Pháp vẫn đại diện cho một ngoại lệ văn hóa thực sự trên thế giới. Tôi đã sống ở nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa và tôi thấy là Hội chợ này rất đặc biệt vì cho phép giới thiệu những tác phẩm mới, cho độc giả nhí thấy công việc sáng tạo và giúp kết nối họ với những nghệ sĩ, tác giả thường không được gặp ở hiệu sách. Đây là dịp cho công chúng đến khám phá thế giới đó, một thế giới rất đa dạng và phong phú. Đây cũng là cơ hội cho các nhà xuất bản quảng bá tác phẩm mới của họ và trao đổi. Tất cả thông qua trao đổi, qua đam mê của những con người gặp được đam mê của những người khác. Cho nên, hội chợ như vậy tồn tại là điều rất quan trọng và cần tiếp tục tồn tại ». Độc giả đủ mọi lứa tuổi có thể tham gia những buổi đọc sách chung « Pause littéraire » hay « Lectures partagées ». Trẻ em có thể học cách đọc sách diễn cảm « nhấn nhá », đặc biệt là học lắng nghe người khác, hoặc tham gia những buổi nói chuyện, hoạt động vui chơi theo chủ đề. Nhiều không gian được thiết kế để cả gia đình có thể nghỉ ngơi và cùng đọc sách. Hội chợ như một hiệu sách lớn, một thư viện lớn mà bất kỳ chỗ trống nào cũng có thể thành nơi nằm, ngồi đọc sách. Có lẽ với tinh thần đó, hội chợ luôn thu hút thêm nhiều khách tham quan mới: hơn 180.000 khách đã đến hội chợ trong sáu ngày. Sách mở ra thế giới mới Ngoài các nhà xuất bản Pháp, rất nhiều nhà xuất bản nước ngoài, thuộc khối Pháp ngữ, cũng tham gia hội chợ. Một phái đoàn các nhà xuất bản Việt Nam cũng được mời tham dự để gặp gỡ và tìm kiếm đối tác. Đối với bà Virginie Kremp, đây là cơ hội tốt để có thể gặp đối tác nước ngoài, mở rộng hoạt động. « Tôi rất muốn có những đối tác nước ngoài và có nhà trung gian ở các nước khác vì tôi xuất bản sách bằng nhiều ngôn ngữ. Hiện giờ tôi thường phải tìm các đối tác ngôn ngữ ở Pháp, tôi làm sách với những cộng đồng ngôn ngữ. Nhưng thực sự là tôi muốn có những nhà trung gian ở nước ngoài để làm sách. Một ngôn ngữ luôn đi kèm với một nền văn hóa. Điều đó không tách rời được. Ví dụ, tôi xuất bản cuốn sách này, có tên là France au bout des baguettes (tạm dịch : Nước Pháp trên những đầu mẩu bánh mì). Đây là một quyển song ngữ Pháp-Trung, cho thấy cái nhìn của một thiếu nữ Trung Quốc sống ở Pháp và cô ấy so sánh với Trung Quốc. Đó là điều chúng ta thường làm khi chúng ta sống giữa hai nền văn hóa, nói từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, chuyển từ văn hóa này sang văn hóa khác. Thế nên, họ vẫn thường nói : « Ờ, họ làm thế này, họ làm thế kia ». Tôi rất thích phát triển mô hình đó với những quốc tịch khác, hợp tác với các nhà xuất bản nước đó. Tôi sẵn sàng làm như vậy. Quan điểm của tôi là cởi mở với người khác về thế giới và ngôn ngữ. Phải nói là tại hội chợ này, chủ yếu là sách Pháp ngữ. Vì là một nhà xuất bản rất tò mò, tôi muốn hợp tác với các nhà xuất bản nước ngoài ». Ngoài các hội chợ sách, nơi tạo cảm hứng đọc cho độc giả trẻ, Trung tâm Sách Quốc gia Pháp muốn lan tỏa văn hóa đọc sách tới công chúng, thông qua ba hướng chính : Gia tăng các cuộc giao lưu giữa tác giả với những kiểu công chúng khác nhau ; đưa việc đọc sách báo vào trọng tâm đời sống người dân Pháp sống ở những vùng xa xôi nhất ; chia sẻ niềm vui đọc sách thông qua việc đọc to và những sự kiện mang sách ra khỏi giá. Không dừng ở đó, từ ngày 05/12/2022, Trung tâm Sách Quốc gia Pháp, phối hợp với trang make.org, tổ chức một cuộc tham khảo ý kiến công dân : « Làm thế nào để phát triển thú vui đọc sách của mọi người Pháp ? ». Mọi ý kiến, gợi ý đều được trân trọng và sẽ được công bố vào tháng 03/2023. Đây sẽ là nền tảng cho Trung tâm Sách Quốc Gia Pháp lập chương trình hành động cho phép hiểu hơn được mong muốn của mọi công dân.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Những người yêu thích các tác phẩm trinh thám trên toàn thế giới hẳn không còn xa lạ với cái tên Harlan Coben, tác giả của 15 cuốn tiểu thuyết phần lớn đều thuộc hàng Best-seller. Ông là nhà văn đầu tiên đoạt cả ba giải thưởng lớn dành cho thể loại truyện trinh thám và tội phạm Mỹ: một giải Edgar, một giải Shamus và một giải Anthony. Nội dung các tác phẩm của Harlan thường xoay quanh những vụ án chưa tìm ra lời giải trong quá khứ và thường có cốt truyện đầy nút thắt. Khá nhiều tác phẩm đã được chuyển thể làm phim, trong đó phải nói tới “Tell no One” (tạm dịch là “Đừng nói một ai”). Đây cũng là bộ phim, mà chính Harlan Coben đã phải công nhận rằng có những chi tiết thậm chí hay hơn nhiều so với nguyên tác của ông. Vì thế mà ngay khi ra mắt công chúng vào năm 2006, “Đừng nói một ai” của Điện Ảnh Pháp đã gây tiếng vang lớn, không những thắng lợi về mặt doanh thu, tác phẩm của đạo diễn Guillaume Canet còn liên tiếp thắng 4 giải César 2007 và đều là những giải quan trọng. Người xem đã vô cùng phấn khích khi Canet biến một câu chuyện đầy những bước ngoặt và những cú “lật mặt” đậm chất Mỹ trở thành một tác phẩm mang sự tinh tế, phức tạp đồng thời đầy trăn trở và băn khoăn kiểu Pháp. Xuất phát điểm từ một tiểu thuyết quá nổi tiếng, song khi qua tay Canet cùng diễn xuất tuyệt vời của cặp đôi diễn viên đình đám của điện ảnh Pháp là Francois Cluzet và Kristin Scott Thomas, “Đừng nói một ai” vừa giữ được mạch truyện của nguyên tác và vừa có những thay đổi đậm dấu ấn Pháp. Đó là thành công quá lớn đối với bất cứ tác phẩm chuyển thể nào, đặc biệt là với một bộ phim trinh thám. Đám mây côn trùng dày đặc Bộ phim bắt đầu bằng chuỗi hình ảnh lãng mạn tuyệt đẹp vào ngày kỉ niệm 13 năm bên nhau của bác sĩ Alex và vợ là Margot. Đôi vợ chồng thanh mai trúc mã đưa nhau tới hồ nước, nơi mà họ đã cùng khắc tên lên thân cây lần đầu từ khi còn thơ bé, dưới ánh trăng bàng bạc và màn sương mờ ảo, họ nhảy xuống nước bơi cùng nhau trong hạnh phúc thăng hoa. Nhưng, ngay sau đó, một cuộc cãi vã nho nhỏ giữa họ đã khiến Margot lên bờ trước. Alex ngâm mình dưới nước, bỗng nghe tiếng thét thất thanh của vợ. Anh vội vã lao lên thì bất ngờ bị tấn công và ngất đi. Ba ngày sau, khi tỉnh dậy ở bệnh viện, anh biết tin vợ đã qua đời dưới bàn tay của kẻ giết người hàng loạt. Có nhà phê bình đã nhận định thông qua “Đừng nói một ai”, Canet đã làm được một việc, đó là định nghĩa được làm cách nào mà một thảm kịch lại có thể tập trung vào một người duy nhất và kẹt cứng ở đó mãi, như những đám mây côn trùng dày đặc không lối thoát. Tám năm sau, tưởng sẽ thoát ra khỏi đau thương mất mát quá lớn thì Alex nhận được một email nặc danh có hình ảnh vợ anh còn sống khỏe mạnh cùng lời nhắn “đừng nói với một ai, cả hai đang bị theo dõi”. Chưa hết, cảnh sát phát hiện hai xác người ngay gần nơi vụ án xảy ra. Điều đáng nói là dường như tất cả đều phản lại Alex, biến anh trở thành kẻ khả nghi giết vợ. Là một bác sĩ nhi khoa thường xuyên làm từ thiện cứu người, Alex bàng hoàng với những gì đang xảy ra và vẫn tiếp tục đến với anh khi ngay sau đó, một nhóm xã hội đen trang bị vũ khí hiện đại đuổi theo truy sát anh. Người ta có thể đoán ngay rằng Alex vô tội nhưng cái khó chịu là hầu hết nhân vật vây quanh anh đều không nghĩ như vậy và mỗi lúc những tình tiết mới lại hé lộ, trúc trắc hơn, phức tạp hơn. Các mối quan hệ mở rộng dần, hóa ra nó không chỉ là giữa vợ anh và anh, không chỉ giữa anh và gia đình của vợ, mà cả em gái anh cũng liên quan. Alex như bơi giữa biển sương mù, cách duy nhất là chạy trốn và tự mò mẫm cứu lấy bản thân. Rõ ràng, điểm mấu chốt trong các bộ phim trinh thám là những chi tiết được cài cắm từ đầu cho tới khi bắt được thủ phạm thật sự. Tuy nhiên, trong “Đừng nói một ai”, Canet đã khéo léo lồng ghép tới mức khán giả gần như bỏ qua tất cả. Chính vì vậy, mỗi một dấu vết được phát hiện bỗng trở nên như hoàn toàn mới và khiến cho người ta phải căng thẳng chăm chú theo dõi bởi người ta không thể đoán ra điều gì sẽ xảy tới tiếp theo. Hệ thống nhân vật và câu chuyện mỗi lúc một nở ra như một cái cây cổ thụ thả tán lá bao trùm kéo khán giả ngồi dính chặt vào ghế không dám đứng lên vì chỉ bỏ lỡ một vài phút phim thì dường như ta sẽ mất dấu và sẽ không hiểu những tình tiết tiếp theo. Sương mù theo dấu chân Alex đồng thời cũng là màn mây côn trùng khó chịu vo ve thúc giục anh phải tìm hiểu ngọn ngành, thúc giục khán giả liên tục đoán và không lạ nếu như họ liên tục sai trong những phán đoán của mình. Cho tới tận khi kết thúc phim và kẻ thủ ác bị vạch mặt, người ta vẫn ngờ ngợ, ngạc nhiên, cuối cùng là thú vị bởi nó không giống bất cứ một hình dung nào trước đó nhưng lại vẫn rất có lí. Thế lực và sức mạnh của đồng tiền Cũng vẫn là một mô típ quen thuộc trong hầu hết các tác phẩm của Harlan Coben, kẻ thủ ác thường là kẻ có máu mặt, quyền thế và giàu có, đặc biệt, đều là đàn ông. Vẻ như khó thoát được cái vòng luẩn quẩn làm nên một xã hội “có vấn đề” với một bộ phận những kẻ thực thi pháp luật thối nát và bị tha hóa. Nhưng đâu đó, tất nhiên, vẫn lấp lánh một cái gì thật đẹp, đó là lòng tin mà thám tử Eric dành cho Alex. Không thể nói ra bởi có linh cảm xấu về những đồng nghiệp của mình, Eric đã âm thầm giúp đỡ cho Alex và đứng sau lưng anh tìm hiểu về vụ án, mong mỏi vạch trần bộ mặt hung thủ hãm hại Margot. Từ đây, càng nhiều nút thắt và những cú twist liên tục được bày ra cho khán giả, đồng thời thể hiện tài năng sắp đặt của đạo diễn Canet. Biết bao nhiêu đầu mối được cài cắm từ đầu dần hiện hình, được lật lại sử dụng để dẫn dắt Alex cũng như người xem tiến gần tới thủ phạm thật sự. Từ việc em gái Alex là một nài ngựa của gia đình Neuville, từ việc Margot làm tại một cơ sở từ thiện cùng quý tử của gia đình Neuville, cho tới cái chết bất ngờ của cậu này ngay trước cái chết bí ẩn của Margot, cho tới sự xuất hiện của “người tình hờ” của Margot và cả những vết bầm tím trên cơ thể cô do bị hành hung… Tất cả được cắt gọt, bóc từng lớp vỏ mỏng như người ta bóc một củ hành để rồi cái nhân bé xíu bên trong hé lộ dưới ánh mặt trời. Và khán giả ồ lên, tại sao họ lại không đoán ra ngay từ đầu? Vẻ như khi cảm giác sắp kết thúc thì cái gì cũng trở nên dễ dàng hơn. Nhưng, điều đó không hoàn toàn đúng với “Đừng nói một ai” bởi cho tới tận phút cuối của phim, sự thật vẫn là bức màn bí mật cần được vén lên một lần nữa. Những ngôi sao làm nên tác phẩm Một trong những thành công của phim mà người ta nhắc đi nhắc lại chính là màn diễn xuất trên cả tuyệt vời của nam diễn viên Francois Cluzet. Ông là nam diễn viên tham gia rất nhiều dự án phim nổi tiếng của điện ảnh Pháp và cả Hollywood. Trong sự nghiệp của mình, với khối lượng phim khá khổng lồ, Cluzet giành được rất nhiều giải thưởng quan trọng trong nhiều năm, có thể kể tới hàng chục đề cử và dành giải César cho các vai phụ, vai chính và một giải Phim Châu Âu. Ông được biết đến không chỉ là diễn viên điện ảnh mà còn là diễn viên kịch nói nổi tiếng trên các sân khấu kịch tại Pháp. Sở hữu vóc người nhỏ thó, gương mặt đầy biểu cảm với cách diễn nội tâm sâu sắc, Cluzet thích hợp với cả những vai hài hước lẫn tâm lí và hành động. Trong “Đừng nói một ai”, những thế mạnh này của Cluzet đã được tận dụng tối đa. Ông hóa thân vào vai Alex, người chồng yêu thương vợ, có cuộc sống đơn giản nhưng lại bị đẩy vào vòng xoáy tội ác quá phức tạp. Cảnh huống và cảm xúc liên tục bị thay đổi, từ lãng mạn yêu thương, cho tới bất ngờ, chạy trốn, điều tra, băn khoăn, ghen tuông và cuối cùng là tìm ra sự thật và trở lại với tình yêu. Từng scene, từng cảnh cho thấy sự thay đổi, căng thẳng dồn dập trên gương mặt của Cluzet đã khiến khán giả phập phồng cuốn theo nhân vật Alex với tất cả tình thương không một chút hoài nghi. Với một diễn viên, để vào vai diễn vừa phải có sự lãng mạn, vừa phải hành động lại vẫn phải lôi cuốn thật sự vô cùng khó. Nhưng Cluzet với sự linh hoạt trong diễn xuất của mình, một giải César cho vai diễn Alex quả thực rất xứng đáng. Bất cứ lúc nào, những sự rắc rối cũng có thể tìm thấy bạn. Đó là cuộc đời. Điều quan trọng là bạn đối mặt với nó như thế nào, liên tục đấu tranh vì bản thân và những người bạn yêu thương hay chấp nhận buông xuôi. Và điều này, chỉ bạn mới có câu trả lời cho chính mình.

hollywood bi nh ng cho kh xu trong tuy shamus harlan coben canet kristin scott thomas guillaume canet neuville cluzet

