Đảng Cộng sản Đông Dương xác định tính chất của cuộc kháng chiến chống Pháp là gì

Mục lục

Hoàn cảnh

Thời Pháp thuộc

Bài chi tiết: Pháp thuộc

Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào Cảng Đà Nẵng trong Trận Đà Nẵng [1858-1859] và Trận Đà Nẵng [1859-1860] và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng Sài Gòn và 3 tỉnh lân cận cho Pháp. Năm 1869, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh kế tiếp để tạo thành thuộc địa Cochinchine [Nam Kỳ]. Đến năm 1885, Pháp xâm chiếm xong những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Bằng các hiệp ước khác nhau, Pháp chia Việt Nam thành 3 phần Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam Kỳ với chế độ chính trị, hệ thống luật pháp và bộ máy hành chính khác nhau. Pháp trực tiếp cai trị Nam Kỳ, trong khi "bảo hộ" Bắc kỳ và Trung kỳ [nơi triều đình nhà Nguyễn vẫn tiếp tục "cai trị"].[22]

Quân Pháp tấn công quân Thanh ở Lạng Sơn

Việt Nam không còn là 1 quốc gia độc lập, trở thành chế độ quân chủ nửa thuộc địa, phải phụ thuộc vào Pháp. Bằng các hiệp ước ký với triều Nguyễn, Việt Nam bị người Pháp chia thành 3 Kỳ [Nam Kì, Trung Kì, Bắc Kì] với các chế độ chính trị, bộ máy hành chính và hệ thống luật pháp khác nhau. Do các ràng buộc trong những Hiệp ước đã ký với nhà Nguyễn, Pháp không xây dựng 1 hình thức nhà nước dân chủ tại Việt Nam mà nhà Nguyễn vẫn tồn tại với các thành viên hoàng gia, quý tộc, quan lại... Người Pháp kiểm soát hoạt động của triều đình nhà Nguyễn thậm chí còn can thiệp vào việc bổ nhiệm nhân sự của nhà nước này. Nhà Nguyễn mất uy tín chính trị, vương quyền không còn là yếu tố đoàn kết quốc gia như các nước quân chủ khác trên thế giới[23]. Người Pháp độc chiếm mọi quyền lực kinh tế - chính trị - quân sự tại Việt Nam. Họ chỉ chấp nhận cho người bản xứ tham gia vào bộ máy hành chính và nền chính trị ở mức độ tối thiểu và ban cho các chính quyền bản xứ 1 ít quyền lực hạn chế.[24] Chế độ bảo hộ của Pháp đã biến người Việt thành những nhân viên hành chính cấp thấp chỉ biết thừa hành một cách thụ động, thiếu sáng tạo còn quyền lãnh đạo nằm trong tay người Pháp[25][26]. Trong các cơ quan hành chính và các công ty tư nhân người châu Âu luôn được trả lương cao hơn người bản xứ.[26] Họ hạn chế các quyền tự do chính trị của dân bản xứ như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội. Họ duy trì 1 hệ thống cảnh sát chính trị để kiểm soát dân chúng, lập ra nhiều nhà tù để giam cầm những người chống Pháp. Người Pháp làm ngơ trước mọi yêu cầu cải cách của người bản xứ.[27] Những phong trào văn hóa, xã hội có mục tiêu nâng cao dân trí, cải cách xã hội của người Việt đều bị theo dõi và đàn áp.

Lễ phát huân chương cho quan lại Việt Nam thời Pháp thuộc.

Trong chính quyền thuộc địa, tri thức, tài năng, đạo đức không được xem trọng bằng sự trung thành và phục tùng đối với người Pháp. Thuật lãnh đạo không được truyền lại, khả năng lãnh đạo quốc gia của người Việt bị thui chột, đạo đức và năng lực của giới công chức nhà nước người Việt suy đồi. Người Pháp không có ý định trao trả độc lập cho người Việt nên họ không đào tạo một tầng lớp tinh hoa người Việt đủ sức lãnh đạo, quản trị quốc gia.[25] Đa số người Việt thiếu trưởng thành về mặt chính trị do bị loại ra khỏi đời sống chính trị quốc gia cùng chính sách ngu dân của người Pháp[28]. Nhà vua mất vai trò là người quyết định và giám sát tối cao mọi hoạt động nhà nước còn người Pháp không có những biện pháp hữu hiệu chống tệ quan liêu, tham nhũng, cường hào ác bá[29].

Người dân thuộc địa mất liên kết với nhà nước, bất mãn với cách cai trị của người Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Chỉ 1 nhóm nhỏ quan chức tham nhũng trục lợi bằng cách phục vụ cho Pháp cảm thấy thỏa mãn còn đa số dân chúng thuộc mọi tầng lớp cả viên chức nhà nước cũng như người bản xứ đều bất mãn. Người Việt không thể hy vọng vào những cải cách của người Pháp cũng như không thể giành quyền tự trị bằng các biện pháp hợp pháp. Người Việt nhận thức rằng chế độ thuộc địa không thể cải cách mà chỉ có thể dùng bạo lực lật đổ. Họ không thấy một tương lai nào cho bản thân và đất nước ngoài việc làm cách mạng giành độc lập để mở ra con đường phát triển quốc gia.[30] Chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống Pháp phát triển mạnh.[31] Trong bối cảnh đó, những tư tưởng cách mạng du nhập từ phương Tây, được phổ biến rộng rãi thông qua sự truyền bá của chủ nghĩa cộng sản cũng như qua hệ thống giáo dục của người Pháp[32].

Trong suốt thời kỳ từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào chống Pháp do vua, quan, sỹ phu hoặc nông dân tổ chức, nhưng tất cả đều bị thất bại. Năm 1927, những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng [giống Trung Hoa Quốc dân Đảng]. Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân Đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, những người Việt theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp khi bùng nổ cao trào cách mạng năm 1930-1931 mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp [khi Mặt trận Bình dân nắm quyền tại Pháp đã ân xá các tù nhân chính trị].