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Vink, họa sĩ người Bỉ gốc Đà Nẵng, là người đầu tiên đưa cổ tích Việt Nam vào truyện tranh Bỉ. Tháng 01/2021, Vink tặng thành phố Liège, như lời cảm ơn, 173 bản vẽ gốc trích từ những tác phẩm truyện tranh theo suốt sự nghiệp của ông. Hơn một năm sau, Liège giới thiệu đến công chúng “Những chuyến ngao du của Vink” (Les Voyages de Vink) tại Bảo tàng Mỹ thuật La Boverie từ 04/07/2022 đến 16/01/2023. Triển lãm đặc biệt dành cho tác phẩm đặc biệt Tên của triển lãm Les Voyages de Vink được ông Alain Delaunois, tùy viên khoa học của Bảo tàng La Boverie lấy cảm hứng từ tác phẩm Les Voyages d'He Pao (tạm dịch : Những chuyến ngao du của He Pao), một trong hai tác phẩm dài tập quan trọng gắn liền với sự nghiệp của Vink, tên thật là Vinh Khoa. Và những tác phẩm này được trưng bày ở một nơi rất đặc biệt trong bảo tàng, theo giải thích của ông Alain Delaunois : “Chúng ta đang đứng trong Galerie noire (Phòng triển lãm đen) của Bảo tàng La Boverie, thành phố Liège ở Bỉ. Tại khu vực này, khách tham quan có thể ngắm những bản vẽ gốc truyện tranh do họa sĩ Vink thực hiện. Đây là món quà Vink tặng cho bảo tàng, và nhất là có đến 173 bức tranh, nên chúng tôi muốn giới thiệu những tác phẩm đó. Những bản vẽ truyện tranh này được vẽ trên giấy, trước tiên là bằng bút chì sau đó là viền mực mầu và vẽ mầu nước. Công việc được Vink thực hiện vô cùng tỉ mỉ. Việc đóng khung, bảo quản mầu trên tranh phải hết cẩn thận. Điều này giải thích cho việc chúng ta đang đứng ở nơi được gọi là Galerie noire, nơi mà ánh sáng và độ ẩm được kiểm tra nghiêm ngặt để bảo quản các tác phẩm. Galerie noire là gian trưng bày đặc biệt dành cho những tác phẩm thực hiện trên giấy trong thời gian gần đây hoặc thời trước, thậm chí là từ vài thế kỷ trước. Vì vậy, ánh sáng và độ ẩm được điều chỉnh để các tác phẩm vẽ chì, mầu nước hoặc mực Tầu không bị hỏng hoặc bị phai mầu vì ánh sáng quá mạnh. Các tác phẩm cũng không được trưng bày lâu ở đây. Chúng tôi luôn thay đổi. Có những tác phẩm rất cổ, ví dụ từ thế kỷ XVII, chúng tôi chỉ trưng bày khoảng 2 tháng rưỡi, sau đó cất lại vào kho và triển lãm loạt tác phẩm khác. Như chị thấy, đèn chiếu sáng trong Galerie noire này chỉ bật lên khi có người vào xem và khi đi ra thì đèn cũng tắt”. 173 tác phẩm là một món quà rất lớn, đầy ý nghĩa mà Vink muốn cảm ơn thành phố quê hương thứ hai của ông. Tác giả gốc Đà Nẵng chia sẻ : “Tôi sống ở đây hơn 50 năm, tôi có cảm tưởng là mình có nợ với thành phố Liège, với nước Bỉ nói chung. Khi tôi tặng món quà này cho Bảo tàng Mỹ Thuật Liège, tôi cảm thấy được trả nợ. Lý do chính là như vậy. Và bảo tàng sẽ giữ gìn tốt hơn”. Lời cảm ơn gửi đến đến Liège, quê hương thứ hai Đáp lại tấm lòng của Vink, Bảo tàng Mỹ Thuật Liège muốn giới thiệu rộng rãi đến công chúng một phần sự nghiệp ông, từ họa sĩ-tác giả truyện tranh nổi tiếng, đến người kể lại lịch sử qua hình ảnh, trong đó phải kể đến tác phẩm đáng chú ý là Pays de Liège, vie d'une église (tạm dịch : Vùng đất Liège, cuộc sống của một nhà thờ) phác lại nghìn năm lịch sử của Công quốc Liège. Ông Alain Delaunois giải thích : “Tác phẩm của Vink được vẽ trên giấy, sử dụng mực và mầu nước nên có thể rất dễ bị hỏng theo thời gian. Những tác phẩm đó được bắt đầu trong những năm 1984-1985 nên một số bản vẽ gốc cũng đã có từ gần 45 năm nay. Vì thế, tác phẩm của Vink hoàn toàn xứng đáng được triển lãm tại đây. Thêm vào đó, việc Vink tăng cho Bảo tàng Mỹ Thuật Liège chừng đấy số tranh, cũng là lý do để giới thiệu đến công chúng trong khu triển lãm Galerie noire đặc biệt này. Điểm đặc biệt trong công việc của Vink, một họa sĩ sống ở Liège từ rất lâu, là trong ông có cả một nền văn hóa châu Á rất lớn, vì thế sự pha trộn giữa hai nền văn hóa này tạo cho tác phẩm của ông những nét kì lạ, vừa có ảnh hưởng đến từ những nước châu Á, vừa có nét của văn hóa phương Tây. Có thể thấy rõ trong tác phẩm của ông cả một chuỗi ảnh hưởng, có thể là những câu chuyện hay những thể loại đặc trưng của châu Á nhưng phim kung-fu, võ thuật Nhật Bản, Việt Nam, Trung Quốc. Tất cả những yếu tố đó khiến những cuộc phiêu lưu trong các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt, tạo bất ngờ cho công chúng”. Thành phố Liège có vị trí thuận lợi, giáp với Đức và Hà Lan, gần Pháp và Luxembourg. Thành phố nhỏ đón rất nhiều khách du lịch từ các vùng lân cận nên khách đến thăm bảo tàng Mỹ Thuật cũng rất đa dạng, với đủ ngôn ngữ. Ngoài những người đam mê truyện tranh và biết đến Vink, đặc biệt qua những cuộc phiêu lưu của He Pao và Nhà sư điên (Le Moine Fou), hai tác phẩm dài tập chính của Vink, ban tổ chức chú ý đến mọi chi tiết, dù nhỏ nhất, để khách tham quan bảo tàng có thể biết đến công việc Vink và những tác phẩm hội họa gần đây của ông, sau khi ngừng sáng tác truyện tranh. “Ngay lối vào triển lãm, chúng tôi đặt một tấm biển lớn giải thích một chút về Vink, về con người ông và với tư cách là nghệ sĩ vẽ truyện tranh. Ngoài ra, khách tham quan có thể thoải mái xem triển lãm với những tấm biển nhỏ giải thích tranh được trích từ tập truyện nào. Nhưng mục đích chính của chúng tôi là để người xem không bị cuốn theo những lời giải thích, mà nhãng đi công việc của người nghệ sĩ - một phần công việc để sáng tạo nên những tập truyện tranh. Nếu người xem muốn biết thêm về câu chuyện thì họ sẽ tìm đọc những tập truyện tranh đó. Còn ở đây, trong triển lãm, họ có thể ngắm nhìn hoặc cảm nhận chất lượng nghệ thuật và kỹ thuật trong các tác phẩm của Vink. Mỗi mảng, có khoảng 3-4 tranh, có chỗ là 9-10 tranh, là một câu chuyện được trích từ một cảnh trong một tập truyện, giúp người xem có thể tưởng tượng ra phần tiếp theo vì như chị thấy, các tranh được trưng bày không có khung thoại, không có chữ, có nghĩa là không có lời thoại để người xem cảm nhận tính nghệ thuật, mầu sắc mà không bị phiền vì lớp chữ. Nhưng Vink cũng muốn có những đoạn nghỉ giữa các tác phẩm nên chúng tôi đã để xen kẽ các tác phẩm có kích thước khác nhau, ví dụ ở đây là bìa của một tập truyện tranh hoặc bên kia là một bản vẽ nháp. Chúng tôi cũng trưng bày một số tác phẩm hội họa vì sau khi ngừng sáng tác truyện tranh, Vink chủ yếu dành thời gian cho hội họa, vẽ chân dung và phong cảnh”. Thú vui hội họa Vink đã không thể đến dự buổi khai trương triển lãm mà ông là nhân vật chính vì lý do sức khỏe. Trở lại Galerie Noire với RFI Tiếng Việt, ông cho biết cảm nhận : “Tất cả những tác phẩm này, tôi đã biết trước hết rồi, vì mỗi trang như tôi được thể hiện trong đó, nhìn các tranh đó như nhìn mình trong gương nên tôi chỉ nhìn thoáng qua vì nhìn đến 60 tấm gương thì cũng hơi kỳ cục. Tôi phải nói đây là một trong những triển lãm lớn nhất. Cách đây 20 nay, tôi cũng có một triển lãm ở Bourges, Pháp, nhưng phải nói đây là một triển lãm rất công phu. Triển lãm này hoàn toàn do ê-kip của Alain Delaunois xây dựng. Tôi rất hài lòng về việc trình bày ánh sáng, sắp đặt các tranh rất bài bản, rất mỹ thuật”. Kết thúc triển lãm là tác phẩm “Cô gái bên dòng nước” Vink vẽ một quán cà phê ở Đà Nẵng, phía sau là con sông Hàn. Đây là bức tranh mà ông Alain Delaunois, tùy viên khoa học của Bảo tàng Mỹ Thuật, bị lôi cuốn ngay khi đến nhà họa sĩ chọn một số tác phẩm hội họa để giới thiệu. “Tôi vẽ tại chỗ trong một quán cà phê ở Đà Nẵng, nhưng phía sau tôi thêm một dòng sông của Đà Nẵng, nhưng thực ra sông đó không phải ở trước mặt tôi trong quán cà phê. Tôi bắt đầu vẽ bằng bút chì tại chỗ, rồi có cô tiếp viên, cô chịu ngồi đó để cho tôi chụp hình. Sau đó tôi hoàn thiện ở nhà, có lẽ mất đến cả tháng vì mỗi chi tiết, tôi đều phải kiếm tài liệu”. Một dòng sông ở phía xa mở ra một con đường mới, như muốn nói Vink khép lại sự nghiệp tác giả truyện tranh và toàn tâm toàn ý với thú vui hội họa : “Từ lâu, kể cả khi vẽ truyện tranh, tôi vẫn thích vẽ thêm tranh hội họa bằng mầu nước hoặc sơn dầu. Nhưng làm cả hai công việc cùng lúc thì không thể được. Mỗi trang truyện tranh mất rất nhiều thời giờ, cần ít nhất một tuần. Rồi phải làm trong thời hạn cố định để ra sách. Trong khi vẽ tranh hội họa thì tự do, được làm ở nhà. Mình sửa lui, sửa tới, làm chậm làm mau đều được hết. Rất thoải mái”. Trong mỗi tác phẩm hội họa được trưng bày tại triển lãm đều có thể thấy tâm hồn của Vink như ở một nơi xa. Ở chốn trời Tây, nhưng lòng vẫn hướng về Việt Nam. Tác phẩm “Một phụ nữ trẻ ở kinh thành Huế” (2021) thể hiện người phụ nữ đậm nét Việt, dáng khoan thai trong trang phục truyền thống. Những họa tiết đồ vật xung quanh cho thấy họa sĩ rất tỉ mỉ và giữ nguyên nét văn hóa truyền thống Á đông, đã theo ông hơn nửa thế kỷ tại Liège.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Năm 2022 đánh dấu đúng hai thập niên giọng ca Chimène Badi xuất hiện trong nghề sân khấu. Tại Pháp, cô thành danh vào đầu những năm 2000, sau khi tham gia vào một cuộc thi hát truyền hình (kênh M6). Bài hát ăn khách làm nên tên tuổi của Chimène Badi là nhạc phẩm ''Entre Nous'', từng được tác giả Lan Anh đặt thêm lời Việt thành tình khúc ''Khi mình yêu''. Đầu thập niên 2000, làng nhạc Pháp có hai phong trào đang nở rộ : các vở ca nhạc kịch và các cuộc thi hát phát sóng truyền hình. Cũng như bao nghệ sĩ cùng trang lứa, Chimène Badi đã lớn lên với giấc mơ danh vọng ấp ủ từ lâu. Khi tham gia các buổi casting thử giọng, cô dung hòa cả hai vế : mỗi lần thi hát, Chimène thường hát lại nhạc phẩm ''L'envie d'aimer'' (Khao khát yêu thương) ca khúc chủ đề của vở nhạc kịch ''Les Dix Commandements'' (Mười điều răn) của nam ca sĩ quá cố Daniel Lévi. Chính với ca khúc này, Chimène Badi đã được tuyển vào ''Popstars'', một chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng tại Pháp thời bấy giờ. Sinh năm 1982 trong một gia đình người Pháp gốc Algérie tại vùng ngoại ô Paris, Chimène Badi từ thuở thiếu thời, đã nuôi mộng trở thành ca sĩ, cho dù cô không được đào tạo qua các lớp thanh nhạc. Chimène rèn luyện chất giọng của mình chủ yếu là nhờ tự học qua băng đĩa, hát lại các bản nhạc xưa của Piaf hay của Aznavour. Sau khi thi trượt bằng tú tài, Chimène tạm gác chuyện học hành sang một bên, tự cho mình hai năm để khởi nghiệp và tìm kiếm hợp đồng ghi âm. Thời gian đầu cô làm nhiều nghề để kiếm sống, ban đêm đi hát tại các quán nhạc, ban ngày tham gia các buổi casting tuyển lựa tài năng mới. Ghi âm 8 album trong 20 năm sự nghiệp Năm Chimène tròn 20 tuổi, cô được tuyển vào chương trình truyền hình "Popstars" của Pháp. Tuy có đầy năng khiếu, nhưng sở trường của Chimène vẫn là hát solo các bản nhạc nhẹ, trong khi tiêu chuẩn chấm thi của ban giám khảo thời bấy giờ là tuyển lựa nhiều giọng ca mới để thành lập một nhóm nhạc trẻ đúng theo tên gọi của chương trình là ''Popstars'' (Các ngôi sao nhạc pop). Rốt cuộc ban giám khảo đã không chọn Chimène làm một trong những thành viên của nhóm. Tuy nhiên, chất giọng đặc trưng đầy sức thuyết phục của Chimène Badi lại lọt vào tai giới sản xuất đĩa hát. Nhờ vậy, Chimène ký được hợp đồng ghi âm đầu tiên trong đời. Vào mùa đông năm 2002, Chimène Badi rời Pháp sang Québec (Canada) để thực hiện các bản ghi âm cho album đầu tay, với nhóm sản xuất của tác giả Rick Allison chuyên làm việc với nữ danh ca Lara Fabian. Tập nhạc đầu tay với ca khúc chủ đề ''Entre Nous'' (Giữa đôi ta) phát hành vào đầu năm 2003, trở thành một trong những album ăn khách nhất trong năm, giúp cho sự nghiệp của Chimène Badi cất cánh ngoạn mục, ngay từ lúc mới vào nghề ở tuổi đôi mươi. Nhạc phẩm '''Entre Nous'' sau đó đã có thêm nhiều phiên bản ghi âm, kể cả phần trình bày của Grégory Lemarchal. Trong tiếng Việt, bài này cũng được nhiều nghệ sĩ ghi âm lại trong đó có các ca sĩ Khánh Hà hay Hồ Ngọc Hà. Sự thành công bước đầu này mở đường cho Chimène Badi hợp tác sau đó với nhiều tên tuổi lớn. Cô trở thành ca sĩ được mời biểu diễn thường xuyên trong các show truyền hình. Chimène được dịp hát chung (nhạc phẩm Je te promets) với Johnny Hallyday nhân vòng lưu diễn các sân vận động, mừng sinh nhật 60 tuổi của nam ca sĩ. Chimène cũng ghi âm một bản song ca với danh ca Michel Sardou (nhạc phẩm ''Le chant des hommes''). Nhờ vào bản ghi âm lại của bài hát ''Je viens du Sud'' (Người từ phương Nam) của Michel Sardou, Chimène Badi lập kỷ lục số bán đạt mức đĩa kim cương với album phòng thu thứ nhì. Ngoài việc giành lấy hạng đầu thị trường Pháp, Chimène còn được đề cử danh hiệu Tài năng mới xuất sắc nhất khối Pháp ngữ. Nhiều lần thi trượt nhưng sau đó lại về đầu Ghi âm các bản song ca, đứng chung sân khấu với các nghệ sĩ trứ danh tên tuổi lớn trở thành một trong những ưu điểm của Chimène Badi. Sau khi thành công với Michel Sardou vào năm 2007, Chimène lặp lại thành tích này khi được mời ghi âm (nhạc phẩm ''Say you Say me'') với ca sĩ kiêm tác giả người Mỹ Lionel Richie vào năm 2012. Đó cũng là thời điểm cô thành công với album chuyên đề danh cho hai dòng nhạc ''Gospel & Soul'' (Phúc âm và Soul). Thành công này dẫn đường cho Chimène ghi âm phiên bản tiếng Pháp ca khúc chủ đề của ''Cats'' khi vở nhạc kịch này được đưa sang Paris biểu diễn vào năm 2016. Sau đó nữa, cô hợp tác với nhà sản xuất Đức Alex Christensen để ghi âm ca khúc ''Voyage Voyage'' (nguyên tác của Desireless) với dàn nhạc giao hưởng Berlin. Trong vòng 20 năm sự nghiệp ca hát, Chimène đã ghi âm 8 album phòng thu và hơn 10 album hợp tác với nhiều ca sĩ khác (Roch Voisine, Dany Brillant, Amaury Vassili …..). Thế nhưng trong số các dự án ấp ủ từ nhiều năm qua có album ''Chimène chante Piaf'' phát hành vào mùa thu năm nay, nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày giỗ của Édith Piaf (1963-2023) thông qua một vòng lưu diễn trên các sân khấu Pháp kể từ đầu năm tới. Chuyện ''Chimène hát nhạc Piaf'' cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cho lắm, vì đã từ lâu cô thường hay hát lại những ca khúc của bậc tiền bối. Tuy nhiên khách hâm mộ tinh ý sẽ nhận thấy rằng thời còn non tay nghề, Chimène tránh đụng đến những bài hát nói về kiếp người quá đỗi thương đau, hứng chịu nhiều mất mát thiệt thòi (Mon Dieu, Les Amants d'un jour). Giờ đây, với kinh nghiệm sân khấu, Chimène có thể trình bày những bản nhạc được cho là ''khó trị'' của Piaf, người hát không những cần có kỹ thuật và chất giọng, mà còn cần có đủ độ dày dặn từng trải để có thể lột tả trọn vẹn ý tứ. Đối với Chimène Badi, năm 2022 đánh dấu cùng lúc hai sinh nhật : 40 năm tuổi đời và 20 năm tuổi nghề. Trên đường đời, Chimène đã nhiều lần thi trượt (rớt bằng tú tài và bị loại khỏi chương trình "Popstars") thế nhưng trong cái rủi lại có cái may. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng nhờ nghị lực phấn đấu, cô lại vượt trội hơn so với các thí sinh khác. Sự nghiệp của Chimène Badi hứa hẹn nhiều dự án mới trong thời gian tới, chừng nào tình thương nơi công chúng còn vỗ về, chừng nào giọng hát nội lực vẫn còn nhiều đam mê.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Pháp tổ chức Festival Les Galettes du Monde với Việt Nam là khách mời danh dự