Bên cạnh đó, một số nhóm theo chủ nghĩa quốc gia ủng hộ việc hợp tác với chế độ bảo hộ của Pháp tại Đông Dương, ủng hộ chủ nghĩa quốc gia ở Pháp [chỉ các nhóm chính trị cánh hữu hay cực hữu ở Pháp]. Có nhóm năm 1939 khi cánh hữu thắng cử ở Pháp, đã kêu gọi "từ giã hết chủ nghĩa xã hội, quốc tế, cộng sản xét ra không có lợi gì cho tiền đồ Tổ quốc đi, để quay đầu về phụng sự chủ nghĩa quốc gia", họ cho là các lý tưởng kia "không lấy thực nghiệm ra mà suy xét, chỉ chạy theo lý tưởng suông" và xem một số nước "đem ra thực hành đều thất bại cả", họ kêu gọi "trông cậy vào sự chỉ đạo của nước Pháp bảo hộ,... yêu cầu nước Pháp gây dựng cho nước ta một quốc gia, có chính phủ chịu trách nhiệm các việc nội trị trước một Dân viện có quyền lập pháp". Tức đòi quyền tự trị chứ không phải độc lập. Họ bác bỏ quan điểm của "bọn thanh niên... cứ nhứt định theo đòi văn minh Âu - Mỹ mà thôi", và kêu gọi "khôi phục quốc quyền, chấn hưng quốc thể", bác bỏ "tư tưởng và óc đảng phái đã làm cho quốc dân Việt Nam tam phân ngũ liệt", và "đòi tự trị", "quân chủ lập hiến". Họ bác bỏ "thuyết xã hội, thuyết quốc tế cùng đảng viên tả phái đi cổ động tự do", cho đó là "trái với tinh thần "trung quân ái quốc" của dân chúng, trái với luân lý Phật đà, Khổng Tử, khác với chủ nghĩa quốc gia cái rễ từ đời Trưng Nữ vương đuổi Tô Định, Triệu Ấu đuổi quân Ngô", kêu gọi "chỉ có ai là thức thời, có lòng yêu nước trung vua vốn sẵn, chỉ dựa vào cái chủ nghĩa "Pháp Nam hợp tác", "Pháp Việt đề huề", học đòi người quý quốc, làm cho nước được mạnh, dân được giàu lên đã".

Nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc

Trong những biến đổi xã hội vì sự xâm nhập của người Pháp là nhiều mặt hàng mới, trong đó có nhiều thực vật được đưa vào Việt Nam từ châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và cả những nước châu Á lân cận góp nguồn. Đồn điền trồng cây cà phê [xuất phát từ châu Phi], cây cao su [từ Nam Mỹ] được quy hoạch và phát triển, biến đổi hẳn bộ mặt đất nước, đưa dân lên miền núi khai thác và định cư. Ở miền xuôi thì trái cây nhiệt đới như chôm chôm, măng cụt cũng được trồng, lấy giống từ Mã Lai, Nam Dương. Ngoài ra nhiều loại rau như khoai tây, súp lơ, xu hào, cà rốt, tỏi tây nhập cảng từ Pháp được trồng quy mô kể từ năm 1900.[33] Nhiều món ăn mới cũng theo chân người Pháp ra mắt ở Việt Nam như bánh mì, bơ, pho mát, cà phê rồi trở thành quen thuộc. Người Pháp không xây dựng nền tảng công nghiệp tại Việt Nam, trong khi Nhật Bản đã xây dựng khá nhiều cơ sở công nghiệp tại các thuộc địa của họ như Triều Tiên, Mãn Châu. Nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp với phương thức sản xuất không thay đổi trong hàng ngàn năm. Quan hệ sản xuất tại nông thôn vẫn là quan hệ địa chủ – tá điền như thời Trung cổ, còn tại thành thị, chủ nghĩa tư bản chỉ mới manh nha xuất hiện. Người Việt có mức sống rất thấp, nghèo đói phổ biến trên toàn đất nước, đặc biệt ở miền Bắc và miền Trung. Ở nông thôn tồn tại mâu thuẫn giữa địa chủ và tá điền còn ở thành thị có sự tương phản giữa tầng lớp tư sản, quan chức cao cấp và thị dân lớp dưới. Người Pháp xây dựng một số cơ sở hạ tầng cơ bản tại An Nam. Hệ thống kinh tế mà Pháp đầu tư tại An Nam như các đồn điền cao su, mỏ than, các thành phố lớn, đường sắt, cảng biển là để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của họ chứ không phải để phục vụ lợi ích của dân bản xứ.[26] Nhìn tổng thể nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tình trạng tiền tư bản, bán Trung cổ.

Ngôn ngữ người Việt cũng bị tác động, quan trọng nhất là việc tiếp nhận chữ Quốc ngữ làm văn tự chính thức của người Việt. Quyết định của triều Nguyễn hủy bỏ toàn phần phép khoa cử có từ thời nhà Lý khiến chữ Nho không còn là ngôn ngữ học thuật chính thống. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ làm văn tự chính thức bên cạnh chữ Hán tạo điều kiện cho văn học, báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ phát triển, việc truyền bá tri thức, văn hóa trở nên dễ dàng hơn. Chữ Quốc ngữ dễ học hơn chữ Hán nên có thể dùng chữ Quốc ngữ xóa mù chữ nhanh chóng. Tuy nhiên, việc chữ Hán từ địa vị là ngôn ngữ học thuật chính thống trở thành 1 ngoại ngữ không quan trọng khiến đa số người Việt không còn khả năng đọc hiểu các tài liệu chữ Hán của tiền nhân. Hậu quả là người Việt bị tách ra khỏi di sản văn học, sử học, khoa học, tư tưởng của dân tộc viết bằng chữ Hán tích lũy được trong 10 thế kỷ[34][35]. Việc thay đổi nội dung giáo dục, bãi bỏ phép khoa cử truyền thống lấy Nho giáo làm trọng tâm khiến Nho giáo mất dần ảnh hưởng lên đời sống xã hội và chìm vào quên lãng. Điều này khiến xã hội tan rã do không được định hướng bởi 1 hệ thống giá trị chung, không còn tín hiệu tập hợp; đạo đức xã hội suy đồi và các giá trị văn hóa truyền thống bị thui chột. Pháp ngữ trở thành ngôn ngữ chính thức trong hệ thống giáo dục và trong hoạt động hành chính. Các tư tưởng phương Tây như tự do, dân chủ, nhân quyền, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản... thông qua sách báo và hệ thống giáo dục thuộc địa được phổ biến.

Hệ thống giáo dục phát triển không tương xứng với những hứa hẹn của người Pháp "khai hóa văn minh" dân thuộc địa. Chính vì thế, cái mà người Việt thừa hưởng từ người Pháp sau khi Việt Nam giành được độc lập chỉ là những mảnh vụn văn hóa và lịch sử; tỷ lệ mù chữ lên đến 95% dân số[36], hệ thống kiến thức Tây học kém cỏi, thiếu chiều sâu theo như Ngô Đức Kế đã nói "Âu học vẫn chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ"[35] cùng với nền tảng đạo đức xã hội suy đồi. Ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiệm vụ cấp bách nhất, thiết thực nhất phải giải quyết là “nạn dốt” và chỉ rõ[36]: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta… Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”.

Trong tác phẩm Chính đề Việt Nam, Ngô Đình Nhu nhận xét về thời kỳ Pháp thuộc:

... tám mươi năm thống trị của người Pháp đã để lại cho chúng ta một di sản mà ngày nay chúng ta còn phải mang những hậu quả rất là tai hại. Chỉ cần nhắc lại ba gánh nặng nhất mà thời kỳ Pháp thuộc đã lưu lại cho chúng ta.

Trước hết là một công cuộc Tây phương hóa bắt buộc đối với chúng ta. Bắt buộc, bới vì chúng ta đã không có ý Tây phương hóa, nhưng vì sinh lực mạnh bạo của một nền văn minh đã chiến thắng văn minh chúng ta, làm cho chúng ta mất tin tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thập nền văn minh mới. Kẻ thống trị không có quyền lợi gì để biết đến sự Tây phương hóa của lớp người bị trị.

Vận mạng của chúng ta lại không phải do chúng ta nắm. Vì vậy mà công cuộc Tây phương hóa, mà chúng ta đã phải chịu nhận từ một thế kỷ nay, là một công cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn. Dân chúng bị lôi cuốn vào một phong trào Tây phương hóa, mà không hiểu Tây phương hóa để làm gì, Tây phương hóa đến mức nào là đủ, và Tây phương hóa làm sao là đúng.

Tình trạng đó đã dẫn dắt đến sự tan rã của xã hội chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết hiệu lực đối với tập thể mà giá trị tiêu chuẩn mới thì không có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử trong xã hội đã mất. Đó là một điều vô cùng bất hạnh cho dân tộc trong giai đoạn này, vì chính lúc này là lúc mà chúng ta cần phải thực hiện công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. Một công cuộc như vậy đòi hỏi, như chúng ta đã biết, nhiều nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người. Vì vậy cho nên, sự có một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết, để toàn dân trông vào và tin tưởng, mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh. Và chính vào một thời kỳ như vậy chúng ta lại mất các tín hiệu tập hợp...

Gánh nặng thứ ba, mà thời kỳ thống trị của đế quốc đã để lại cho chúng ta, là sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo quốc gia. Chúng ta đã thấy rằng chúng ta lâm vào một sự gián đoạn đến một trình độ trầm trọng nhất. Sự chuyển quyền không thể thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật quốc gia và bí mật lãnh đạo đều bị mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Người lãnh đạo không có đủ di sản, dĩ vãng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp bóc...

Thêm vào các gánh nặng trên đây, mà đế quốc đã lưu lại cho chúng ta, sự thiếu người lãnh đạo trong các ngành, như chúng ta đã biết, là một trở lực to tát cho công cuộc phát triển đang đợi chờ chúng ta.[37]

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Quan điểm của các nước Đồng Minh về tương lai Đông Dương

Chính phủ Pháp lưu vong do Charles de Gaulle đứng đầu không tỏ ra muốn trao trả độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa của Pháp. Tháng 10 năm 1943, chính phủ Charles de Gaulle đệ trình Đại bản doanh Đồng Minh những yêu cầu của mình về việc trang bị cho quân đội viễn chinh Đông Dương của Pháp để sẵn sàng hành động vào mùa thu 1944. Pháp cũng yêu cầu có đại diện trong Hội đồng Chiến tranh Thái Bình Dương. Pháp mong muốn có 1 vị trí trong Khối Đồng Minh khi thế chiến thứ hai kết thúc. Tuy nhiên Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt lại muốn Liên bang Đông Dương không bị trao trả lại cho Pháp mà sẽ được cai quản bởi 1 chế độ quản trị quốc tế. Mỹ không có tuyên bố chính thức nào về chính sách của Hoa Kỳ đối với Liên bang Đông Dương. Ngược lại một số viên chức ngoại giao Mỹ lại khẳng định với Pháp nước Mỹ sẽ ủng hộ Pháp phục hồi chủ quyền càng sớm càng tốt trên toàn bộ lãnh thổ chính quốc lẫn thuộc địa.[38] Yêu cầu trang bị cho quân đội viễn chinh Đông Dương của Pháp bị Đồng Minh phớt lờ vì chiến lược Viễn Đông của Anh - Mỹ vẫn tiến triển tốt mà không cần có Pháp tham gia. Hơn nữa ý đồ tái chiếm thuộc địa của Pháp quá rõ ràng và đi ngược lại chính sách của Roosevelt đối với các dân tộc thuộc địa. Tổng thống Mỹ Roosevelt báo cho Bộ Ngoại giao Mỹ biết Mỹ không được tán thành việc đặt bất cứ một phái đoàn quân sự nào của Pháp ở Bộ tư lệnh Đông Nam Á. Anh ủng hộ ý định của Pháp nhưng vì sự phản đối của Mỹ nên Đồng Minh không đưa ra được quyết định nào đối với mong muốn của Pháp tham gia các hoạt động quân sự của Khối Đồng Minh tại Đông Nam Á.[39]

Ngày 1 tháng 1 năm 1942, đại biểu 26 nước Đồng Minh gặp nhau tại Washington ký Tuyên bố Liên Hợp Quốc cam kết ủng hộ Hiến chương Đại Tây Dương

Ngày 8 tháng 12 năm 1943, chính phủ Pháp lưu vong công bố thông cáo về Đông Dương trong đó ghi rõ "Đồng thời với việc luôn luôn ghi nhớ thái độ cao thượng và trung thực của các vị Quốc vương đương trị của Đông Dương, nước Pháp cũng sẽ ghi tạc mãi mãi thái độ kiên cường và thẳng thắng của các dân tộc Đông Dương, cuộc kháng chiến mà họ đã tiến hành bên cạnh chúng ta chống Nhật Bản và Thái Lan, cũng như tấm lòng thủy chung gắn bó của họ đối với cộng đồng Pháp. Với các dân tộc đã biết cùng một lúc biểu hiện tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình, nước Pháp thỏa thuận ban hành trong nội bộ khối cộng đồng Pháp một quy chế chính trị mới theo đó, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước trong Liên bang sẽ được nới rộng và khẳng định; tính chất tự do rộng rãi của các tổ chức sẽ được nổi bật mà không hề mất đi dấu hiệu của nền văn minh và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương có thể nhận bất cứ công việc nào và chức vụ nào của nhà nước. Phù hợp với sự cải cách quy chế chính trị ấy, sẽ có một cuộc cải cách quy chế kinh tế của cả Liên bang - cuộc cải cách này đặt trên cơ sở chế độ hải quan và thuế khóa tự trị, đảm bảo sự phồn vinh và góp phần vào sự phồn vinh của các nước láng giềng."[40] Thông cáo này cho thấy Pháp chỉ hứa hẹn về những cải cách nhưng không hề có ý định trao trả độc lập cho các nước Đông Dương, các nước này sẽ phải chấp nhận các quy chế chính trị do Pháp đề ra cho khối cộng đồng Pháp trong khi xu hướng phi thực dân hóa đang nổi lên và được Anh, Mỹ ủng hộ bằng việc ký kết Hiến chương Đại Tây Dương.