Play Episode Listen Later Nov 4, 2022 10:48

Sau hai năm tạm ngưng do đại dịch Covid-19, Festival Les Galettes du Monde ( Liên hoan bánh Galette thế giới ) đã diễn ra trong hai ngày 27 và 28/08/202 tại thị trấn Sainte-Anne-d'Auray, vùng Bretagne, miền tây nước Pháp, với Việt Nam là khách mời danh dự. Đã có khoảng 20.000 khách đến tham dự Festival Les Galettes du Monde, một liên hoan kết hợp âm nhạc, ẩm thực và hoạt động nhân đạo, ra đời từ năm 2008, nhờ công sức của hàng trăm tình nguyện viên ở địa phương. Tiền lời thu được từ Liên hoan sẽ được sử dụng cho các hoạt động nhân đạo của các hiệp hội tham gia. Tuy là một liên hoan cỡ nhỏ, nhưng Festival Les Galettes du Monde năm nay cũng quy tụ được một số tên tuổi lớn trong giới ca nhạc quốc tế, như ca sĩ nhạc reggae người Côte d'Ivoire Alpha Blondy, được xem như là hiện thân của dòng nhạc reggae, hay nam danh ca người Nigeria Keziah Jones, nổi tiếng với loại nhạc do anh chế ra, blufunk, phối hợp nhạc blues với nhạc funk. Bên cạnh đó, còn có một số nhóm nhạc trẻ đang lên của Pháp, như Silence Radio hay LEJ. Vì đây cũng là một liên hoan ẩm thực, nên tại Festival Les Galettes du Monde, công chúng cũng đã được thưởng thức các món ăn quốc hồn quốc túy của 26 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Như mỗi năm kể từ 2010, Festival Les Galettes du Monde chọn một quốc gia là khách mời danh dự. Năm nay, Việt Nam được chọn. Trả lời RFI, ông Daniel Guguin, trưởng ban tổ chức cho biết: “ Thật ra thì đã có sự trùng hợp. Chúng tôi bắt đầu làm như vậy từ năm 2010. Năm đó Haiti được chọn là khách mời danh dự, nhưng đó cũng là năm là nước này bị trận động đất kinh khủng! Đến năm 2019, Mêhicô được chọn là khách mời danh dự, chúng tôi đã cho xây một làng Mêhicô thật lớn. Vào năm đó, Việt Nam đã đăng ký làm khách mời danh dự, cho nên năm nay được chọn. Tôi chưa biết năm sau chúng tôi có sẽ tiếp tục chọn một quốc gia là khách mời danh dự hay không và nếu có, thì đó sẽ là nước nào. Đây cũng là cách để tuyên dương hoạt động của các hiệp hội đại diện cho quốc gia đó. Hiệp hội đại diện cho Việt Nam đã tham gia với chúng tôi ngay từ đầu. Trong số 12 quốc gia có mặt trong festival đầu tiên, tôi nhớ không chắc lắm, nhưng dường như đã có Việt Nam.” Vì là khách mời danh dự, cho nên năm nay Việt Nam được chiếm một khu rộng lớn gọi là Làng Việt Nam, nằm dưới những tàng cây bóng mát. Thay vì chỉ có một gian hàng như mọi năm, Làng Việt Nam có đến ba gian hàng. Nhưng tại Festival Les Galettes du Monde, chỉ có các hiệp hội tham gia, chứ không có đại điện chính thức của các nước. Về phía Việt Nam, đại diện là hiệp hội Mầm Trẻ, một hội do những người Việt ở thành phố Rennes, vùng Bretagne, lập ra. Theo lời phó chủ tịch hội Mầm Trẻ Nguyễn Văn Thọ, đặc trách gian hàng của Việt Nam, ngay từ tháng hai, đại diện của hội đã được mời dự họp để chuẩn bị cho festival, sau hai năm sự kiện này không thể được tổ chức do tình hình đại dịch Covid-19. Hội đã phải kêu gọi sự tham gia của khoảng 90 tình nguyện viên cả Pháp lẫn Việt, đủ mọi lứa tuổi, để bảo đảm các hoạt động của cả ba gian hàng Việt Nam, nhưng cũng không phải dễ mà tìm được những người biết làm bếp để nấu các món ăn Việt Nam cho khách đến festival, với giá các món ăn không được quá 5 euro. Thời gian và công sức bỏ ra cũng nhiều hơn mọi năm, vì năm nay Việt Nam có một khu rất lớn. Khi chúng tôi đến Làng Việt Nam đầu buổi chiều 27/08 trước khi Festival mở cửa đón khách, cô Vũ Thị Thảo, đến Pháp từ năm 2007, tham gia hội từ khoảng hơn 10 năm, đang cùng với nhiều hội viên khác tất bật chuẩn bị đón khách: “ Khu vực đang làm hôm nay, có nón, có xích lô, có những quang gánh, có áo dài. Festival Les Galettes du Monde là văn hóa ẩm thực, cho nên có nhiều món ăn giống như là bánh xèo, bánh cuốn, bánh chưng, bánh chưng, bánh rán, những món ăn đường phố, để cho những người Pháp biết đến cũng như những người Việt không biết về văn hóa Việt có thể tìm lại.” Do là Liên hoan bánh galette thế giới, nên dĩ nhiên là về mặt ẩm thực, Làng Việt Nam không thể thiếu món bánh xèo, một món ăn tương tự như món galette mặn của vùng Bretagne. Trong vố số thực khách lần đầu tiên thưởng thức món bánh xèo, galette vietnamienne, một phụ nữ phát biểu cảm tưởng của bà: “ Nó hoàn toàn khác với những bánh galette mà tôi đã ăn, nhất là vì món này được làm từ bột gạo. Thật là tuyệt được khám phá một loại galette mới, rất đầy đủ chất lượng, được làm rất đẹp, với những thành phần, gia vị mà chúng tôi chưa biết đến. Món này thật là ngon. Tôi đã biết những món khác của Việt Nam như chả giò, nhưng đây là lần đầu tiên tôi ăn món bánh xèo. Tôi cũng thấy khu Việt Nam năm nay rất tốt so với những năm trước, vì dầu sao Việt Nam là một nước có nhiều sức thu hút, có nhiều người yêu cầu và tôi thấy để khu Việt Nam ở vị trí này là rất tốt, cách biệt các khu khác và nằm dưới bóng mát. Tôi chưa biết Việt Nam, nhưng hôm nay coi như tôi có dịp khám phá Việt Nam và cảm thấy muốn đi Việt Nam một chuyến, tại sao không?” Gặp lại chúng tôi sáng Chủ nhật 28/08, phó hội trưởng Hội Mầm Trẻ rất phấn khởi vì kết quả thu được hôm trước: “ Làng Việt Nam năm nay rất là thành công, đông khách hơn dự đoán, chẳng hạn như tối qua từ 23 đến 24 giờ vẫn còn rất đông người. Đến 1, 2 giờ vẫn còn đông người đến ăn. Nhân lực của chúng tôi đã phải làm việc hết sức, phần đông là phải ngủ lại tại chỗ trong các lều trại kế bên. Ai cũng rất là mệt. Nhưng sáng nay cũng phải dậy sớm để chuẩn bị cho một ngày nữa. Mình có thêm nguồn tài chính thì mình sẽ có những hoạt động lớn hơn, như là Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, và cũng sẽ trích ra một số để gởi về Nhà tình thương ở Việt Nam. Hai, ba năm qua đã không thể tổ chức festival được, năm nay, các anh chị, cô chú rất mệt, nhưng rất hăng hái để làm tiếp.” Trong ngày thứ bảy 27/08, gian hàng Việt Nam đúng là một trong hai nơi ( ngoài gian hàng lớn của vùng Bretagne ) mà khách xếp hàng đông nhất, bàn lúc nào cũng đầy người ngồi ăn, với rất nhiều người muốn khám phá món bánh xèo của Việt Nam. Sang đến ngày Chủ nhật 28/08, số khách đến ăn trưa cũng vẫn đông không kém hôm trước, khiến hai cô làm bếp phải đổ bánh xèo liên tục, không ngơi nghỉ. Một trong hai cô cho biết: “Tối qua làm cũng hơi mệt, nhưng bọn em quen rồi, vì bọn em đều là những người làm nhà hàng. Bọn em đổ từ sáng đến giờ, không kịp nghỉ luôn, chỉ có hai chị em đổ cùng một lúc, đến giờ là mấy trăm cái rồi!” Ngoài Hội Mầm Trẻ, một số nhóm nhạc dân tộc Việt Nam cũng từ Paris như Phượng Ca, Flavic cũng đã đến festival để giới thiệu đến công chúng những làn điệu dân ca Việt Nam. Trên sân khấu thứ hai của Festival Les Galettes du monde, chương trình buổi sáng 28/08 được dành cho các đoàn nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc dân tộc của mỗi nước. Sau những giai điệu sôi động của vùng Réunion, lãnh thổ hải ngoại của Pháp, là đến phần trình diễn các làn điệu dân tộc Việt Nam, rất được nhiều khách dự liên hoan cả Việt lẫn Pháp tán thưởng. Sau buổi diễn, giáo sư âm nhạc dân tộc Phương Oanh, người sáng lập Nhạc viện Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc, thổ lộ: “Đây là lần đầu tiên Phượng Ca được tham gia festival này. Mình cảm động là vì trong ba mươi mấy nước, có mặt Việt Nam, một vinh dự cho mình, cảm động vì không chỉ có người Việt Nam hưởng ứng, mà người Pháp cũng vỗ tay theo. Mình thấy là tiếng Việt của mình đã đi vào lòng của người Pháp ở đây và văn hóa của mình đã được người Pháp hưởng ứng. Tôi cảm động vì được tham gia chương trình này trong tính cách nhân bản và thấy là làm việc cho tha nhân rất quan trọng. Tôi rất ủng hộ mọi người.” Khách đến dự festival cũng đã thích thúc khám phá nhóm tốp ca không có người Việt Nam chuyên hát nhạc Việt Nam, đó FAVIC ( France Amérique Vietnam Inter Culture Contact ). Ông Đoàn Trần Thiều, người sáng lập nhóm FAVIC, chia sẽ với RFI: “ Những người đến với FAVIC, hát cho FAVIC là những người ít nhiều biết đến Việt Nam. Hôm nay lại là dịp để FAVIC đến vùng xa của nước Pháp. Chúng tôi cũng đã từng đi miền bắc, miền nam nước Pháp cũng như sang bên Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và nếu không có Covid thì chúng tôi đã đi Mỹ năm 2021. Mục tiêu của chúng tôi vẫn là liên kết những người không cùng chủng tộc qua âm nhạc của một dân tộc nhỏ bé, nhưng kiên cường. Người ta nói âm nhạc là một ngôn ngữ không biên giới. Thì đấy là một cách để chúng ta phổ biến, truyền bá âm nhạc Việt Nam với người ngoại quốc.”