Ngày 28 tháng 11 năm 1943, tại Hội nghị Tehran Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nêu ý kiến đặt Đông Dương dưới sự quản thác quốc tế với Iosif Vissarionovich Stalin, Winston Churchill và Tưởng Giới Thạch. Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt bày tỏ một cách minh bạch rằng ông chỉ mong muốn chấm dứt chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương ngay cả khi cần trả giá bằng bất hòa với Anh và làm gián đoạn mối quan hệ với Pháp. Iosif Vissarionovich Stalin và Tưởng Giới Thạch ủng hộ Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt trong vấn đề Đông Dương, nhưng Winston Churchill thì lẩn tránh. Stalin đồng ý với Roosevelt còn nói thêm rằng ông không hề đề nghị để quân Đồng Minh phải đổ máu nhằm phục hồi Đông Dương cho chế độ thực dân Pháp và người Pháp không được phép giành lại Đông Dương mà phải trả giá cho sự hợp tác với Đức. Roosevelt nói ông đồng ý hoàn toàn với Stalin và cho rằng sau 100 năm Pháp chiếm Đông Dương, người dân ở đó có cuộc sống tệ hơn trước.[41] Không có 1 tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay 1 sự thoả thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh công bố.[42] Tại Hội nghị Yalta quan điểm của Mỹ về Đông Dương là phải đưa ra cho các dân tộc tại đây 1 hình thức Chính phủ liên bang tự trị phù hợp với hoàn cảnh và khả năng của họ thay thế cho việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông Dương, chỉ thiết lập quyền ủy trị khi Pháp đồng ý[43]

Sau khi Roosevelt qua đời [12 tháng 4 năm 1945], Phó Tổng thống Truman lên thay. Chính phủ Pháp tự do của tướng Charles de Gaulle đã vận động ráo riết để Hoa Kỳ hỗ trợ nhằm giành lại các thuộc địa. Dù không được dự hội nghị Potsdam, Pháp vẫn đề nghị để quân của họ giải giáp quân Nhật ở Đông Dương nhưng bị từ chối. Hoa Kỳ đề nghị để lập chế độ ủy trị [trusteeship] với Việt Nam nhưng bị Pháp kịch liệt phản đối.[41] Có tài liệu khẳng định lập trường của Mỹ về tương lai Đông Dương thay đổi, nước Mỹ giữ thái độ im lặng, khi được hỏi về vấn đề Đông Dương, Truman cũng thận trọng trả lời là nước Mỹ chư­a có quyết định gì cả[44]. Mỹ có thái độ không hoàn toàn rõ ràng và để Anh giúp Pháp quay lại Đông Dương. Anh đã chuyển quân trang quân dụng trên đường từ Ấn Độ về châu Âu cho Pháp để tướng Leclerc chuẩn bị quay lại Sài Gòn.[41] Trong điện tín do Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 29 tháng 5 năm 1945 gửi đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Patrick J. Hurley để trả lời báo cáo của ông này về việc Pháp đang sử dụng viện trợ quân sự của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương và việc có dư luận cho rằng Mỹ hình như đang ủng hộ việc đặt các thuộc địa dưới sự kiểm soát của các nước đế quốc chứ không phải dưới sự ủy trị của Liên Hợp Quốc, Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định Tổng thống Truman nói rằng không có thay đổi cơ bản nào trong chính sách của Mỹ đối với thuộc địa [43]. Đến năm 1947, theo điện tín số 1737 ngày 13 tháng 5 năm 1947 của ngoại trưởng Mỹ George Marshall gửi đại sứ quán Mỹ tại Paris thì lập trường của Mỹ là phải "cùng hội cùng thuyền" với Pháp cũng như Anh và Hà Lan ở Đông Nam Á vì lo sợ cùng với việc nền cai trị của các nước phương Tây tại Đông Nam Á được nới ra thì các nước này sẽ theo xu hướng Liên Á chống phương Tây hoặc người cộng sản sẽ giành lấy chính quyền, do đó cần duy trì sự liên kết chặt chẽ giữa các dân tộc mới được tự trị với các cường quốc [chỉ Anh, Pháp, Hà Lan] "từ lâu chịu trách nhiệm về sự thịnh vượng của họ". Đặc biệt người Việt Nam trong một thời gian nhất định "vẫn cần tới sự giúp đỡ kinh tế của Pháp cùng 1 sự chỉ dẫn về chính trị của 1 nước có nền dân chủ lâu đời và biết tôn trọng nhân quyền như Pháp".[45] Năm 1947, Hoa Kỳ ký bản thoả thuận với nước Pháp về việc cấp cho Pháp 160 triệu USD để mua xe cộ và trang thiết bị cho quân Pháp ở Đông Dương[46]. Theo giáo sư sử học Vũ Dương Ninh điều đó hầu nh­ư biểu lộ sự tán thành của nước Mỹ đối với việc tái chiếm Đông Dương của Pháp.[44] Liên Xô muốn giữ quan hệ trung dung, tốt đẹp với tất cả các bên ở Đông Dương gồm Trung Quốc, Việt Nam và Pháp nên không ủng hộ Hồ Chí Minh. Stephane Solovieff, đại diện của Liên Xô ở Hà Nội nói với thiếu tá OSS của Hoa Kỳ Archimedes Patti rằng Liên Xô "cần thời gian để phục hồi, tái thiết trước khi xác định vị thế ở Đông Nam Á".[41]

Tưởng Giới Thạch phát biểu rằng người Việt không phải là người Trung Quốc, không dễ bị Trung Quốc đồng hóa và Trung Quốc không có quyền lợi về đất đai ở Đông Dương.[47] Trung Quốc nhiều lần tuyên bố mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động có hại cho lợi ích của Trung Quốc sau này. Tương lai Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu không có sự thỏa thuận của Trung Quốc trên bàn Hội nghị Hòa bình.[48]

Nhật Bản đảo chính Pháp và chiếm đóng Đông Dương

Bài chi tiết: Chiến dịch Đông Dương [1940]
Binh lính Nhật Bản hành quân trên đường phố Sài Gòn

Năm 1940, Đế quốc Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Tháng 8 năm 1944, Decoux công bố và thực thi 1 đạo luật bí mật ban cho ông những quyền hạn đặc biệt trong trường hợp mất liên lạc với chính phủ Vichy tại Pháp. Ngày 30 tháng 8 năm 1944, Decoux gửi 1 bức điện cho chính phủ Vichy với nội dung "Trái với ý nghĩ được phổ biến rộng ra quá nhiều lần, chủ quyền của nước Pháp trên xứ thuộc địa này vẫn được giữ gìn trọn vẹn... Chính phủ Pháp vẫn tuyệt đối tự do... Nhờ có bốn năm cố gắng không ngừng và hiệp thương giữa Hà Nội, Bắc Kinh và Tokyo, cái cơ bản của lập trường chúng ta, của chủ quyền chúng ta, của uy tín chúng ta và của sự nghiệp văn minh khai hóa của chúng ta đã được bảo vệ... điều kiện cần thiết và đầy đủ để cho chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và những lợi ích của Pháp tại Viễn Đông được vẹn toàn cho đến ngày kết thúc chiến tranh dường như là thế này; Chính phủ mới của Pháp hãy khuyến cáo Đồng minh đừng mở bất cứ một cuộc tấn công quân sự nào vào Đông Dương và bản thân nó hãy tránh mọi sáng kiến ngoại giao hoặc quân sự có thể xô đẩy Nhật Bản vào tâm trạng nghi kỵ đối với nước Pháp"[49].