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Châu Âu có 19 tuyến xe đạp EuroVelo xuyên 42 quốc gia, từ bán đảo Iberia đến Thổ Nhĩ Kỳ, từ Hy Lạp ngược lên cực bắc Na Uy (1). Pháp có đến 25.670 km dành cho xe đạp với 58 lộ trình, trong đó có 10 lộ trình EuroVelo, tính đến tháng 01/2022 (2). Xe đạp trở nên phổ thông hơn kể từ đại dịch Covid-19 và cuộc khủng hoảng năng lượng. Trải qua hơn một thế kỷ, xe đạp vẫn không ngừng biến động với nhiều cuộc “cách mạng” lịch sử. Tiếng Pháp có hai từ để nói về xe đạp : “vélo” và “bicyclette”. Tuy nhiên, trên đài France Culture ngày 16/06/2020, kinh tế gia Frédéric Héran, tác giả cuốn Retour de la bicyclette (Xe đạp trở lại, NXB La Découverte), giải thích “hai từ này hoàn toàn tương đương nhau. “Bicyclette” có vẻ sang trọng hơn, thành thị hơn một chút, còn “vélo” mang tính thể thao hơn”. Cuộc cách mạng công nghệ Xe đạp xuất phát từ nhu cầu cấp bách sau một năm 1816 mất mùa vì thiên tai ở châu Âu và Bắc Mỹ, ngựa bị giết thịt làm thức ăn, nên cần nhanh chóng tìm gia một phương tiện di chuyển thay thế xe ngựa. Sau này, xe đạp là thành quả của cả một thế kỷ cải tiến không ngừng về tốc độ và kỹ thuật để thỏa mãn những nhu cầu mới, theo tóm tắt của kinh tế gia Frédéric Héran : “Bối cảnh thời đại Khai sáng rất thuận lợi về mặt ý tưởng, với mong muốn thúc đẩy các phương tiện di chuyển để tăng vận tốc, vốn là một phát minh của thế kỷ XVIII. Trước tiên, cuộc cách mạng công nghiệp nở rộ vào lúc đó. Tiếp theo, từ nhiều thập niên qua, người ta tìm cách làm nhẹ bớt các phương tiện đi lại. Một cỗ xe ngựa nặng 3 tấn, thường cần đến 2 hoặc 4 con ngựa để kéo. Chính trong bối cảnh đó, ý tưởng giữ thăng bằng trên hai bánh xe chuyển động được cho là đáng tin cậy”. “Velocipede”, thủy tổ của xe đạp ngày nay, được nam tước người Đức Karl Drais chính thức giới thiệu ngày 12/07/1817. “Veloce” - nhanh, “pède” - chân ý muốn nói “để con người đi nhanh hơn”. Được cấp bằng sáng chế ở Pháp năm 1818 với tên gọi “draisienne”, chiếc xe nhanh hơn cả xe ngựa, nối hai thành phố cách nhau 14 km trong một tiếng, đã thu hút hàng nghìn người hiếu kỳ ở vườn hoa Luxembourg, Paris. Thế nhưng, dù dai sức đến đâu, đẩy xe suốt 25 km cũng khiến người sử dụng kiệt sức, đau chân. Phải hơn 20 năm sau mới xuất hiện phát minh mang tính cách mạng : Bàn đạp được người thợ rèn Kirkpatrick MacMillan ở Scotland lắp ở bánh trước, vào năm 1839 nhưng chỉ là kiểu đẩy đi đẩy lại, rất nhanh mệt, khác kiểu đạp tròn hiện nay. Lại phải chờ thêm hơn 20 năm nữa, bàn đạp mới được lắp chính giữa bánh xe trước và đạp tròn, nhờ cải tiến năm 1861 của hai cha con người Pháp, Pierre và Ernest Michaux, khi sửa chiếc “draisienne” bị hỏng. Phát minh này giúp nhà Michaux phất lên như diều gặp gió. Khoảng 400 xe đạp “Michaudine” được xuất xưởng năm 1865. Đến năm 1867, sau thành công ở Triển lãm Hoàn cầu Paris, nhà sản xuất ngập trong đơn đặt hàng, thuê đến 500 công nhân để sản xuất khoảng 200 xe mỗi ngày. Xe đạp trở thành vật phức tạp nhất được chế tạo thời bấy giờ cùng với máy khâu và động cơ hơi nước. Kinh tế gia Frédéric Héran cho biết nhiều nước châu Âu lao vào cuộc đua cải tiến xe đạp : “Anh, Đức và Pháp là những nước lớn duy nhất có khả năng công nghiệp và có đủ kĩ sư để đảm nhiệm dần cải tiến xe đạp. Cả ba nước cạnh tranh điên cuồng trong khoảng 30 năm để phát triển xe đạp hiện đại với hàng trăm bằng sáng chế được đăng ký”. Phương tiện giải trí của giới nhà giầu ưa tốc độ Giới nhờ giàu mê tốc độ đã tổ chức nhiều cuộc đua xe ngay từ năm 1868. Và cũng vì những tay đua mê tốc độ mà xe “grand bi” ra đời năm 1870, rất thịnh hành trong các cuộc đua tại Anh, thậm chí là đua với ngựa. Tuy nhiên, xe không có tương lai do quá nguy hiểm. Đường kính bánh trước có thể lên đến 1,5 mét vì bánh càng lớn, tốc độ càng nhanh nhờ mỗi vòng đạp. Để trèo lên được yên xe và giữ thăng bằng, người lái phải uyển chuyển như diễn viên xiếc. Cũng trong giai đoạn này, xe đạp bắt đầu có lốp đặc bằng cao su. Năm 1877, kĩ sư người Anh James Starley phát minh ra gióng xe bằng ống thép, bền hơn. Hai năm sau, Henry John Lawson là người đầu tiên lắp bộ xích vào xe, kết nối chuyển động của bàn đạp với bánh sau vào năm 1879 và bắt đầu có hình thù giống xe ngày nay dù bánh trước vẫn lớn hơn. Xe đạp không ngừng được cải tiến để gọn nhẹ, thoải mái và nhanh hơn. Năm 1884, nhà phát minh người Anh John Kemp Starley (cháu của James Starley) thu nhỏ kích thước bánh trước bằng bánh sau để xe vững hơn và lắp hệ thống bàn đạp, xích nối bánh sau. Người lái xe ngồi ở phía sau, gần như không thể ngã về phía trước, cho nên xe của ông được gọi là “Rover Safety” (xe đạp an toàn). Từ lúc này, xe đạp hiện đại ra đời, hai bánh có kích thước như nhau, dùng xích, bánh xe lắp lốp hơi có thể tháo ra được. Săm hơi cũng là một phát minh lớn giúp cho xe đạp thoải mái hơn rất nhiều, nhất là vào lúc đường xá còn xấu, lát đá, đầy ổ gà và rãnh do vết xe. Ngoài ra phải nhắc đến một phát minh mang tính cách mạng khác là bộ điều chỉnh tốc độ. Trên đài France Culture, sử gia Philippe Tétart, giảng viên trường Đại học Maine, chuyên về lịch sử thể thao, giải thích : “Thay đổi vận tốc là một phát minh có từ lâu, ngay từ năm 1860. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau về mặt kỹ thuật công nghiệp và do các định chế thể thao từ chối, bộ chuyển tốc độ chỉ được phát triển trong những năm 1920-1930. Lý do chính là do lịch sử xã hội của xe đạp gắn liền với lịch sử của những cuộc đua xe, người ta không muốn các tay đua lợi dụng hệ thống nào đó để đạp xe bớt khó nhọc hơn. Cho đến những năm 1920, mọi tay đua nghiệp dư hay chuyên nghiệp, hoặc chỉ là người đạp xe đi dạo, khi đến chân một đoạn dốc, vẫn phải dừng lại, đổi bánh xe sau để leo dốc thoải mái hơn”. Từ xe công vụ đến tự do của phụ nữ Tại Pháp, ngay từ năm 1900, xe đạp trở thành phương tiện di chuyển của cảnh sát. Họ được gọi là “Hirondelle” (chim én) vì đi xe có thương hiệu cùng tên do công ty Manufrance sản xuất tại Saint-Etienne và áo choàng của họ bay trong gió giống cánh én. Tại kinh đô Ánh sáng, phụ nữ không thử ngay những mẫu xe đầu tiên, giới khoa học thì cho rằng xe đạp quá nguy hiểm cho phái đẹp. Không lâu sau, xe đạp được coi là phụ kiện thời trang của giới quý tộc, là dấu hiệu của thanh lịch, thể hiện đẳng cấp ở chốn thượng lưu. Phải chờ đến cuối thế kỷ XIX, xe đạp mới trở thành phương tiện phổ biến cho phụ nữ sau cuộc đấu tranh bền bỉ xóa bỏ định kiến về hình ảnh người phụ nữ đạp xe. Năm 1895, nhà đấu tranh vì nữ quyền người Mỹ Susan B. Anthony phát biểu : “Xe đạp đã làm nhiều hơn thế cho sự giải phóng của người phụ nữ, hơn bất kỳ điều gì trên thế giới”. (3) Dần dần, xe đạp trở thành phương tiện di chuyển bình dân do giá bán giảm 10 lần trong những năm 1895-1935. Theo sử gia Philippe Tétart, sự phát triển và phổ biến của xe đạp gắn liền với lịch sử xã hội, với cuộc sống của người công nhân : “Năm 1890, chỉ có khoảng 50.000 xe đạp ở Pháp, nhưng đến cuối thế kỷ XIX thì đã vượt ngưỡng 1 triệu xe và có gần 3,5 triệu xe vào khoảng năm 1914. Ai là người mua xe đạp ? Phần lớn là giới công nhân và người dân sống ở nông thôn, khác hẳn với đối tượng khách hàng ban đầu là giới tinh hoa. Có thể thấy sự trùng khớp thực sự, không phải về mặt thời gian, giữa thực trạng tầng lớp công nhân - bắt đầu trở thành một phần quan trọng trong giới làm công ăn lương ở Pháp - với việc sở hữu một chiếc xe đạp giúp thuận tiện đi làm. Một ví dụ điển hình là vào năm 1936, thay vì ưu tiên yêu cầu được nghỉ phép có lương, nhân viên của công ty Renault lại đòi xây nhà gửi xe đạp có mái che để tránh mưa”. Niềm đam mê tốc độ tiếp tục được thể hiện qua những cuộc đua xe đạp, giờ được chính nhà sản xuất Peugeot tổ chức để khẳng định tính ưu việt của nhà sản xuất. Sử gia Philippe Tétart giải thích : “Ngay những năm 1880, Peugeot đã bắt đầu sản xuất ở ngoại ô Montbéliard, ban đầu là vài chục, sau đó là vài trăm, rồi vài nghìn bộ khung và xe đạp. Nhà sản xuất xe hơi đầu tư đến mức tự lập ra những đường đua riêng, tổ chức các cuộc tranh tài cho phép đông đảo người xem có cảm giác như tham gia vào cuộc đua. Dĩ nhiên Peugeot được lợi khi trở thành một trong những thương hiệu lớn nhất trong thời kỳ giữa hai Thế Chiến, đặc biệt là nhờ vào chiến lược huy động đông đảo người đến các cuộc tranh tài, điều mà không phải thương hiệu nào cũng làm được vào đầu thế kỷ”. Cuộc đua bắt đầu vượt ngoài khuôn khổ của nhà sản xuất khi Tour de France - Cuộc đua xe đạp vòng quanh nước Pháp - ra đời. Sự kiện thể thao nhanh chóng trở thành địa điểm vận động chính trị mà tướng Charles de Gaulle là người đầu tiên áp dụng. Sử gia Philippe Tétart giải thích : “Hoan nghênh Tour de France, phải tiếp xúc được với đám đông, gặp gỡ các tay đua, bắt tay những người đến xem. Về điểm này, tướng De Gaulle là người đầu tiên dùng cách làm rõ ràng này. Xe đạp trở thành công cụ truyền thông chính trị. Trong thời kỳ giữa hai cuộc Thế Chiến, các chính trị gia thường hướng đến bóng đá, môn thể thao hàng đầu để họ bày tỏ gắn bó với hy vọng thu được ủng hộ”. Cũng vì hướng đến tốc độ mà xe đạp dần bị loại khỏi cuộc đua, thay vào đó, kể từ năm 1945, là ô tô, nhanh hơn, tiện nghi hơn, đẳng cấp hơn. Xe đạp tiếp tục biến động theo dòng lịch sử, theo kinh tế gia Frédéric Héran trên đài Europe 1 : “Trong những năm 1950-1960, người ta thấy việc sử dụng xe đạp sụt giảm nghiêm trọng ở nhiều nước châu Âu, kể cả ở Hà Lan, giảm 3 lần ở Hà Lan, 6 lần ở Pháp. Rồi đến cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1994, người ta thấy xu hướng đi xe đạp dần dần trở lại, bắt đầu từ Hà Lan, Đức, tiếp theo là Đan Mạch, rồi đến Pháp vào khoảng những năm 1990 và đặc biệt là từ những năm 2000”. Hàng loạt cuộc đình công tại Pháp, tiếp theo là ba năm đại dịch Covid-19 và cuộc khủng hoảng năm lượng, xe đạp trở lại đông đảo ở các thành phố lớn. Trong năm 2021, người dân Pháp mua khoảng 2,7 triệu xe đạp mới, nhiều hơn cả mua ô tô. Ông Virgile Caillet, đại biểu của tổ chức Union Sport & Cycle, cho rằng “Pháp đang khám phá lại thực tế xe đạp là phương tiện di chuyển hàng ngày và là một công cụ thực sự cho xã hội”. (1) Eurovelo.com (2) Velo-territoire.org (3) Slate, "Le vélo, l'invention qui émancipa les femmes".

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

''L'aventure continue'' (Chuyến phiêu lưu tiếp diễn) là tựa đề album mới được phát hành vào đầu mùa thu năm nay của nam ca sĩ người Pháp Mister Mat. Anh là một trong những thí sinh từng gây nhiều ấn tượng nhân vòng chung kết cuộc thi hát truyền hình The Voice, phiên bản tiếng Pháp (mùa thứ 11), đã diễn ra vào cuối tháng 5 năm 2022. Ngay từ vòng giấu mặt của cuộc thi, Mister Mat đã thu hút sự chú ý của toàn ban giám khảo (4 ghế thành viên đều quay lại) nhờ chất giọng điêu luyện và cách chơi đàn ghi ta nhuần nhuyễn. Sức thuyết phục ấy đến từ việc anh có nhiều năm tay nghề, nhờ kinh nghiệm mà không hề bị khớp trên sân khấu. Thể loại sở trường của Mister Mat từ trước tới nay vẫn là nhạc blues, thể loại nguyên thủy gần sát với cội rễ, chẳng những mộc mạc mà còn ít được biến tấu, phóng tác. Tài nghệ của Mister Mat tìm thấy nơi nhạc phẩm ''Georgia on my mind'' (của Ray Charles) không gian lớn rộng để xoải cánh, bầu trời mênh mông để tung hoành. Đằng sau nghệ danh tựa như một nhân vật truyện tranh, Mister Mat thật ra là một nhạc sĩ kiêm tác giả khá thành đạt. Trong vòng một thập niên liền, anh là ca sĩ chính của nhóm Mountain Men, từng đoạt khá nhiều giải thưởng nhân các kỳ liên hoan địa phương. Tên thật là Mathieu Guillou, anh năm nay 43 tuổi, sinh trưởng ở thị trấn Voiron, gần thành phố Grenoble (tỉnh Isère). Thời niên thiếu, anh tự học đàn ghi ta, đồng thời chơi bóng bầu dục trong một đội bóng chuyên nghiệp (Stade Olympique Voironnais). Mãi đến năm 25 tuổi, Mathieu mới quyết định ngưng sự nghiệp thể thao để dốc sức sáng tác âm nhạc và đeo đuổi nghề biểu diễn trên sân khấu. Một thập niên hoạt động trong nhóm Mountain Men Năm 2005, Mathieu Guillou thành lập một ban nhạc với nghệ sĩ người Úc Ian Giddey, nổi tiếng nhờ tài nghệ chơi kèn harmonica. Mỗi lần lên sân khấu, Ian thường hay biểu diễn chân trần cho nên còn được mệnh danh là ''Barefoot Iano''. Ban nhạc gồm hai thành viên này lấy tên là ''Mountain Men'' có lẽ cũng vì họ sinh trưởng ở vùng cao nguyên, miền núi. Năm 2006, ban nhạc biểu diễn tại liên hoan các tài năng mới ''Blues sur Seine'', sau khi đoạt giải nhất nhóm Mountain Men được mời sang Canada biểu diễn đúng một năm sau, nhân kỳ liên hoan quốc tế Festiblues de Montréal vào mùa hè năm 2007. Sau khi tham gia chơi nhạc phần đầu vòng lưu diễn của nghệ sĩ nhạc rock Alain Bashung, ban nhạc phát hành album đầu tiên mang tựa đề ''Spring Time Coming'' ''Mùa xuân đang tới'' vào tháng 5 năm 2009. Vào thời ấy, đĩa hát của họ là do tự sản xuất, cho nên cả hai nghệ sĩ ca sĩ phải đi làm thêm để kiếm tiền, chứ chưa đủ sống nhờ chơi nhạc. Trong cùng năm ấy, nhóm Mountain Men đoạt giải thưởng lớn tại Liên hoan Cognac Blues Passion. Nhờ vậy vào đầu năm 2010, họ được mời sang thành phố Memphis, một trong những chiếc nôi âm nhạc quan trọng nhất nước Mỹ để biểu diễn nhân liên hoan The International Blues Challenge. Tại thành phố Memphis, tập nhạc ''Spring Time Coming'' được đề cử cho giải thưởng album tự sản xuất hay nhất trong năm. ''Mùa xuân đang tới'' cũng là lúc sự nghiệp của Mountain Men thật sự cất cánh. Wonderful World : Cơ hội chinh phục thêm nhiều fan mới Sau khi album đầu tay của nhóm đã được giới chuyên nghiệp công nhận, Mountain Man có thể cống hiến hết mình cho âm nhạc. Trong vòng một tập niên liền từ năm 2009 đến 2017, nhóm này cho ra mắt 6 album, hòa quyện nhạc Pháp với nhạc Mỹ, xen kẻ các bản ghi âm lại với sáng tác gốc. Trong số các bản cover nổi tiếng của nhóm có các bài hát của Georges Brassens, (Smells like Teen Spirit) của Nirvana, hay các bản nhạc folk hoặc country nổi tiếng, kể cả ''Summer Wine'' (Rượu vang mùa hè) được Mister Mat ghi âm với nghệ sĩ Annie Lalalove. Đây cũng là giai đoạn nhóm hợp tác với các thành viên nổi tiếng của các ban nhạc như Noir Désir hay Louise Attaque. Sau một thời gian dài không ngừng đi biểu diễn ở nhiều nơi, nhóm này tạm ngưng khi cả hai thành viên quyết định lập gia đình. Mathieu Guillou lấy nghệ danh là Mister Mat khi khởi nghiệp solo và cho phát hành các bản ghi âm một mình sau nhiều năm đi hát trong nhóm. Tập nhạc EP đầu tiên phát hành vào tháng 11 năm 2019 tuy chỉ có 6 bài hát nhưng lại mang tựa đề tượng trưng là "Freedom" (Tự Do) cho thấy Mister Matt đã tìm lại nguồn cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên, sự nghiệp solo vừa mới khởi đầu bỗng dưng khựng lại do dịch Covid-19. Trong hai năm liền, Mister Mat không còn cơ hội đi biểu diễn ngoại trừ chuyện kiên nhẫn chờ thời qua sáng tác. Việc tham gia cuộc thi hát truyền hình The Voice chính là cơ hội cho Mister Mat tìm lại giới hâm mộ, đồng thời chinh phục thêm nhiều đối tượng mới. Tuy chỉ về nhì cuộc thi (giải nhất năm nay về tay nữ ca sĩ Nour), nhưng Mister Mat lại thành công trong việc thu hút sự quan tâm của công chúng về giai đoạn thứ nhì trong sự nghiệp. Nếu như các bản ghi âm tiếng Pháp rất mộc mạc như nhạc folk, thì các bản tiếng Anh lại tìm về cội nguồn, đôi khi đậm đặc chất bluegrass trong cách chơi những khúc chuyển đổi, lối khẩy đàn chẳng những biến tấu khác thường, mà cách dùng hợp âm còn tài tinh khéo léo. Mister Mat đeo đuổi sự nghiệp không hẳn vì lợi danh nhãn tiền, mà vì trên con đường nhạc blues, hành trình phiêu lưu vẫn tiếp diễn.

covid-19 canada voice solo blues nirvana li seine smells mister nh mathieu ban ray charles grenoble sau chuy nour trong mountain man tuy teen spirit georges brassens ngay mountain men noir d international blues challenge alain bashung louise attaque