Ngày 29 tháng 4 năm 1944, đại diện Mặt trận Độc lập Đông Dương do Việt Minh lãnh đạo gặp lãnh sự Pháp của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp tại Côn Minh, Trung Quốc để thảo luận về việc khôi phục nền độc lập và dân chủ hóa Đông Dương. Mặt trận hy vọng Ủy ban Giải phóng Dân tộc Pháp sẽ nghiên cứu 1 chương trình dân chủ hóa Đông Dương sau khi lãnh thổ này được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Nhật. Đối với vấn đề độc lập của Đông Dương, Mặt trận sẵn sàng thảo luận và chấp nhận tạm thời tất cả mọi công thức chính trị rộng rãi lấy nguyện vọng của các dân tộc ở Đông Dương làm căn cứ.[50] Đến tháng 6 năm 1944, Việt Minh lại tuyên bố "Ủy ban Giải phóng Dân tộc Pháp đã nhầm khi nghĩ rằng các dân tộc Đông Dương tự bằng lòng với những lời nịnh nọt tâng bốc, cam kết, hứa hẹn. Tương lai đất nước chúng tôi là do bàn tay chúng tôi sắp đặt chuẩn bị. Tự do của chúng tôi, chúng tôi muốn nó phải hoàn toàn"[51].

Thực dân Pháp chỉ tồn tại đến ngày 9 tháng 3 năm 1945 khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương vì nhận thấy quân đội Đông Dương thuộc Pháp đang hoạch định việc chuẩn bị tác chiến chống lại Nhật sau khi Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương, bắt đầu tuyển mộ dân bản xứ [các dân tộc thiểu số người Việt và Lào] vào quân đội Đông Dương thuộc Pháp.[52] Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Sài Gòn, đại sứ Nhật Matsumoto trao cho Đô đốc Decoux 1 tối hậu thư đòi các lực lượng vũ trang Pháp phải được đặt dưới quyền chỉ huy của Nhật. Sau 2 giờ, khi nhận được câu trả lời của Decoux, người Nhật cho rằng ông này đã bác bỏ tối hậu thư của họ. Trong vòng 48 giờ, từ Đô đốc Decoux đến những viên chức Pháp thấp nhất đều bị tước quyền hành và bỏ tù hoặc bị tập trung lại.[53]

Chính phủ Đế quốc Việt Nam thành lập

Nhật báo Điện tín loan tin Việt Nam độc lập.

Theo chính sách Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á, Đế quốc Nhật Bản bảo trợ thành lập chính phủ Đế quốc Việt Nam dưới quyền Hoàng đế Bảo Đại, đứng đầu bởi Thủ tướng Trần Trọng Kim. Cũng như các chính phủ khác ở những vùng bị Nhật chiếm đóng [Mãn Châu quốc, Triều Tiên, Chính phủ Uông Tinh Vệ...], chính phủ này không có thực quyền khi tài chính và nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ.

Vua Bảo Đại tuyên bố thành lập Đế quốc Việt Nam ngày 11 tháng 3 năm 1945, tuyên bố chính phủ này có chủ quyền trên danh nghĩa ở 3 kỳ, tiếp sau đó là Campuchia ngày 13 tháng 3 và Lào ngày 8 tháng 4. Trong tuyên bố của Bảo Đại, bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ và mất độc lập với Pháp trước đây, độc lập theo tuyên ngôn Đại đông Á của Đế quốc Nhật Bản, và "ông cũng như Chính phủ Việt Nam tin tưởng lòng trung thực của Nhật Bản và nó được xác định làm việc với các nước để đạt được mục đích".[54].

Để đáp trả, ngày 24 tháng 3 năm 1945, chính phủ Charles de Gaulle tuyên bố chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và không công nhận sự cai trị của Nhật Bản ở khu vực này. Pháp dự định thành lập Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, bao gồm 5 quốc gia có đại diện riêng trong Liên bang, có lợi ích bên ngoài do Pháp đại diện; và dự kiến cơ cấu của chính phủ Liên bang Đông Dương sẽ theo mô hình chính phủ do Thống đốc đứng đầu, với các bộ trưởng người Đông Dương và người dân Pháp ở Đông Dương, và 1 Quốc hội được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu tại mỗi quốc gia của Liên bang, trong đó có đại diện lợi ích của người Pháp. Thống đốc, Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm chuẩn bị các luật và quy định, còn Quốc hội giữ vai trò biểu quyết mọi loại thuế, ngân sách, các dự luật và các điều ước quốc tế về thương mại và hợp tác với các nước khác. Liên bang sẽ có lực lượng vũ trang riêng được trang bị kỹ năng tương đương với của Liên hiệp Pháp và phát triển quan hệ thương mại với tất cả các nước khác, đặc biệt là với Trung Quốc.[55] Cũng trong tuyên bố này, Pháp cam kết đảm bảo bình đẳng giữa công dân Đông Dương với các công dân Liên hiệp Pháp về quyền tham gia các vị trí của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp, cũng như mọi quyền tự do dân chủ nói chung [tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do lập hội, hội họp...]. Đồng thời Liên hiệp Pháp có nghĩa vụ giúp đỡ thành lập lực lượng vũ trang Liên bang Đông Dương, cũng như thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị và hành chính ở Đông Dương.[56]

Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại cũng xúc tiến trưng cầu dân ý về chính thể Việt Nam, theo đạo Dụ số 1 có nội dung "1.Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu "Dân vi quí". 2. Trong chính giới sẽ chiêu lập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại Nhật Bản trong công cuộc tái thiết Đại Đông Á. 3.Trẫm sẽ tái định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của quốc dân".

Bản thân khẩu hiệu "Đại Đông Á" vốn do Nhật tạo ra, và 5 nguyên tắc của nó cho thấy rõ mục đích: Nhật Bản muốn lôi kéo các nước châu Á mà họ đã thôn tính được, bắt các nước này đóng góp nhận lực, của cải để Nhật tiến hành chiến tranh chống Anh, Mỹ, cũng như triệt tiêu ý định chống Nhật tại các nước này[57] Các bộ trưởng của Đế quốc Việt Nam tuyên bố bất lực, bởi không thể làm được việc gì nếu không được cố vấn tối cao Nhật đồng ý, trong khi vua Bảo Đại chỉ lo vui chơi, săn bắn mà không quan tâm đến chính trị.[58].