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Các giai thoại về nhà soạn kịch Molière vẫn tạo ra nhiều cuộc tranh luận từ nhiều thế kỷ qua. Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh đại văn hào Pháp, Thư viện Quốc Gia Paris tổ chức triển lãm “Molière và vở kịch giữa thực và giả” (Molière le jeu du vrai et du faux – 27/09/2022-15/01/2023), để đưa công chúng tìm hiểu rõ hơn về Molière và sự nghiệp cũng nhưu cuộc đời ông. Với những đóng góp to lớn vào nền nghệ thuật và văn chương, Molière là cái tên đại diện cho ngôn ngữ Pháp – ngôn ngữ của Molière. Các tác phẩm kịch nói, đến nhạc kịch, hài hước và mang đầy tính châm biếm không chỉ thu hút đông đảo khán giả ở Pháp và châu Âu mà còn được trình diễn tại nhiều quốc gia khác. Ông được xem là vị đại sứ truyền bá văn hoá Pháp ra ngoài thế giới. Qua 4 thế kỷ, các tác phẩm của ông đã được chuyển thể sang nhiều ngôn ngữ khác nhau, trình diễn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Di sản mà ông để lại gồm khoảng hơn 30 tác phẩm lớn nhỏ, như Người Bệnh Tưởng (Le malade imaginaire), Lão hà tiện (L'avare), Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentilhomme). Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Molière, thư viện Quốc gia Pháp cùng Nhà hát lớn Opera Garnier, đồng tổ chức các cuộc triển lãm, vén bức màn ở hậu trường, đằng sau ánh sáng của sân khấu, đưa người xem đến gần với quá trình xây dựng các vở kịch của Molière, từ trang phục cho đến âm nhạc hay thiết kế sân khấu. Đặc biệt là cả những giai thoại về cuộc đời của nhà soạn kịch, diễn viên, nhà thơ, Jean Baptiste Poquelin với nghệ danh Molière. Nếu như đa số các tác phẩm của Molière được lưu truyền, được nghiên cứu cẩn thận thì cuộc đời và danh tính của đại văn hào lại là một ẩn số đối với công chúng. Người ta biết đến Jean Baptiste Poquelin qua những cuốn truyện, những vở kịch hay thước phim và đa số thường là được sáng tác ra. Chân dung của Molière đôi khi được phác họa như là một diễn viên nghèo khó, lang thang trên khắp nẻo đường ở Pháp. Vẫn là Molière, một nhà soạn kịch ngồi cùng bàn ăn với vua Louis XIV; hay Molière chết trên sân khấu trong vở kịch cuối cùng của mình “Người bệnh tưởng”. Bốn thế kỷ qua, biết bao câu chuyện đã được thêu dệt về đại văn hào Pháp, khiến công chúng không rõ thực hư ra sao. Cho đến nay, chúng ta biết gì về Molière ? Đó chính là câu hỏi mà triển lãm “Molière và vở kịch giữa thực và giả” (Molière le jeu du vrai et du faux – 27/09/2022-15/01/2023), đưa công chúng tại Pháp tìm ra câu trả lời. Bà Agathe Sanjuan, phụ trách lưu trữ tại Comédie Française và là giám tuyển của triển lãm cho biết : “Chúng tôi đã đặt tên cho triển lãm là ‘Molière và vở kịch giữa thực và giả' bởi vì đây là một nghi vấn, một vấn đề được đặt ra xung quanh cuộc đời của Molière cũng như về các tác phẩm do ông sáng tác. Có quá nhiều thông tin sai lệch được loan truyền về tiểu sử của ông. Do vậy chúng tôi thấy rất quan trọng để làm sáng tỏ những nghi vấn này thay vì tổ chức một triển lãm nói về cuộc đời của Molière. Tại triển lãm chúng tôi nêu ra những việc mà mọi người đã biết, những điều mà chúng ta đã tin là như vậy từ lâu nhưng thực ra lại không hoàn toàn là sự thật. Theo tôi, đây là một đề tài rất quan trọng trong lịch sử của kịch trường. Đó là nghệ thuật đại diện cho một thứ gì đó, không hẳn là sự thật, nhưng được trình diễn một cách biến nó thành sự thật. Đó là nghệ thuật giữa thật và giả. Triển lãm được tổ chức tại Galerie Mansart, một gian phòng trong Thư Viện Quốc Gia Pháp Richelieu, vừa mở cửa trở lại sau 12 năm tu sửa. Đây cũng là công trình được xây dựng cùng thời với Molière. Triển lãm được xây dựng trên 3 đề tài chính : Cuộc đời của những huyền thoại, Molière cổ điển hay hiện đại, Molière - một tác giả hoàn cầu. Gian triển lãm đầu tiên giới thiệu những bức chân dung của Molière được phác hoạ, có nhiều phiên bản đến nỗi mà công chúng khó biết được đâu mới là diện mạo thật sự của Molière. Những bản thảo về tiểu sử của Molière đầu tiên được soạn ra chỉ vài năm sau khi ông tạ thế, đã được sử dụng như một bản quy chiếu từ nhiều thập kỷ, đã nuôi dưỡng trí tưởng tượng của công chúng. Thế nhưng, tất cả chỉ mang tính tương đối và có nhiều tình tiết sai lệch. Nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật kịch trường, đồng giám tuyển của triển lãm, ông Joël Huthwohl trả lời báo chí, một ngày trước khi triển lãm mở cửa với công chúng : “Những bút tích duy nhất mà Molière để lại đó là chữ ký của ông, chủ yếu được tìm thấy trong những văn bản hành chính trong nhà hát, hiện được giữ bởi Cục lữu trữ quốc gia. Chúng tôi cũng đã quyết định trưng bày một văn bản cực kỳ độc đáo, đó là bản tổng hợp tài sản của Molière sau cái chết của ông. Tài liệu này liệt kê chi tiết tài sản của Molière. Đối với những nhà nghiên cứu về lịch sử kịch trường, đây là một tài liệu rất thú vị bởi vì nó có thể cho phép suy ra rằng Molière có thể là một người giàu có, một trưởng giả ở Paris. Từ những dụng cụ làm bếp quý giá cho đến thước đo nhiệt độ, những vật dụng ám chỉ thuộc về những người giàu có. Tài liệu này cho phép xoá bỏ những lời lẽ sáo ngữ về cuộc đời của một diễn viên nghèo khó, sống bên lề của xã hội. Trên thực tế, ông lại là một nghệ sỹ khá giả.” Ngoài ra, vào thế kỷ XX, Molière trở thành chủ đề tranh cãi, liệu Molière có thực sự là tác giả của các tác phẩm mang tên ông hay là một ai khác. Chính sự giúp đỡ của Pierre Corneille trong vở bi kịch ba lê Psyché đã dấy lên nghi vấn này. Nhiều người suy luận rằng, có thể chính Corneille mới là tác giả thật sự. Tuy nhiên giả thuyết này đã bị các nhà ngôn ngữ và nhà sử học chứng minh là không đúng. Một sự kiện quan trọng khác đó là về cái chết của Molière, mà bao giai thoại đã được thêu dệt lên. Có người cho rằng tác phẩm “Người bệnh tưởng” là một vở kịch tự truyện về cuộc đời của Molière do chính ông viết lên. Nhưng thực tế thì không phải như vậy, Molière không mắc bệnh trong nhiều năm, trước khi ông tạ thế vào năm 1673. Molière cũng không chết trên sân khấu, ngay sau khi diễn xong vở “Người bệnh tưởng” mà là tại nhà riêng của ông. Ông được cho là bị mắc bệnh về đường hô hấp cấp tính. Molière cũng không được hai linh mục ban phước vào những phút cuối của cuộc đời, theo như truyền thống Công Giáo mà chỉ có người thân xung quanh. Thời điểm đó, Nhà Thờ không công nhận những người làm việc trong giới nghệ thuật. Để về với Chúa, Molière lẽ ra phải từ bỏ nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, tang lễ của ông không hề được tổ chức một cách giấu giếm mà trái lại vẫn có sự hiện diện của các linh mục và còn là một tang lễ tôn giáo. Giám tuyển Agathe Sanjuan giải thích thêm : “Chúng tôi đã tìm thấy một tài liệu, đó là hoá đơn các trang phục cho vở kịch Người bệnh tưởng, mà chính Molière đã diễn trước khi qua đời. Trong đó, chúng tôi tìm thấy một thông tin rất thú vị. Đó là có hai bộ trang phục của Argan, vai chính của vở kịch. Tại sao lại có hai bộ, bởi vì Molière thường có ý định diễn vở kịch này. Do vậy đây có thể là bằng chứng cho thấy, ông ấy không bị ốm nặng lúc đó. Molière không biết là ông ấy sẽ chết chỉ vài giờ sau khi vở kịch được trình diễn.” Triễn lãm cũng trưng bày một tài liệu do La Grange, phụ trách đoàn kịch của Molière và cũng là một người bạn của đại văn hào. Xin trích : “Trong cùng ngày hôm đó, sau vở diễn, khoảng 10 giờ tối, Ông Molière đã chết tại nhà riêng, ở đường Richelieu sau khi diễn xong vở “Người bệnh tưởng”. Ông bị cảm lạnh rất nặng và bị sưng huyết phổi, khiến ông ho mạnh, đến nỗi mà ho ra máu, làm vỡ tình mạch và chỉ sống được vài giờ sau đó. Linh cữu của ông được chôn tại St Joseph,trong khuôn viên của nhà thờ St Eustache.” Triển lãm khép lại với những bản dịch hay các bức áp phích về kịch của Molière được trình diễn trên khắp châu lục, tại các thuộc địa cũ của Pháp ở châu Phi hay ở Đông Dương, với những sắc thái riêng của đất nước đó. Tại một số quốc gia như Maroc hay Việt Nam, Molière trở thành ông tổ của kịch nói. Chính quyền thực dân Pháp thời điểm đó, muốn đưa kịch của Molière đến các nước thuộc địa, để làm phương tiện giải trí cho những người phục vụ cho chính quyền Paris. Điểm thú vị là những bậc trí thức, giới nghệ sỹ tại các quốc gia thuộc địa đã biến tấu kịch của Molière, sao cho phù hợp với văn hoá địa phương, và trở thành công cụ mỉa mai chế giễu chính quyền Pháp. Giám tuyển Agathe Sanjuan cho biết : “Tại các nước ở Bắc Phi, họ đã biến kịch Molière thành của chính họ, và diễn theo một cách khác, nhưng vẫn hoàn toàn có thể đưa ra ngụ ý chỉ trích sự xâm lược của Pháp. Còn tại châu Á, cụ thể là Việt Nam, các cuộc xung đột đã xảy ra giữa những nghệ sỹ và chính quyền do Pháp kiểm soát. Chính quyền không muốn cho phép nghệ sỹ được diễn các vở của Molière, mà diễn các thể loại khác. Tuy nhiên, khán giả lại rất muốn xem Molière. Do vậy, điều này giải thích tại sao có những bản dịch các tác phẩm của Molière sang tiếng Việt từ rất sớm.” Các tác phẩm của Molière được viết và loan truyền rộng rãi dưới thời Louis XIV, thể hiện rõ giai đoạn lịch sử ở thời điểm đó. Bằng ngôn ngữ trào phúng Molière đem tiếng cười vào các tác phẩm của mình. Molière nêu ra những vấn đề trong xã hội, một cách bi mà hài, về những mối quan hệ xã hội : Giữa những số phận nhỏ bé và những người quyền cao chức lớn, xung đột trong gia đình, giáo dục, và cả những thói xấu của con người : như giả tạo, hà tiện, trưởng giả. Những nhân vật mà ông tạo ra, dường như đi xuyên thời đại, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà đến nay vẫn chưa lỗi thời.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Tại Pháp, ca sĩ Thomas Dutronc xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ rất nổi tiếng. Mẹ anh là Françoise Hardy, thần tượng nhạc Pháp từ những năm 1960. Còn thân phụ là ca sĩ kiêm tác giả Jacques Dutronc. Bản thân Thomas đã từng sáng tác cho mẹ anh một số bài hát trên tập nhạc ''Clair Obscur''. Còn với bố, anh vừa phát hành trong mùa hè năm nay bản song ca ''J'aime les Filles''. Sự kiện Jacques và Thomas Dutronc hát chung trên cùng một sân khấu cũng không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm. Hai bố con từng hợp tác nhiều lần với nhau kể từ năm 1995, thời Thomas Dutronc còn là một nhạc sĩ ghi ta chuyên về nhạc jazz và chưa thật sự bước vào nghề ca hát. Đến khi Thomas thành danh, hai cha con mới làm việc chung như hai đồng nghiệp, họ bổ sung cho nhau vì hai nghệ sĩ này đến từ hai phương trời khác biệt (Jacques Dutronc chuyên hát nhạc rock, Thomas Dutronc thích chơi nhạc jazz du mục). Bài song ca ''J'aime les Filles'' là trích đoạn đầu tiên của album phòng thu gồm các bản phóng tác mà hai cha con con Dutronc sẽ trình làng vào đầu tháng 11/2022. Hạnh phúc đầu tiên trong ngày : Françoise Hardy và Clara Luciani Trong khi chờ đợi album mới, Thomas Dutronc vừa cho tái bản album phòng thu thứ tư của mình với tựa đề ''Frenchy''. Mặc dù được đặt tựa tiếng Anh, nhưng album gồm rất nhiều ca khúc kinh điển tiếng Pháp. Ngoài các giai điệu như La vie en rose, La belle vie, C'est si bon, hay My Way, còn có một số ca khúc ăn khách gần đây như ''Playground Love'' của ban nhạc Air, hay ''Get Lucky'' của nhóm Daft Punk phối theo điệu swing. Thomas đã mời nhiều nghệ sĩ quốc tế trứ danh cùng ghi âm với anh, trong đó có diva nhạc jazz người Canada Diana Krall, ca sĩ Hàn Quốc Youn Sun Na, ngôi sao nhạc rock người Mỹ Iggy Pop, ca sĩ chính của nhóm ZZTop Billy Gibbons, hay diễn viên kiêm ca sĩ Mỹ Jeff Goldbum ….. Trong lần tái bản album mang tựa đề ''Frenchy'', Thomas Dutronc chủ yếu mời nhiều ca sĩ Pháp như Jane Birkin, Étienne Daho, Eddy Mitchell và ngay cả bố anh là Jacques Dutronc cũng góp giọng trên album này qua việc ghi âm các bản nhạc bổ sung. Còn về phía Françoise Hardy, do sức khỏe quá yếu cho nên nữ danh ca đã không tham gia vào album của con trai mình. Thomas vẫn dành nhiều tình thương cho mẹ anh khi ghi âm lại một ca khúc rất nổi tiếng của Françoise Hardy. Nhạc phẩm ''Le premier bonheur du jour'' (Hạnh phúc đầu tiên trong ngày), từng ăn khách vào năm 1963, nay được Thomas ghi âm lại với giọng ca Clara Luciani, mà giới phê bình thường hay so sánh với một Françoise Hardy thời còn trẻ. Tuy xuất thân từ một gia đình có dòng máu nghệ sĩ, Thomas Dutronc đã đắn đo một thời gian khá dài trước khi nối nghiệp song thân. Sinh năm 1973, Thomas ban đầu chọn theo học ngành điện ảnh vì anh nuôi mộng làm đạo diễn, chứ không muốn trở thành ca sĩ. Sau khi tốt nghiệp, anh làm đủ mọi nghề để kiếm sống, tự học đàn ghi ta rồi đi biểu diễn trong các nhóm nhạc jazz độc lập. Thay vì trở thành đạo diễn anh lại tìm ra cách dung hòa đam mê điện ảnh với sở thích chơi nhạc chuyên nghiệp : sáng tác nhạc phim. Trong vòng 5 năm, từ năm 2003 đến 2008, Thomas đã gặt hái khá nhiều thành công nhờ dày công đeo đuổi lãnh vực này, bên cạnh việc sáng tác ca khúc cho nhiều ca sĩ khác. Từ sáng tác cho Salvador cho đến giai điệu ''Nụ hoa nhỏ'' Mãi đến năm 2007, Thomas Dutronc mới cho ra mắt album ca nhạc đầu tay với tư cách là ca sĩ kiêm tác giả. Tài năng của anh đã thật sự chín muồi và loại nhạc jazz du mục mà anh đeo đuổi, đem lại cho thế hệ trẻ cầm bút sáng tác một luồng sinh khí mới. Tập nhạc đầu tiên này có nhiều nét khôi hài dí dõm, mang ảnh hưởng của Henri Salvador mà anh đã có dịp hợp tác trên tập nhạc ''Chambre avec vue'' của ông vào năm 2000. Nhờ có nhiều kinh nghiệm tay nghề, cho nên album đầu tiên ghi âm khá trễ vào năm 34 tuổi, lại giúp cho Thomas Dutronc lập kỷ lục số bán, hai lần đạt mức đĩa bạch kim. Bản nhạc chủ đề của album ''Comme un manouche sans guitare'' (Kẻ du mục không đàn cũng chẳng khác gì ''cà phê không đường'') đoạt giải thưởng âm nhạc Pháp Victoires de la Musique 2008 dành cho sáng tác gốc hay nhất trong năm. Từ đó đến nay, Thomas chỉ cho ra mắt 4 album phòng thu, chủ yếu cũng vì anh tham gia cùng lúc vào nhiều dự án tập thể, càng đa dạng càng tốt, bản thân anh cảm thấy hợp hơn với các kiểu sinh hoạt theo nhóm, chứ không thích các dự án solo. Tuy còn non tay nghề trong những năm tháng đầu đời, Thomas Dutronc chưa hề dựa vào song thân hay gia thế để làm nên tên tuổi. Sự nghiệp cá nhân là do bản thân anh tự tay gầy dựng. Giờ đây, Thomas Dutronc đã trở thành một nghệ sĩ thực thụ, được giới chuyên môn hay các đồng nghiệp công nhận. Ngoài tài nghệ chơi đàn ghi ta, anh còn có cái tài hòa âm phối khí. Nhờ các bản phối nhạc jazz, mà tập nhạc ''Frenchy'' trong lần tái bản càng được thăng hoa bay bổng như trong giai điệu ''Petite Fleur'' (của hai tác giả Fernand Bonifay và Sidney Bechet) như một nụ hoa nho nhỏ khiêm nhường, quả mọng đo đỏ ven đường, mà bỗng thơm ngát mùi hương cho lòng xao xuyến vấn vương.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Đồi Montmartre, ở Paris, lại tưng bừng với Hội mùa Thu hoạch (Fête des Vendanges) từ ngày 05 đến 09/10/2022. Hàng năm, khoảng 3.000 chai vang đỏ và hồng được ủ từ nho của gần 1.900 gốc, trong đó nhiều gốc trồng năm 1933. Toàn bộ số tiền bán rượu được dành cho các chương trình xã hội của quận 18. Được tổ chức từ 80 năm nay, Hội mùa Thu hoạch là dịp thưởng thức ẩm thực và đắm mình trong không khí hội hè nổi tiếng của Montmartre. Montmartre từng là vùng đất hoang vu với một tu viện được xây vào thế kỷ XII và vài ruộng nho xung quanh. Rồi người ta đến trồng rau, trồng nho, lập làng quanh tu viện. Nét điền dã dần biến mất với quá trình đô thị hóa từ thế kỷ XIX. Một tầng lớp cư dân mới, chủ yếu là người nghèo, trộm cắp, công nhân và cả những nghệ sĩ nay đây mai đó, bị đẩy khỏi quá trình đô thị hóa Paris theo kế hoạch của kiến trúc sư Haussmann, đến sống ở rìa làng, hình thành khu ổ chuột (maquis de Montmartre), không điện, không nước với những căn nhà lụp xụp xen giữa thảm thực vật hoang dại. Từ khu ổ chuột thành “mồi” cho giới bất động sản Chính quyền cũng quay lưng với những “thành phần không một xu dính túi”, ít nhất cho đến cuối thế kỷ XIX. Vào Thời kỳ Tươi đẹp (Belle Epoque, 1871-1880), những vùng trên cao ở Paris trở thành khu vực giải trí sành điệu. Làng Montmartre lột xác. Các quán rượu mọc lên ầm ầm, thu hút giới tinh hoa Paris và những nghệ sĩ nổi tiếng đương thời. Đất ở Montmartre lên giá. Ngôi làng trở trành miếng mồi cho giới thầu xây dựng. Người dân nghèo bị đuổi khỏi khu ổ chuột, đôi khi không được tái định cư. Những tòa nhà theo kiến trúc Haussmann lần lượt mọc trên đại lộ Junot ở chân đồi, thêm vài ngôi biệt thự theo kiến trúc Anh, Tân Nghệ thuật dành cho nhà giầu (biệt thự Léandre). Quá trình thay đổi của khu đồi được tái hiện rõ ở Bảo tàng Montmartre (Musée de Montmartre, được bà Saskia Ooms, phụ trách bảo tàng, giới thiệu với RFI Tiếng Việt : “Bảo tàng muốn giới thiệu quá trình thay đổi của khu phố theo thứ tự thời gian. Những chiếc cối xay gió và mỏ khai thác thạch cao dần biến mất để mở đại lộ Junot, rồi Montmartre được sáp nhập vào quận 18 Paris năm 1860. Ngoài ra, còn có lịch sử của tu viện Montmartre, cùng với những cánh đồng nho gắn liền với lịch sử của khu đồi. Chúng tôi may mắn có bộ sưu tập đa ngành rất đa dạng, gồm tranh, ảnh, ma-két, đồ vật… cho thấy quá trình thay đổi của khu phố. Ngoài ra, bảo tàng còn có rất nhiều tấm áp-phích do các nghệ sĩ lúc đó thực hiện, đồ sứ Clignancourt sang trọng, cũng như những đồ vật mang tính dân gian cho thấy nét đặc biệt của khu phố. Khách tham quan có thể xem kịch bóng được tái dựng ở phòng trưng bày Chat Noir. Đây là khu trưng bày hiếm có, nơi người xem như hòa mình vào khung cảnh huyên náo, nhộn nhịp của khu phố và tiệm hát huyền thoại do Rodolphe Salis thành lập”. Nhà thờ Thánh Tâm (Basilique du Sacré-Coeur de Montmartre), được khởi công năm 1875, ban đầu bị coi là lời thóa mạ đến tinh thần cách mạng, nhưng lại góp phần làm thay đổi cảnh quan đồi Montmartre. Một bên là tâm linh, bên kia là trần tục, nhộn nhạo với những hàng cà phê, quán rượu trong thập niên 1880. “Nét đặc trưng của khu phố được truyền tải qua những quán rượu, cà phê mọc trên đồi Montmartre từ năm 1888. Thực ra, rất nhiều nghệ sĩ đã đến Montmartre vào khoảng thập niên 1870, sau đó, họ thường xuyên lui tới những quán cà phê, ngày càng đông hơn ở trên đồi, đặc biệt phải kể đến quán Café du Chat noir (Cà phê Mèo Đen), rất nổi tiếng, rất đông khách và thường chiếu kịch bóng. Tất cả được chúng tôi trưng bày trong phòng triển lãm Mèo Đen. Ngoài ra, còn có nhiều diễn viên sân khấu, cũng như những anh hề của Gánh xiếc Medrano nổi tiếng, được nhiều nghệ sĩ tái hiện trong tác phẩm của họ. Trong bảo tàng, khách tham quan có thể thấy tấm áp-phích rất đẹp của họa sĩ Toulouse-Lautrec quảng cáo buổi diễn mỗi tối của Aristide Bruant ở quán rượu-cà phê Mirliton, hoặc về Jane Avril và Yvette Guilbert, hai vũ nữ rất nổi tiếng”. Cái nôi của nghệ thuật, nơi giao lưu của văn nghệ sĩ Montmartre trở thành trung tâm của thủ đô nghệ thuật Paris vào đầu thế kỷ XX. Chính tại khu phố thời thượng này, Bateau-Lavoir, một trong những nơi cư trú nổi tiếng của các nghệ sĩ đã ra đời. Dãy nhà cấp bốn, ban đầu là phòng khiêu vũ, sau đó là xưởng làm đàn piano, được ngăn dọc thành khoảng 20 xưởng vẽ nhỏ, làm liên tưởng đến hành lang trên boong tầu nên được nhà thơ Max Jacob đặt tên là Bateau-Lavoir. Lúc đầu, đây chỉ là nơi lưu trú của các nghệ sĩ Ý và Tây Ban Nha, dần dần Bateau-Lavoir trở thành nơi giao lưu của giới văn-nghệ sĩ. Guillaume Apollinaire, Amedeo Modigliani, Henri Matisse, Georges Braque, Jean Cocteau… từng sống trong “ngôi nhà chung”. Bateau-Lavoir trở thành “Villa Medicis của hội họa hiện đại”, nơi danh họa Picasso gặp người bạn đời, người mẫu Fernande Olivier. “Tại khu Bateau-Lavoir, Picasso vẽ bức Les Demoiselles d'Avignon (Những cô gái ở Avignon). Đó cũng là nơi sáng tác của Kees Van Dongen, Othon Friesz, Juan Gris và nhiều nghệ sĩ khác. Các nghệ sĩ tiên phong trong khu phố đã thực sự ganh đua với nhau vào thời đó. Rất nhiều tác phẩm của những nghệ sĩ đã sống trong bảo tàng cũng được trưng bày, như Suzanne Valadon, Maurice Utrillo và André Utter. Trước khi trở thành bảo tàng hiện nay, khu nhà này có những xưởng vẽ, rất nhiều nghệ sĩ đã sống ở đây, trong đó có Raoul Dufy, Othon Friesz, Charles Camoin, Émile Bernard”. Từ khu vườn của bảo tàng có thể nhìn xuống ruộng nho duy nhất Clos-Montmartre, chếch xa hơn một chút là quán rượu Lapin Agile, được coi là “ngôi đền” của giới nghệ sĩ và người thích hát. Họa sĩ biếm họa André Gill vẽ biển hiệu cho quán rượu là một chú thỏ đang nhảy ra khỏi nồi. Từ đó, người ta gọi là Chú thỏ của Gill (le Lapin à Gil), sau được lái thành Chú thỏ nhanh nhẹn (le Lapin Agile) và giữ cho đến nay. Bà Saskia Ooms nhận xét : “Montmartre là một trong những khu phố hiếm hoi vẫn giữ được nét quyến rũ đặc biệt. Phần lớn khu phố vẫn như xưa. Người ta vẫn thấy những địa điểm nổi tiếng như nhà hàng Lapin Agile, Lâu đài Sương mù (Château des Brouillards), Ngôi nhà mầu hồng (Maison Rose), Cối xa gió đỏ (Moulin Rouge), nghĩa trang Saint-Vincent tạo nên nét quyến rũ, cổ kính và rất độc đáo cho khu phố”. Làng trong phố Hầu hết những địa điểm được bà Saskia Ooms nhắc đến đều nằm quanh khu phố Abreuvoir, hiện là điểm “check-in” không thể bỏ qua của du khách. Đầu phố là nhà hàng Maison rose (Ngôi nhà mầu hồng) nổi tiếng, được xây vào khoảng năm 1850, sau đó bị bỏ hoang, rồi được Laure Gargallo, người mẫu cho Picasso, mua lại và sơn hồng để làm quán ăn nhỏ cho những người bạn nghệ sĩ. Giữa phố Abreuvoir là tượng ca sĩ Dalida, ngay cạnh Lâu đài Sương mù với những câu chuyện ma chưa có lời giải. Có lẽ nhờ một số người dân chống cưỡng chế để đô thị hóa Montmartre vào đầu thế kỷ XX mà khu phố vẫn giữ được nét nông thôn điểm xuyết trong cảnh quan đã thay đổi. Họ buộc phải rời đi vào những năm 1940 do tình trạng nhà xuống cấp. Montmartre có khoảng 15 cối xay gió được xây từ năm 1591 đến 1741 và hiện còn lại hai, được trùng tu, nằm ở phố Lepic. Nổi tiếng nhất và ở trên cao nhất là cối xay gió Blute-fin nằm trong khu nhà riêng nên chỉ có thể nhìn từ ngoài đường. Radet, cối xay gió còn lại thứ hai, được di chuyển đến vị trí hiện nay từ thế kỷ XIX để làm quán rượu và hiện là nhà hàng Moulin de la Galette. Riêng Moulin Rouge (Cối xay gió đỏ), quán rượu nổi tiếng với vũ điệu Cancan, được Joseph Oller và Charles Zidler cho xây năm 1889 làm tụ điểm giải trí. Quá trình phát triển của Montmartre và Moulin Rouge gắn chặt nhau suốt thế kỷ XX và được tái hiện trong bảo tàng : “Bảo tàng dành riêng một gian trưng bày về quán rượu Moulin Rouge nổi tiếng với một đoạn trích trong phim French Cancan (Điệu nhảy cancan của Pháp) của Jean Renoir. Ngoài ra còn có rất nhiều ảnh của những vũ nữ nổi tiếng. Họ có bưu thiếp riêng, in hình họ, để bán hoặc tặng cho người hâm mộ vì đó cũng là những nghệ sĩ tài hoa, quyến rũ. Bên cạnh đó còn có Quảng trường Pigalle. Còn trong tấm áp-phích của Toulouse-Lautrec, có thể thấy Cối xay gió Đỏ (Moulin Rouge)”. Ngoài những điểm quá nổi tiếng, như Nhà thờ Thánh Tâm Sacré-Coeur, nhà thờ Saint-Pierre, Quảng trường Tertre với những quán cà phê và họa sĩ dạo dưới bóng cây tiêu huyền, bà Saskia Ooms gợi ý một số điểm quyến rũ nhưng không đông người : “Trước tiên là khu vườn của bảo tàng Montmartre, được coi là chốn thanh bình, rất hiếm ở Paris và rất đặc biệt nhờ quán Café Renoir, nơi khách tham quan có thể nhâm nhi từng khoảnh khắc hạnh phúc. Tiếp theo là khu phố Abbesse, rất quyến rũ với quảng trường cùng tên và nhà thờ tuyệt đẹp ngay cạnh. Rồi còn có những con ngõ, con phố nhỏ, như phố Chevalier de la Barre, phố Lepic, công viên Marcel Bleustein-Blanchet ở ngay sau Nhà thờ Thánh Tâm, vườn hoa Clignancourt, hay vườn hoa Suzanne Buisson ẩn mình giữa đại lộ Genet và phố Simon Dereure. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tuyệt vời của Montmartre. Du khách có thể cảm nhận được không khí hư ảo trong khu phố tuyệt vời này”.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Sinh ra tại Áo, thành danh tại Đức, Romy Schneider (1938-1982) đã cùng với những đạo diễn lừng danh nhất thế giới để lại dấu ấn của một thời đại trong làng nghệ thuật thứ 7. Bốn mươi năm sau ngày qua đời, « Romy » vẫn là biểu tượng của những người phụ nữ quý phái nơi kinh đô ánh sáng, của những trái tim đa tình. Với Romy Schneider, Paris là điểm khởi đầu của một mối tình « trẻ mãi không già ». Mùa hè năm 1968, Alain Delon tại phi trường Nice, đợi đón nữ diễn viên Romy Schneider. Delon nói ông hồi hộp trước phút hội ngộ. Mười năm đã trôi qua từ ngày họ gặp nhau lần đầu cũng tại một sân bay, nhưng đấy là phi trường Orly, phía nam thủ đô Paris. Năm 1958, Romy 19 tuổi, đã là một minh tinh màn bạc, nổi tiếng khắp châu Âu nhờ vai diễn hoàng hậu của vương quốc Áo Sissi. Alain hơn nàng 3 tuổi, vừa giải ngũ, từ chiến trường Đông Dương trở về. Delon mới chập chững bước vào thế giới nghệ thuật. Alain và Romy cùng đóng phim Christine, của đạo diễn Pierre Gaspard Huit. Christine đã chìm vào quên lãng, nhưng bộ phim đó là một khúc quanh trong cuộc đời và sự nghiệp của cả Romy Schneider lẫn Alain Delon. Romy là « con nhà nòi » trong thế giới nghệ thuật sân khấu của Áo và Đức. Còn Alain khi đó là một chàng lãng tử, bụi đời, với mặc cảm ít học thức. Paris của Delon khi đó không phải là Saint Germain des Près, nơi giới trí thức lui tới. Alain là người của những khu phố xô bồ, nhộn nhịp với cuộc sống về đêm như Pigalle. Tháng Giêng 1959, bộ phim ra mắt công chúng lần đầu tiên tại Bruxelles : Romy Schneider lộng lẫy và hạnh phúc xuất hiện bên Alain Delon. Thilo Wydra, nhà báo Đức và cũng là tác giả cuốn Eine Liebe in Paris-Romy und Alain - Tình Yêu ở Paris Romy và Alain kể lại lễ đính hôn ngày 22/03/1959 : « Lễ đính hôn tổ chức bên bờ hồ Lugano là một sự kiện lạ lùng. Magda, mẹ của Romy tổ chức tất cả. Nhưng cho đến tận giờ chót, không ai biết là Alain Delon có đến hay không. Ngay cả Romy Schneider cũng không biết là vị hôn phu có lỡ hẹn với cô và gia đình, bạn bè thân thiết hay không. Với Alain, Romy biết được một điều đó là không bao giờ có thể trông cậy vào cậu tài tử đẹp trai đó. Alain Delon đã bắt mọi người chờ đợi, bắt cả Romy phải sốt ruột đợi mình. Nhưng cuối cùng, anh cũng đến ! ». Công luận Đức phẫn nộ, ví mối tình của cặp Delon - Schneider như « bông hoa nhài cắm… », nhiều người xem việc Romy đi lấy chồng xứ lạ như một sự phản bội. Bỏ mặc những tiếng thị phi, Romy Schneider và Alain Delon xây tổ ấm cách Paris khoảng một giờ lái xe, rồi họ dọn về ở ngay giữa lòng kinh đô ánh sáng. Romy và Alain rạng ngời bên nhau tại Liên hoan điện ảnh Cannes, che khuất cả những ngôi sao màn bạc của thế giới như Sophia Loren, Grace Kelly… Ngôi sao lúc tỏ lúc mờ Đầu thập niên 1960, sự nghiệp của Alain Delon bắt đầu cất cánh. Những tên tuổi của làng điện ảnh lúc bấy giờ, như đạo diễn Ý Luchino Visconti, hay Henri Verneuil, René Clément... của Pháp mời Delon đóng phim. Romy Schneider từ một ngôi sao điện ảnh hàng đầu của Đức đã lùi vào bóng tối. Cô đi cùng Alain đến phim trường, lặng lẽ như một chiếc bóng. Không một đạo diễn Pháp nào chú ý đến cô gái tóc vàng từ xứ sở của Goeth sang làm dâu kinh đô Paris. Họa hoằn lắm, Romy mới được trao một vai diễn phụ. Mùa hè 1960, Alain Delon giới thiệu Romy với đạo diễn Ý Visconti. Ông tuyển cô vào diễn chung với Delon trên sân khấu trong vở kịch nổi tiếng của văn học Anh 'Tis Pity She's a Whore với cái tên được dịch sang tiếng Pháp là Dommage qu'elle soit une putain, nói về một mối tình giữa hai anh em ruột để rồi cả đôi nhận lấy hồi kết thảm khốc. Romy tỏa sáng trên sân khấu và thế là ông phù thủy của làng điện ảnh Ý Luchino Visconti đã mời cô cộng tác tiếp trong bộ phim Boccace 70. Giai đoạn 1961-1962, Romy khá thành công trên sân khấu kịch nghệ với Chim Hải Âu của Chekov. Romy Schneider chắp cánh bay xa : cô được mời đóng phim tại Mỹ với những tên tuổi lừng danh như Orson Welles trong The Trial - Vụ Án, lấy từ tác phẩm cùng tên của văn hào Franz Kafkaz. Năm 1962, đạo diễn Alain Cavalier mời Romy Schneider tham gia phim Le Combat dans l'ile. Trong tác phẩm này, Romy đóng vai Anne, một phụ nữ Pháp với sự đam mê và một bầu nhiệt huyết lạ thường, một nhân vật rất phức tạp bị giằn vặt giữa ý chí chính trị, tình yêu. Gần nửa thế kỷ sau, Cavalier hồi tưởng lại về Romy : « Cô bé người Áo đó từng thành danh trong làng điện ảnh nhờ những phim tình cảm ngọt ngào lấy bối cảnh là thành Vienna. Thế rồi cô ấy đến trường phim để nhập vai một người đàn bà Pháp và phải công nhận là Romy đã rất dễ dàng thuyết phục tất cả đoàn làm phim. Romy Schneider vào vai diễn với tất cả sự tinh tế và thông minh của riêng cô ấy, với thái độ rất tự nhiên… Thực sự, đây là một điều tuyệt vời và rất đáng nể phục ». Nhà sản xuất phim Alain Terzian, một mối thâm giao với Romy Schneider, từng cộng tác với nữ minh tinh màn bạc người Đức này cả chục lần cũng đồng quan điểm : « Romy Schneider là hiện thân của một người đàn bà Pháp lý tưởng. Điều lạ lùng, là không ai thể hiện vai diễn của người phụ nữ Pháp tinh tế hơn, sâu sắc hơn là một nữ diễn viên mang hai dòng máu của Áo và Đức ». Alain Delon và Romy Schneider rất bận rộn với các dự án làm phim. Delon thường xuyên vắng nhà. Romy ký hợp đồng với các hãng phim Mỹ, lọt vào mắt xanh của đạo diễn nổi tiếng Orson Welles. 1963, sự đổ vỡ và điểm khởi đầu Mệt mỏi và cũng thất vọng vì cung cách làm phim của Hollywood, năm 1963, Romy bỏ cuộc chơi, quay lại Pháp vào lúc rộ lên hình ảnh một cô gái nẩy lửa luôn xuất hiện bên Alain Delon. Ngày trở về, Romy nhận được lá thư từ hôn và một đóa hồng đỏ thắm. Chia tay với Delon, với Paris, Romy trở lại Berlin. Cô nhanh chóng kết hôn với nhà soạn kịch Harry Meyen và sinh cậu con trai đầu lòng, David. Romy Schneider vui với vai trò làm vợ, làm mẹ. Sân khấu, phim trường và hình ảnh của Alain nhạt dần. Năm 1968, Romy Schneider kể lại : Alain Delon điện thoại cho bà và đề nghị Romy cùng diễn trong phim La Piscine của đạo diễn Jacques Deray. Nam diễn viên người Pháp trên đỉnh cao danh vọng xác nhận chính ông đã áp đặt với đoàn phim vai nữ Marianne phải do Romy Schneider đảm nhiệm. Delon ra tối hậu thư và đã được toại nguyện. Mùa hè 1968, Alain và Romy hội ngộ trên bầu trời điện ảnh, gần 10 năm sau cuộc gặp gỡ ban đầu. Họ tình tứ, thân mật, tự nhiên như thể con tim chưa một lần nhỏ máu. Trước ống kính của Deray, đôi bạn diễn ăn ý với nhau : không còn biên giới giữa cặp Alain - Romy ngoài đời với đôi tình nhân Jean Paul - Marianne trong phim. Họ mất nhau để rồi tìm thấy được một tình yêu mới. Ngoài mong đợi, Bể Bơi - La Piscine là cánh cổng mở ra hơn một thập niên Romy Schneider tỏa sang trên bầu trời nghệ thuật. Năm 1970, bà cộng tác với Claude Sautet trong phim Les Choses de la Vie, rồi đi từ thành công này đến thành công khác với những tác phẩm như là Max et les Ferrailleurs, César et Rosalie, Le Train, L'important c'est d'aimer, Clair de femme… Romy đã tham gia hơn 60 bộ phim, cộng tác với những đạo diễn bậc thầy trong làng điện ảnh, diễn chung với những nam tài tử nổi tiếng một thời. Trái tim đa tình của Romy đã dành một chỗ đứng riêng biệt cho mỗi người đàn ông đi qua đời bà. Vũ điệu cuối cùng Ngoài đời, Alain Delon và Romy Schneider vẫn thường xuyên gặp lại nhau, khi nơi phim trường, lúc trong các buổi tiếp tân ra mắt phim… Nhà sản xuất Alain Terzian kể lại một lần, các ngôi sao điện ảnh Pháp họp nhau ở hộp đêm nổi tiếng của Paris, năm 1980 : « Tất cả những ngôi sao điện ảnh Pháp lúc bấy giờ đều có mặt đêm hôm đó, có Romy Schneider, Yves Montand, Lino Ventura... Mọi người họp nhau, ăn uống, nhạc xập xình tại hộp đêm Chez Régine. Thế rồi Romy kéo tôi lại, bảo rằng cô muốn khiêu vũ với Alain. Làm công tác giao liên, tôi nhắn lời lại với Delon. Anh đứng lên, yêu cầu cho chơi bản Stranger in the Night của Frank Sinatra. Anh đã mời Romy ra sàn nhẩy. Mọi người lui cả vào bóng tối. Chỉ còn lại có Alain và Romy. Họ quấn lấy nhau, như mối tình học trò, như hai người tình từ muôn thuở, họ thực sự yêu nhau tha thiết. Họ hôn nhau như những ngày đầu. Mireille Darc, người bạn đời của Alain Delon cũng có mặt đêm hôm ấy. Mọi người nín thở. Chỉ có tiếng nhạc và bước nhảy của Romy với Alain mà thôi ». Ngày vui qua mau. Bước sang thập niên 1980, chồng thứ nhất của Romy Schneider là nhà soạn kịch Harry Meyen tự vẫn. Romy chia tay với người chồng thứ nhì là Daniel Biasini năm 1981, cùng năm David, cậu con trai của Romy 14 tuổi, chết trong điều kiện thảm khốc. Romy Schneider bị đẩy xuống vực thẳm, bà bị đẩy xa khỏi dòng đời để không bao giờ quay lại được vào bờ. Ngày 29/05/1982, các đài truyền hình loan tin Romy Schneider không còn nữa. Một nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn vĩnh viễn ra đi, bà mới 43 tuổi. Hay tin dữ, 5 giờ rưỡi sáng hôm ấy, Alain Delon cùng với nhà sản xuất Terzian đã đến ngay căn hộ của Romy ở quận 7 Paris. Họ đã bước vào phòng ngủ của người tình Alain Delon chưa bao giờ cưới. Delon đã ngồi lại bên Romy. Ông đã khóc, khóc rất nhiều. Hàng giờ sau, Magda Schneider, mẹ của Romy bước vào phòng. Bà ôm lấy Alain Delon. Terzian kể lại, giây phút đó, ông biết rằng, dù không lên xe hoa, Alain và Romy đã nặng nghĩa vợ chồng. Alain Delon một mình lo liệu tang lễ cho Romy Schneider. Trong 24 năm đồng hành, trên đất kinh kỳ của Paris, Alain và Romy đã gặp nhau, họ yêu nhau, vô tình hay cố ý họ gây thương tích cho nhau. Họ chia tay nhưng chưa bao giờ lìa xa nhau. Dù là người rũ áo ra đi, Alain Delon đã cùng sánh vai Romy Schneider đi rất xa trên con đường nghệ thuật và cũng chính ông đưa hoàng hậu Sissi đi đến điểm tận cùng cuộc đời.