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Ngày 18 tháng 8, vua Bảo Đại tuyên bố sẽ duy trì chính phủ Đế quốc Việt Nam sau khi Nhật đầu hàng, và đồng thời gửi 1 thông điệp đến Thống chế Pháp De Gaulle đề nghị công nhận chính phủ Đế quốc Việt Nam. Thông điệp này có đoạn "Ông sẽ hiểu tốt hơn nếu ông có thể chứng kiến những gì đang diễn ra ở đây, nếu ông có thể cảm nhận được khát khao độc lập đến tận tâm can của mỗi người mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Thậm chí nếu ông muốn tái lập chế độ cai trị của người Pháp ở đây thì nó sẽ không tiếp tục được tuân phục; mỗi làng mạc sẽ trở thành một ổ kháng chiến, mỗi người cộng tác cũ thành một kẻ thù và những quan chức, những tên thực dân của ông chính họ sẽ yêu cầu rời khỏi không khí ngạt thở này... Chúng ta có thể dễ dàng hiểu nhau và trở thành bạn bè nếu ông hủy bỏ tuyên bố trở thành ông chủ của chúng tôi một lần nữa"[59]. Tuy nhiên De Gaulle không hồi âm, ông ta dự kiến sẽ hậu thuẫn cho 1 chế độ quân chủ mà người đứng đầu không phải là Bảo Đại, người đã thỏa hiệp với Nhật Bản để được "độc lập", mà là Vĩnh San, được xem như là 1 "Gaullist" [người ủng hộ de Gaulle].[60]

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Trần Trọng Kim tuyên bố sẽ bảo vệ chính phủ Đế quốc Việt Nam, và ngày 18 tháng 8 thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc, tập hợp tất cả các đảng phái chính trị để lãnh đạo công cuộc này. Theo lời khuyên của ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bảo Đại cũng gửi thông điệp cho Tổng thống Mỹ Truman, vua nước Anh, Thống chế Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đề nghị công nhận Đế quốc Việt Nam là chính phủ đại diện của Việt Nam. Tuy nhiên tất cả các bức thư đều không được hồi âm, bởi theo Tuyên bố Cairo, không chỉ Pháp mà tất cả các nước khối Đồng Minh sẽ không công nhận bất cứ chính phủ nào do Nhật Bản thành lập tại các lãnh thổ chiếm đóng. Đến 24 tháng 8, trong cao trào của Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại đã thực hiện đề nghị của Hội đồng Cơ mật: quyết định thoái vị "để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của đất nước". Chính phủ Đế quốc Việt Nam đến đây tan rã[61].

Tình hình Việt Nam

Cuộc đảo chính của Nhật Bản ngày 10 tháng 3 đã làm suy yếu bộ máy hành chính và quân sự của Pháp và mở ra một khoảng trống rất lớn vì "Chính phủ Hoàng gia" không thể điều hành nổi. Khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 14, quân đội Nhật Bản có trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi sự xuất hiện của quân đội Trung Quốc về phía bắc 16° vĩ độ, và quân Anh về phía Nam. Nhưng cuộc cách mạng đang càn quét, "không phải do chính sách Việt Minh", đã bất chấp điều đó.[61]

Lãnh đạo Việt Minh và OSS năm 1945. Trong đó có chỉ huy lực lượng OSS tại miền Bắc Việt Nam, Archimedes Patti, đứng giữa Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.

Việt Minh [viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội] do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 với vai trò 1 mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, thu hút được sự tham gia và ủng hộ của nhiều người Việt Nam và ngày càng lớn mạnh. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng. Khẩu hiệu ban đầu của Việt Minh là "Phản Pháp - kháng Nhật - liên Hoa - độc lập". Ban đầu lực lượng Việt Minh nhận được sự ủng hộ của phe Đồng minh, bao gồm cả Mỹ và Trung Hoa dân quốc, theo Philippe Devillers "bây giờ nó sẽ nhận được 100.000 đô la mỗi tháng phân bổ đến Nguyen Kai Thau". Hồ Chí Minh nhận thấy Mỹ đang muốn đóng vai trò lớn hơn ở khu vực Thái Bình Dương, ông đã làm tất cả để thiết lập mối quan hệ với Hoa Kỳ thông qua việc giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS [U.S. Office of Strategic Services] giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh, về sau này sẽ trở thành Quân đội nhân dân Việt Nam.[62] Tháng 7 năm 1945, lực lượng này gửi đến OSS 1 tuyên bố: "Chúng tôi, Việt Minh, công bố yêu cầu sau đây về chính sách tương lai ở Đông Dương thuộc Pháp đến người Pháp và các quan sát viên:

  1. Một quốc hội bầu theo phổ thông đầu phiếu. Nó lập pháp cho đất nước. Một thống đốc Pháp quyền Chủ tịch cho đến khi tính chất độc lập chúng tôi được đảm bảo. Thống đốc sẽ chọn một nội các hoặc một nhóm các cố vấn chấp nhận bởi quốc hội. Các quyền hạn cụ thể của các cơ quan này có thể được phát triển trong tương lai.
  2. Độc lập sẽ được trao cho đất nước này trong một tối thiểu 5 năm và tối đa là 10 năm.
  3. Tài nguyên thiên nhiên của đất nước sẽ trở lại cư dân của nó sau khi bồi thường công bằng cho các chủ sở hữu hiện tại. Pháp sẽ nhận được những lợi ích kinh tế.
  4. Tất cả quyền tự do được Liên Hợp Quốc công bố sẽ được đảm bảo ở Đông Dương.
  5. Bán thuốc phiện bị cấm.

Chúng tôi hy vọng rằng những điều kiện này sẽ nhận được sự chấp nhận của chính phủ Pháp".[61]

Từ tháng 3 năm 1945, Việt Nam rơi vào 1 tình trạng hỗn loạn do khoảng trống về quyền lực chính trị quá lớn[63]. Người Nhật đang lo chống đỡ các đòn tấn công của quân đội đồng minh Anh-Mỹ. Cả chính phủ của Trần Trọng Kim lẫn triều đình của Bảo Đại đều không đủ lực lượng quân sự và uy tín chính trị để kiểm soát tình hình. Theo Peter A. Pull, chỉ có Việt Minh là lực lượng có tổ chức duy nhất ở nước này có khả năng nắm được quyền chính trị.[64] Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, nước Nhật cạn kiệt nguyên liệu nên quân Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói [Nạn đói Ất Dậu] đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng 2 triệu người chết vì nạn đói này.