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Với những bộ phim thuộc thể loại giật gân – kinh dị xác thịt thì nền Điện Ảnh Pháp như là một cánh đồng màu mỡ để nuôi dưỡng những hạt giống đặc biệt nảy mầm. Một nền điện ảnh không quá câu nệ viêc sử dụng hình ảnh mang tính dục hay bạo lực hay không, miễn sao đem lại cho khán giả những điều mới mẻ, những thông điệp nhân văn và trên tất cả là sự thật trần trụi phơi bày miền sâu thẳm u tối nhất của con người. Bởi thế cho nên, khi “Titane” ra mắt tại Cannes năm 2021, nó đã tạo nên ngay lập tức một làn sóng tích cực từ những nhà phê bình khó tính nhất và nữ đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Julia Ducournau đã trở thành người phụ nữ thứ hai trong lịch sử đoạt giải Cành cọ vàng và là người phụ nữ đầu tiên một mình đoạt danh hiệu này. Phải nói rằng “Titane” không phải là một bộ phim dễ đoán và dễ chấp nhận, thậm chí nhiều luồng khán giả đã cho rằng phải xem tới lần thứ ba thì mới hiểu được hết những tầng ý nghĩa dày đặc mà Julia bày biện ra. Truyện phim kể về Alexia, một cô bé sau khi bị tai nạn xe hơi đã phải trải qua cuộc phẫu thuật để đời và phải gắn một chiếc đĩa titan vào đầu. Từ đây, cuộc đời Alexia thay đổi hoàn toàn, cô có tình cảm đặc biệt và gắn bó với những chiếc xe hơi hơn là con người, kể cả với gia đình của mình. Lớn lên, Alexia làm nghề vũ công sexydance tại hội chợ triển lãm xe cổ, đồng thời, cô trở thành kẻ giết người hàng loạt máu lạnh. Con người hay sắt thép có Tình? Bộ phim gần như được chia làm hai giai đoạn rõ ràng, phần đầu khi Alexia là một cô gái trẻ hấp dẫn nhảy múa bên những chiếc xe hơi cổ một cách khêu gợi với biết bao người hâm mộ xin chữ kí mỗi đêm và phần sau khi cô trở thành Adrien – cậu trai bị thất lạc 10 năm gầy gò xanh xao câm lặng của ông bố lính cứu hỏa già cỗi. Mỗi phần lại mang trong nó cảm giác hoàn toàn khác, giống như người ta đang ở trên một hoang mạc khô mục vô nhân tính rồi lại vô tình rơi xuống vùng đất xanh mát rười rượi lá hoa của tình người dù vẫn còn biết bao cay đắng. Cái thế giới vây quanh Alexia của phần đầu phim hoàn toàn lạnh nhạt và nghiệt ngã. Con người giống như những cỗ máy không hơn, đầy vô cảm, bạc bẽo và ngập trong nhục dục. Hình ảnh người mẹ hiện lên vô cùng mờ nhạt, chỉ ở hai phân đoạn, một là lúc cô bé được xuất viện với chiếc đĩa Titane trên đầu và hai là lúc Alexia đã lớn, nhận được một nụ hôn phớt qua vào buổi sáng khi cô than đau bụng. Còn người cha, là một bác sĩ, một người có học và có địa vị trong xã hội nhưng chưa bao giờ thể hiện tình cảm với con gái. Họ như ba người khác nhau dưới một mái nhà, không có bất cứ một sự gắn kết nào. Không thể tìm thấy tình yêu thương trong gia đình, bên ngoài môi trường làm việc lại đầy rẫy những xúc cảm hối hả của những lạm dụng, những luyến ái mơ hồ, những đụng chạm xác thịt bần tiện và dơ bẩn, Alexia dần lạc lối, mỗi lúc một đi xa hơn và hoàn toàn không có lối thoát. Cô trở thành kẻ giết người hàng loạt không ghê tay, từ những người khách lạm dụng cô, cho tới đồng nghiệp, cho tới cả những người vô tình chứng kiến cô giết người… Nữ đạo diễn Ducournau không hề đi tìm cách lí giải cặn kẽ lý do tại sao Alexia lại hành xử như vậy. Chỉ bằng một câu thoại đơn giản sau khi cô gái trải qua cuộc phẫu thuật và bác sĩ nhắc nhở cha mẹ cô “nên chú ý tới những thay đổi tâm lí”. Liệu có phải bà đang cố nói với người xem rằng xã hội hiện đại đang dần biến con người thành những cỗ máy vô chi mà ở đó, người ta chẳng thể tìm cho ra một lí do chính đáng để trở nên xấu xa hơn? Người ta cứ thế sống, bị quăng quật và bị biến chất như bản chất cuộc sống, sẵn sàng giết những kẻ mình ghét, thậm chí thiêu sống cả cha của mình? Người ta sẵn sàng yêu một cái xe ô tô vô chi nhưng là một cái xe ô tô biết yêu và âu yếm không vụ lợi? Sức mạnh của sự cảm thông Alexia chạy trốn khỏi thế giới mà cô đang sống, cái thế giới mơ hồ giữa người và máy, giữa yêu và ghét, giữa cảm thông và căm hờn để rớt vào thực tại khác với Vincent, người đàn ông đã thất lạc con trai suốt 10 năm qua. Ban đầu, cô chỉ định chạy trốn khỏi tội lỗi do mình gây ra, cô tìm cách đóng giả thành Adrien – con trai của Vincent – để có một nơi chốn an toàn hơn cho cô và cho cái thai, kết quả của tình yêu giữa cô và chiếc ô tô cổ. Nhưng rồi, bên ngoài vùng đất đen tối kia hóa ra vẫn còn một nơi chốn có những con người thật đang hiện hữu. Alexia bỗng cảm thấy sự đồng cảm với Vincent. Cô tìm thấy ở ông, đầu tiên, là kẻ cùng cảnh ngộ với mình, kẻ cô độc, đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần và sau đó, là cảm thấy một “người Cha” mà cô chưa bao giờ có. Trong khi Alexia đau đớn che giấu cái bụng đang lớn dần lên với những cơn ngứa ngáy nứt vỡ quằn quại đè nén thì Vincent cũng phải đối mặt với tuổi già, điều mà nghề nghiệp cứu nạn cứu hộ của ông không cho phép. Trong khi Alexia thèm khát tình yêu gia đình cháy bỏng thì Vincent cũng vật vã một mình ở lại trong căn nhà mà đâu đâu cũng có hình bóng của cậu con trai, “hơi thở của thằng bé còn bám trên những bức tường” để đợi con về. Thậm chí, khi đồng nghiệp của Vincent nhận ra sự giả dối của Alexia và ngay cả khi ông nhìn thấy thân thể nữ giới với cái bụng bầu vượt mặt của cô thì ông vẫn thốt lên rằng “dù gì con vẫn là con trai của ta”. Nỗi khát khao được tìm thấy con, được làm Cha của Vincent, sự cảm thông vô điều kiện ông dành cho Alexia đã chạm tới tận sâu thẳm lòng trắc ẩn, chạm tới chữ Người trong Alexia, đánh thức bản năng Con Người ở trong kẻ máu lạnh tưởng như đã hết tính người, để cô một lần nữa, trở thành một đứa Con mong chờ bàn tay che chở của người Cha. Lúc Alexia thốt lên “Cha đừng bỏ con, con sợ” là lúc Vincent phải dừng bước và quay trở lại nắm lấy hai bàn tay cô, giúp cô vượt cạn, ôm trong lòng sinh linh bé bỏng nửa người nửa máy, là tình cảm con người thiêng liêng, là sự cảm thông đã hồi sinh phần Người của Alexia. Không ít một lần Alexia đã định giết Vincent bằng cây trâm cài tóc, vũ khí giết người hàng loạt của cô. Nhưng càng ở cạnh ông, Alexia càng cảm nhận được nhiều hơn, nhiều hơn rất nhiều bao năm cô chung sống cùng cha mẹ ruột của mình. Không chỉ là tình cha con, mà đó còn là tình Người, là những lúc tận tay cô được Vincent chỉ cho cách cứu sống một ai đó, sát cánh cùng ai đó, làm việc tốt cùng ai đó. Điệu Macarena được lồng ghép một cách tài tình đầy tính nhân văn khi Vincent dạy Alexia cách hô hấp nhân tạo theo nhịp của bài hát để cứu người. Đây giống như chiếc chìa khóa được tra đúng ổ, mở ra cánh cửa tâm hồn bấy lâu đã chai lạnh của Alexia. Cũng là lần đầu tiên, cô nở nụ cười với ông, nụ cười của một con người. Khi nữ quyền lên tiếng Tại sao với một bộ phim trần trụi, đầy hình ảnh dục tính bạo liệt, đầy những cảnh bạo lực giết người bằng trâm cài tóc, bằng ghế … không hề che giấu lại có thể đem đến cho khán giả những chua xót, day dứt, thậm chí cả cảm thông và thấu hiểu đến thế? Cái tài tình của Ducournau trong “Titane” là ở đó. Dưới bàn tay của bà, những tình huống ghê rợn bỗng ẩn sau nó những lấp lánh riêng mang tầng ý nghĩa lớn lao và tính nhân văn mạnh mẽ. Người ta hình dung ra màn lớp lang được sắp xếp một cách dày công đó chính là phần “nữ quyền” trong số phận của Alexia. Khi cô là một vũ công sexy dance quyến rũ, cô luôn sống trong sự lo lắng, sợ hãi, bị tấn công tình dục, bị xâm hại từ khách hàng cho tới cả đồng nghiệp. Có vẻ việc giết người vừa là biểu hiện bệnh tâm thần đồng thời là cách tự vệ mà Alexia cho là duy nhất. Nhưng khi hóa thân thành cậu trai đang lớn Adrien, Alexia hoàn toàn thoát khỏi những nỗi sợ hãi đó. Cô được sống giữa những chàng trai làm công việc cứu hộ cứu nạn khỏe mạnh, yêu đời, yêu người, vui vẻ hòa đồng. Cuộc sống hoàn toàn khác biệt trong một môi trường khác biệt dường như cũng làm Alexia dịu xuống, dù biết bao đau đớn của một cô gái mới lớn phải bụng mang dạ chửa một mình, nhưng cô bắt đầu sống thật sự với thứ tình cảm giữa Người với Người thật sự. Dù mang trong mình một cái đĩa titan, dù yêu máy móc hơn con người, dù là kẻ giết người máu lạnh, thì khi là một phụ nữ mang thai lúc còn quá trẻ, Alexia vẫn hiện lên với những lóng ngóng đáng thương, vẫn cần bàn tay giúp đỡ và sự che chở cảm thông, vẫn cần một gia đình đúng nghĩa. Thì ra, dù ở vào hoàn cảnh nào, vào thời đại nào, hay ở thế giới nào, thì con người vẫn cần có sự cảm thông và được cảm thông. Bởi chỉ có điều đó mới làm cho chúng ta khác với máy móc, mới làm chúng ta thật sự vinh danh hai chữ “con người”.

li cannes nh ban ng cha kh macarena trong julia ducournau khi truy

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Tuy thành danh khá muộn trong làng nhạc Pháp, Claudio Capéo lại thuộc vào thành phần nghệ sĩ có khá nhiều bản lĩnh về mặt biểu diễn sân khấu. Sinh trưởng tại Pháp trong một gia đình người Ý nhập cư, anh nắm vững cả hai thứ tiếng để diễn đạt khéo léo các bản tình ca song ngữ từ bài ''Ti Amo'' (Yêu em), cho tới giai điệu nổi tiếng ''L'Italiano'' từng được đặt thêm lời Việt thành bản nhạc ''Say Tình''. Năm nay 37 tuổi, nam ca sĩ Pháp sinh trưởng trong một gia đình gốc Ý, đến lập nghiệp tại vùng Alsace, gần biên giới Thụy Sĩ. Ở nhà, Claudio học tiếng Ý từ khi còn rất nhỏ, sau đó được cha mẹ cho học đàn phong cầm từ năm lên 6 tuổi. Với sự hỗ trợ của gia đình, Claudio từ thuở thiếu thời đã tham gia nhiều cuộc thi phong cầm tại nhiều thành phố châu Âu và từng đoạt giải nhân các kỳ liên hoan địa phương. Mãi đến nhiều năm sau, Claudio mới bước vào nghề ca hát do nhu cầu đi biểu diễn kiếm tiền trong các quán nhạc. Tuy có năng khiếu chơi nhạc, nhưng phần lớn cũng vì đàn phong cầm thường bị giới trẻ cho là lỗi thời, dành cho các đêm khiêu vũ ngoài trời, cho nên vào năm 16 tuổi, Claudio rẽ hẳn sang một hướng khác, anh bỏ chơi phong cầm một thời gian, chuyển sang học đàn piano và ghi ta, tham gia vào nhiều ban nhạc kể cả nhạc jazz hỗn hợp, hay nhạc rock cứng cựa mạnh mẽ theo phong cách của các nhóm metal như Led Zeppelin hay Deep Purple. Khi thợ mộc mất 10 năm để thành danh ca sĩ Để kiếm sống, Claudio theo học nghề thợ mộc. Sau ba năm đào tạo, anh ra trường với bằng cấp chuyên nghiệp và bắt đầu đi làm nuôi gia đình trong vòng 7 năm. Nhưng chưa bao giờ Claudio từ bỏ sáng tác hay chơi đàn phong cầm. Vào năm 24 tuổi, anh thành lập một ban nhạc với 5 thành viên, họ chọn nghệ danh là "Claudio Capéo". Claudio bởi vì anh là ca sĩ chính. Còn Capéo có nghĩa là chiec nón trong tiếng Ý, bởi vì các thành viên ban nhạc mỗi lần lên sân khấu biểu diễn vẫn thường đội mũ. Cả 5 thành viên đều bỏ nghề họ đang làm, để đeo đuổi nghiệp hát. Ban ngày hành nghề thợ mộc, ban đêm đi hát tại các quán nhạc, hay trong các liên hoan đường phố, nhóm Claudio Capéo đã phát hành vào năm 2010 hai album phòng thu và thường xuyên đi hát nhân các kỳ liên hoan am nhac tại Pháp. Tài nghệ biểu diễn của Claudio lọt vào mắt các nhà sản xuất chương trình giải trí. Họ khuyên anh nên ghi tên tham gia cuộc thi hát truyền hình ''The Voice'', phiên bản tiếng Pháp vào năm 2016. Mặc dù Claudio sau đó bị loại ở vòng bán kết, nhưng nhờ vào lối diễn xuất có hồn, anh lại chinh phục được cảm tình của đông đảo khán thính giả. Ngay sau khi kết thúc chương trình The Voice, Claudio ký hợp đồng ghi âm với một hãng đĩa Pháp để phát hành album phòng thu thứ ba của nhóm vào mùa hè năm 2016. Tập nhạc này giành lấy hạng nhất trên thị trường đĩa hát ở Pháp trong 5 tuần lễ liên tục, được xem như là cú đột phá đầu tiên dẫn tới sự thành công ngoạn mục của ban nhạc này. Giai điệu ''L'Italiano'' (Say Tình) trên tuyển tập tiếng Ý Thà muộn còn hơn không. Thành danh vào năm 31 tuổi, Claudio và nhóm của anh được xếp vào thể loại nhạc Pháp tân thời, hòa quyện với một chút âm thanh điện tử, tuy nhiên lối biểu diễn của nhóm trên sân khấu lại có nhiều sở trường của các nghệ sĩ đường phố, thời Claudio Capéo bắt đầu chơi nhạc ở ngoài trời, hay tại các quán cà phê vỉa hè. Chất giọng trầm khàn, tràn đầy sinh khí nội lực của Claudio giúp cho anh đủ sức để hát nhiều thể loại, nhưng trong cách ngẫu hứng luyến láy lại mang ảnh hưởng của nhạc jazz, lối hát bằng toàn bộ giọng ngực cũng mang ảnh hưởng của nhóm nhạc rock dũng mãnh của cái thuở ban đầu. Tập nhạc gần đây nhất của Claudio Capéo phát hành cuối năm 2020, tức cách đây gần hai năm, lại mang nhiều sắc thái lãng mạn trữ tình. Với tựa đề ''E Penso A Te'' (Anh lại nhớ đến em), album này cũng đánh dấu ngày Claudio Capéo trở về với cội nguồn và gia đình. Đây là lần đầu tiên anh dành trọn một album chọn lọc bằng tiếng Ý. Tính tổng cộng, có tới 17 bản nhạc Ý nổi tiếng được ghi âm lại, trong đó có một số bài là những phiên bản song ngữ Ý và Pháp. Trong lần tái bản album này vào mùa thu năm nay, Claudio Capéo đã bổ sung tuyển tập tiếng Ý của mình một số ca khúc ghi âm gần đây, trong đó có bài ''L'Italiano'' từng được tác giả Quốc Tuấn đặt thêm lời Việt thành bản nhạc ''Say Tình''. Trong lần xuất bản đầu tiên, album không có nhạc phẩm ''L'Italiano''. Bản L'Itialiano (nguyên tác của Toto Cutugno) từng được đặt lời tiếng Pháp, nhưng lần này, Claudio Capéo soạn thêm nhiều ca từ mới, lái nội dung bài hát sang một hướng khác, anh dùng câu chuyện riêng của gia đình, của bố mẹ anh để nói lên tình cảm gắn bó đậm đà của những người Ý (vì một lý do nào đó) phải sống xa nhà. Có thể nói là album song ngữ này giúp cho ca sĩ Pháp hé lộ trái tim, mở cửa tâm hồn của một đứa con người Ý. Tuy khác nhau trong cách phát âm, nhưng cả hai thứ tiếng Pháp cũng như Ý đều được xem là rất lãng mạn, nếu không nói là ngôn ngữ lý tưởng để diễn đạt bao niềm yêu thương.

voice cap led zeppelin nh claudio ban deep purple sau alsace trong thevoice sinh khi tuy giai ngay

Đánh giá phim loves whirlpool hơn cả đam mê 2023

Amiens, thành phố nhỏ miền bắc nước Pháp, cách Paris chỉ một giờ tàu, nổi tiếng với nhà thờ lớn 800 năm tuổi, được xây theo phong cách gothique và thuộc hàng lớn nhất nước Pháp. Cách không xa nhà thờ lớn Amiens là khu vườn nổi Hortillonnages, được UNESCO xếp hạng Di sản năm 1991. Đến Amiens vào một ngày hè nắng đẹp, từ khu phố cổ có nhà thờ lớn nổi tiếng, những ngôi nhà ống nhỏ xinh, tường sơn màu « bắt mắt », nằm san sát, chỉ rảo vài bước chân là chúng tôi đến khu vườn nổi được hình thành và tồn tại từ thời Trung cổ đến nay. Khu vườn độc đáo có tên gọi « Hortillonnages d'Amiens ». Để ngắm nhìn trọn vẹn nhất nét duyên dáng, xinh xắn cũng như để có thể cảm nhận rõ nét phong phú của thảm động thực vật trong khu vườn nổi, chúng tôi chọn tour tham quan bằng thuyền do « Hiệp hội bảo vệ và bảo tồn di tích và môi trường Hortillonnages » tổ chức. Đây là những con thuyền kiểu truyền thống (barque à cornet) thon dài, đáy thuyền bằng phẳng, nhưng hai mũi thuyền nhô cao để tránh va đập, làm hỏng bờ đất. Xưa kia loại thuyền này được dùng để chuyên chở rau và trái cây trên các lạch nước. Ngồi trên con thuyền sơn màu xanh lá cây thẫm, hòa với màu của cỏ cây, lướt nhẹ trên dòng nước uốn lượn giữa các khu vườn, chỉ một lát thôi là du khách không còn nhìn thấy những mái nhà nhấp nhô, bóng hình và tiếng ồn ào của xe cộ cũng lùi dần, xung quanh chỉ còn tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền, tiếng chim hót. Lướt qua hai bên bờ là những khu vườn nhỏ được trang trí xinh xắn, mỗi vườn mỗi vẻ, được trang trí theo phong cách riêng của từng chủ vườn. Trả lời RFI tiếng Việt, ông Florent Prudhomme, giám đốc Hiệp hội bảo vệ và bảo tồn di tích và môi trường Hortillonnages, giới thiệu về lịch sử của khu vườn nổi có từ thời Trung cổ : « Cách nay nhiều năm, trên thực tế, đây là một không gian đầm lầy rộng 300 ha nằm ở phía đông thành phố Amiens và cả trên phần đất của các xã Rivery, Camon và Longueau được quy hoạch từ thời Trung Cổ, có thể là từ thế kỷ 12. Từ « hortillonnages » là từ phái sinh của từ « hortillon », trong phương ngũ Picard có nghĩa là « khu vườn nhỏ ». Khu vườn « Hortillonnages » có khoảng từ 700 năm nay, nhưng ngày nay do đô thị hóa, chỉ còn lại 300 ha vườn so với 10.000 ha ban đầu. Hiện nay, đa phần diện tích vườn Hortillonnages đã được chuyển đổi thành các khu vườn trồng cây cảnh riêng của các cá nhân, hoặc trở thành nơi nghỉ ngơi cuối tuần cho một số người, để họ và gia đình thư giãn vào cuối tuần. Chỉ có rất ít người có thể sinh sống ở Hortillonnages, bởi không có điện, không có đường dẫn nước sạch, nên ở đó họ chỉ có thể làm vườn hoặc dành làm nơi nghỉ ngơi với gia đình vào các ngày nghỉ cuối tuần. Các mảnh vườn thuộc về tư nhân, thế nhưng thành phố Amiens cũng có thể từ chối việc bán vườn cho các cá nhân, mục đích là tạo cơ hội cho những người làm nghề trồng rau mua được đất vườn để làm nghề. Còn các lạch nước thì một số là của tư nhân, một số khác là thuộc sở hữu công. Quý vị có thể đến thăm vườn Hortillonnages bằng cách đi bộ dọc theo đường Chemin du Halage, hoặc quý vị có thể đi tham quan bằng xe đạp, hay thuyền kayak, nhưng tất nhiên, theo tôi thì cách thú vị nhất để đi tham quan vườn Hortillonnages là đi thuyền (barque). Hiệp hội bảo vệ, bảo tồn vườn Hortillonnages của chúng tôi có dịch vụ chở khách đi tham quan bằng thuyền 6 tháng trong năm, từ tháng Tư cho đến cuối tháng Mười. Sẽ có một người chèo thuyền đưa quý vị đi tham quan, trong chuyến thăm đó, họ sẽ kể cho du khách nghe các câu chuyện về khu vườn Hortillonnages thưở trước đây. Chuyến tham quan bằng thuyền kéo dài 45 phút ». Du lịch và bảo tồn Hôm chúng tôi đến Amiens là ngày cuối tuần, các đoàn khách đến tham quan vườn nổi bằng thuyền rất đông. Đầu buổi chiều, chưa đến giờ mở cửa mà đã có hàng dài người xếp hàng chờ đến lượt. Trung bình, hàng năm những chuyến dạo chơi bằng thuyền của Hiệp hội bảo vệ và bảo tồn di tích và môi trường Hortillonnages phục vụ được 130.000 du khách. Buổi trưa, các chuyến dạo chơi bằng thuyền tạm ngưng, cũng là một cách thể hiện sự tôn trọng thời gian nghỉ ngơi của các chủ vườn. Thế nhưng, giám đốc Florent Prudhomme nhấn mạnh là tổ chức các chuyến tham quan không phải là mục đích chính của Hiệp hội bảo vệ và bảo tồn di tích và môi trường Hortillonnages : « Tôi xin nói rõ một chút về mục đích của hiệp hội : Chúng tôi không phải là hiệp hội hoạt động trong lĩnh vực du lịch, mục đích chính của hiệp hội chúng tôi là bảo vệ và bảo tồn khu vườn bởi Hortillonnages không phải được hình thành tự nhiên, mà là một địa điểm do con người tạo ra. Amiens có một dòng sông chảy qua, đó là sông Somme. Khi mực nước sông Somme dâng lên, những người làm vườn thời xưa đã đào những kênh rạch nhỏ, họ đắp đất vườn cao lên, dần dần khu vườn nổi Hortillonnages được hình thành. Những điều mà chúng tôi có thể làm để bảo tồn khu vườn là be đắp bờ, chúng tôi sẽ cùng với các chủ vườn đắp kè, cải tạo bờ kênh. Việc này sẽ giúp dòng chảy của nước được thông suốt, bảo đảm không có nhiều sóng nước ở các kênh lạch. Mục đích của hiệp hội thực ra là thông qua việc tổ chức các chuyến tham quan bằng thuyền để tạo nguồn thu giúp các chủ vườn có tiền cải tạo, be đắp bờ kênh. Có thể nói là việc công chúng được tham quan vườn nổi và công tác cải tạo, bảo tồn khu vườn tạo thành một vòng tròn liên hệ. Hiệp hội của chúng tôi là hoàn toàn độc lập với Nhà nước về tài chính, chúng tôi không phụ thuộc vào bất kỳ khoản trợ cấp nào. Điều đó có nghĩa là trong thực tế, chúng tôi phải có một phương tiện tài chính để thực hiện mục tiêu bảo tồn vườn, hỗ trợ các chủ vườn be đắp bờ và các chuyến thăm quan mà chúng tôi tổ chức trong vòng 6 tháng mỗi năm sẽ giúp chúng tôi thực hiện mục tiêu đó. Khu vườn Hortillonnages d'Amiens đã được Unesco xếp hạng Di sản thế giới và hiệp hội của chúng tôi được công nhận là một hiệp hội có tính hữu ích ». Cuộc dạo chơi bằng thuyền của chúng tôi kéo dài 45 phút, chỉ có thể thưởng ngoạn được một phần rất nhỏ trong tổng số 300 ha vườn, 65 km kênh rạch, nhưng ấn tượng khi được hòa bình vào tự nhiên, cảm nhận sự bình yên nơi sự giao hòa giữa đất trời, cây cối, vườn tược và những lạch nước, là không ít … Tuy nhiên, khi khách du lịch đến quá đông, nhiều dịch vụ tổ chức tham quan thiếu sự quản lý bùng nổ cũng gây tác hại tới khu vườn. Giám đốc Hiệp hội bảo vệ và bảo tồn di tích và môi trường Hortillonnages giải thích : « Những rủi ro, nguy cơ ngày nay đến từ du lịch. Ngày càng có nhiều nhà cung cấp dịch vụ du lịch đưa khách đi tham quan Hortillonnages bằng thuyền, trong khi hiện giờ vẫn chưa có các quy định cụ thể về các hoạt động này. Ai cũng có thể đi tham quan bằng thuyền, vấn đề là, dưới góc độ quản lý, họ đang tạo ra những hoạt động du lịch quá mức. Điều này ngày càng gây phiền phức cho các chủ vườn. Không phải chủ vườn nào cũng muốn trông thấy những con thuyền cứ lướt qua khu vườn của họ. Một vấn đề khác là việc có quá nhiều thuyền đi lại trên kênh rạch khiến các lạch nước ngày càng tích tụ nhiều bùn. Cuối cùng, đã có nhiều chủ sở hữu muốn bán vườn đi, đất bị bỏ hoang. Vì thế, theo tôi, chính quyền thành phố Amiens cần có những quy định đối với các nhà cung cấp dịch vụ du lịch đi thuyền tham quan Hortillonnages. Nếu không thì rồi sau này các thế hệ con cháu chúng ta chắc sẽ không thể có cơ hội được thưởng ngoạn khu vườn nổi Hortillonnages tuyệt đẹp này ». Khi lịch sử được tái hiện Nhìn lại lịch sử, trong suốt một thời gian dài, Hortillonnages từng là nơi trồng và cung cấp rau và trái cây cho dân người Amiens. Theo Le Figaro, cho đến đầu thế kỷ 20, vẫn còn khoảng 1000 khu vườn chuyên trồng rau. Nay cùng với đô thị hóa, khu vườn thu hẹp lại chỉ còn 300ha, và cũng chỉ còn khoảng chục vườn chuyên canh tác rau, khai thác khoảng 1/10 diện tích khu vườn. Hiện nay, rau và trái cây được trồng và thu hoạch từ Hortillonnages d'Amiens vẫn được bán vào sáng thứ Bảy hàng tuần tại quảng trường Parmentier ở khu phố Saint-Leu. Và đến Chủ Nhật thứ ba trong tháng Sáu, những người trồng rau lại khoác lên người bộ trang phục truyền thống, chèo thuyền đến ke Bélu để bán rau quả, tái hiện lại quanh cảnh chợ nổi thời cha ông xưa kia bán rau và trái cây thu hoạch từ khu vườn được gọi là « mảnh đất được các thánh ban phước ». Nếu quan tâm đến lịch sử vườn nổi và nghề trồng rau ở Hortillonnages thời trước, du khách cũng có thể đến thăm bảo tàng Hortillonnages ở Rivery. Hàng năm, Hortillonnages cũng tổ chức Liên hoan vườn quốc tế. Năm nay, Liên hoan kéo dài đến ngày 16/10. Cũng vào năm nay, Hortillonnages đã được đề cử vào danh sách bình chọn nổi tiếng « Công trình yêu thích của người dân Pháp » (vòng 1) của Stéphane Bern trên kênh truyền hình Nhà nước France 3. Kết quả bình chọn chung cuộc dự kiến được công bố vào tháng 09, dịp Ngày Di Sản Châu Âu.