Khâm sai Phan Kế Toại đã gặp Nguyễn Khang, người do Xứ Ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Đế quốc Việt Nam và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.[65] Chính quyền thân Nhật Đế quốc Việt Nam cũng thành lập Uỷ ban Chính trị để đàm phán với Việt Minh. Ủy ban này đề nghị Việt Minh: "Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh". Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát: "giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả".[66]

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập

Bài chi tiết: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Võ Nguyên Giáp duyệt đội hình danh dự của quân đội Việt Minh trong Cách mạng tháng Tám

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám. Chính phủ Pháp không kịp phản ứng vì quân đội Pháp vẫn chưa kịp hoàn thành việc tái xây dựng lực lượng và vẫn còn ở châu Âu do chưa được khối Đồng Minh cho phép hoạt động tại chiến trường Đông Nam Á. Quân đội Nhật không can thiệp vào tình hình chính trị tại Việt Nam vì họ đã đầu hàng và đang chờ Đồng Minh đến giải giáp.[67]

Sau Cách mạng tháng Tám, Việt Minh thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên cơ sở cải tổ Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam được thành lập tại Đại hội Quốc dân ngày 16-17 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào, Sơn Dương. Thời điểm đó Hồ Chí Minh ít được biết đến còn Chính phủ của ông chưa được nước nào công nhận. Ông cảm thấy phải tìm cách làm cho Đồng Minh chú ý đến Chính phủ của ông trước khi quân đội của họ vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật. Cùng thời điểm đó, Bảo Đại cũng gửi cho lãnh đạo các nước Đồng Minh lời kêu gọi công nhận nền độc lập của Việt Nam. Điều đó làm Hồ Chí Minh lo ngại vì lời kêu gọi này đã tăng cường địa vị hợp pháp của Bảo Đại. Theo Hồ Chí Minh, Bảo Đại không còn cầm quyền từ lâu nên Chính phủ Lâm thời là Chính phủ duy nhất hợp pháp.[68] Đối với Mỹ, Hồ Chí Minh cố gắng thuyết phục Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương. Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là 1 phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là 1 người Quốc gia - Xã hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang.[69]

Thông qua OSS, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi 9 bức điện cho Chính phủ Mỹ, bao gồm cả bốn bức thư tay gửi trực tiếp cho Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đề nghị Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Lâm thời, đồng thời Mỹ và Chính phủ Lâm thời sẽ có đại diện trong Ủy ban Liên tịch các nước Đồng Minh giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Việt Minh hy vọng tranh thủ được sự có mặt của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương vì 2 nước này có thể làm nguy hại đến nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời khuyến khích các nước Đồng Minh công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam. Việt Minh lo ngại việc không được các nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị lãnh đạo của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc thành lập chính phủ của các lực lượng này.[70] Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Hồ Chí Minh giải thích rằng: Người Mỹ xem ông là 1 người quốc tế cộng sản, "bù nhìn của Moscow" vì ông đã ở Moscow nhiều năm, nhưng ông khẳng định mình không phải là người cộng sản theo cách mà Mỹ hiểu, mà ông là nhà cách mạng hoạt động vì độc lập dân tộc.[71] Tuy nhiên chính phủ Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.[72] Hồ Chí Minh cũng gửi thư cho Stalin đề nghị Liên Xô giúp đỡ cách mạng Việt Nam và công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[73][74] nhưng không được hồi đáp[75][76]. Vào thời điểm này trọng tâm của Liên Xô là Đông Âu và khôi phục Liên Xô sau chiến tranh, chứ không phải là Việt Nam. Hơn nữa Mỹ đang lôi kéo các nước Châu Âu thành lập khối phòng thủ Châu Âu chống lại sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản nên Liên Xô không muốn làm mất lòng Pháp. Mặt khác Stalin cũng chưa biết gì nhiều về Hồ Chí Minh và cho rằng ông là “Tito phương Đông’’, tức là 1 người cộng sản theo chủ nghĩa dân tộc, chứ không phải là người cộng sản quốc tế theo chủ nghĩa Stalin.[77]

Tại miền Nam, sau khi đảo chính Pháp, ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật cho phép Bảo Đại cử 1 Khâm sai đại thần nắm quyền cai trị tại Nam Kỳ đồng thời bổ nhiệm những người Việt thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất vào các vị trí trong bộ máy chính quyền do các viên chức dân sự Pháp đã bị Nhật tống giam. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, người Việt tiếp quản Sài Gòn. Điều này được chào đón như một cuộc cách mạng. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Khâm sai Nguyễn Văn Sâm đến Sài Gòn. Nhật chuyển giao vũ khí cho lực lượng Cách mạng và các đảng phái thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Trong cuộc họp ngày 22 tháng 8 năm 1945 của Mặt trận Quốc gia Thống nhất, Trần Văn Giàu thuyết phục các đảng phái trong Mặt trận chuyển giao quyền lực cho Việt Minh vì Mặt trận có thể bị Đồng Minh xem là 1 tổ chức thân Nhật còn Việt Minh lại đang thuộc phe Đồng minh [trước đó đã hợp tác với tình báo quân sự Mỹ OSS] chống Nhật. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Quốc gia Thống nhất quyết định rút lui, nhường quyền lãnh đạo cho Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, tại Sài Gòn, Việt Minh tuyên bố thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ gồm 9 người đều là thành viên Việt Minh[78]. Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ ra tuyên bố họ là bộ phận hành chính ở phía Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[79] Sau đó, theo lệnh của Chính phủ lâm thời Trung ương, Ủy ban hành chính Nam Bộ hợp tác với Kỳ bộ Việt Minh gồm đại biểu các đảng phái: Đông Dương cộng sản, Tân Dân chủ, Tổng công đoàn, Thanh niên Tiền phong, Việt Nam quốc gia, Cao Đài hợp nhất, Việt Nam Cứu quốc đoàn [Kỳ bộ cũ của Việt Minh], Quốc gia độc lập, Công giáo, Thanh niên nghĩa dũng đoàn họp bàn thành lập Ủy ban nhân dân Nam Bộ.[80]

Ở Hà Nội, các sinh viên cánh tả tổ chức biểu tình với danh nghĩa Tổng hội sinh viên kêu gọi Bảo Đại thoái vị, thành lập nền cộng hòa dưới sự bảo trợ của Việt Minh, yêu cầu Việt Minh thảo luận với tất cả các đảng phái để thành lập chính phủ lâm thời, đồng thời kêu gọi nhân dân và các đảng phái ủng hộ chính phủ Lâm thời bảo vệ nền độc lập của đất nước. Việt Minh phát động công nhân, người dân cướp chính quyền trên toàn quốc. Trước áp lực đó, Bảo Đại mời Việt Minh thành lập một chính phủ mới dưới quyền ông thay thế chính phủ Trần Trọng Kim.[81]

Tháng 5 năm 1945, các thành viên của các đảng Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng thân Nhật và Việt Nam Quốc dân Đảng [Việt Quốc] gặp nhau tại Trung Quốc để thành lập 1 liên minh đặc biệt nhằm phối hợp hoạt động giữa các nhóm trong nước và nhóm lưu vong trong trường hợp Trung Quốc đưa quân vào Đông Dương. Đại Việt Dân chính Đảng sáp nhập vào Việt Nam Quốc dân Đảng. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, ở Việt Nam chỉ có lực lượng vũ trang của Đại Việt còn lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn còn ở Trung Quốc. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng, dẫn đầu 1 đơn vị 250 người hành quân vào Hà Nội. Tuy nhiên ngày 19 tháng 8 năm 1945, lực lượng này đã không ngăn cản Việt Minh cướp chính quyền của phát xít Nhật tại Hà Nội. Tối hôm đó, các đảng viên Đại Việt và Việt Quốc tổ chức họp nhưng không thống nhất được kế hoạch chống Việt Minh giành chính quyền. Các đơn vị khác của Đại Việt ở các tỉnh không thể tiến về Hà Nội do lũ sông Hồng. Quân đội của Đại Việt rút về phía Đông và phía Tây Hà Nội chờ diễn biến tình hình.[82]

Tại Huế, Chính phủ Đế quốc Việt Nam đồng loạt từ chức và chuyển giao quyền lực cho phong trào Việt Minh. Theo lời thuật của Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên thì "với tư cách bộ trưởng, chúng tôi trăm phần trăm ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất cả, kể cả Thủ tướng Trần Trọng Kim, đã có sự nhất trí toàn vẹn, sâu sắc về sự chuyển tiếp ấy."[83]

Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, 2 phái viên của Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đến cung điện Huế. Theo lời yêu cầu của hai ông này, chiều ngày 25 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và sau đó trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Ông thoái vị với lý do "Hạnh phúc của dân Việt Nam, độc lập của nước Việt Nam, muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã sẵn sàng hy sinh hết tất cả mọi phương diện, và cũng vì mục đích ấy nên Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải có lợi cho Tổ quốc. Xét thấy điều bổ ích nhất cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi rằng trong giờ nghiêm trọng này rằng đoàn kết là sống mà chia rẽ là chết. Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi Quốc hội thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người ngoài lợi dụng, cho nên mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ tới công lao Liệt Thánh vào sinh ra tử trong gần bốn trăm năm để mở mang giang sơn đất nước từ Thuận Hóa đến Hà Tiên, mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong hai mươi năm mới gần gũi quốc dân được mấy tháng chưa làm được gì ích lợi cho quốc dân như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một Chính phủ dân chủ Cộng hòa...". Ông cũng yêu cầu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Đối với các đảng phái đã từng phấn đấu cho nền độc lập quốc gia, nhưng không đi sát theo phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết quốc gia và tỏ rằng Chính phủ dân chủ cộng hòa nước ta đã xây đắp ở trên sự đoàn kết của toàn thể nhân dân.". Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong bản Tuyên ngôn Thoái vị, ông có câu nói "Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị".[84] Ngày 28 tháng 8 năm 1945 thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên cáo cho biết "Chính phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [Việt Minh] như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ cộng hòa chính thức".

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không có dấu hiệu của cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyền sở hữu tư nhân phương tiện sản xuất, chỉ quyết định loại bỏ các quan lại và hệ thống phân cấp hành chính và chính trị cũ của Đế quốc Việt Nam, giải tán các Hội đồng Nhân sĩ và thay bằng các Ủy ban Nhân dân do dân địa phương bầu ra. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện một số cải cách nhưng thận trọng để không tạo ra sự chống đối của giai cấp trung lưu và đại địa chủ. Việc chia lại ruộng đất chỉ giới hạn trong công điền, đất bỏ hoang, đất tịch thu của người Pháp và những người bị xem là hợp tác với phát xít. Từ ngày 22 tháng 9 năm 1945, các chủ đất nhỏ từ 5 mẫu trở xuống đều được miễn thuế ruộng đất. Việc hạn chế buôn bán lương thực của Nhật bị bãi bỏ, việc nhà nước độc quyền bán rượu và muối chấm dứt. Thuế công thương nghiệp và môn bài bị bãi bỏ. Thuốc phiện, cờ bạc, mại dâm và các hình thức lao động khổ sai bị cấm. Công nhân được hưởng chế độ làm 8 giờ một ngày.[85] Cùng với đó là giải tán các nghiệp đoàn[86] để kiểm soát nền kinh tế[87], thống nhất các tổ chức thanh niên [vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam]. Tuy nhiên ở cấp địa phương vẫn có sự thanh trừng chính trị hay loại bỏ "chủ nghĩa tư bản phát xít", chia đất cho nông dân, tịch thu tài sản của những người giàu, ngoài mong muốn của những lãnh đạo trung ương Việt Minh [chỉ có 1 nhóm nhỏ, vài chục người đứng đầu tại Hà Nội, cũng như trong tất cả các tỉnh] như Hồ Chí Minh khi thành lập đảng đã nói "Việt Nam sẽ được di chuyển từ từ về phía chủ nghĩa xã hội thông qua việc giảng dạy và thực hành dân chủ".[61]

Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lễ phát động phong trào cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội. Chính phủ còn phái 1 ủy ban vào Nam bộ tổ chức vận chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng kêu gọi các hội buôn và người dân tham gia vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong tháng 9 n năm 1945 với số lượng không quá 30.000 tấn do chiến tranh bùng nổ khi Pháp đưa quân đội vào Nam Kỳ. Trong thư gửi đồng bào cả nước đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 28 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó [mỗi bữa 1 bơ] để cứu dân nghèo". Chính phủ cũng chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu năm 1946, hệ thống đê tại miền Bắc đã sửa xong.[88]

Để giải quyết tận gốc nạn đói, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi nhân dân tăng gia sản xuất. Chính phủ còn vận động tư nhân cho mượn các vườn trống quanh nhà để tăng gia sản xuất. Mỗi địa phương lập ra 1 tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất, lương thực làm ra được dùng để cứu tế. Cuối 1945 đến đầu 1946 không còn kịp thời vụ để trồng lúa nữa, nên chính phủ phát động dành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng liên tiếp 2 vụ màu [khoai lang, đậu, bắp...] bù cho phần lúa thiếu hụt. Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ trước năm 1945. Chỉ trong 5 tháng từ tháng 11 năm 1945 - tháng 5 năm 1946 đã đạt 614.000 tấn, tương đương 506.000 tấn lúa, đủ đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945.[88]

Trong năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Ngày 2 tháng 9 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: "Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ". Giáo sư kinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải quyết được nạn đói là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đi theo Việt Minh.[88]

1 thành tựu khác của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ là xóa mù chữ. Năm 1945, có 95% dân số Việt Nam mù chữ. Trước thực trạng đó, để xóa mù chữ, từ ngày 8 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra các sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 đặt ra 1 bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam, Sắc lệnh số 19 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối, Sắc lệnh số 20 định rằng việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền. Để phục vụ chiến dịch xoá mù chữ, Nha Bình dân học vụ được thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1945. Ngày 4 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Chống nạn thất học gửi tới toàn dân: "...Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức, mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi." Các lớp học Bình dân học vụ được mở khắp nơi ở cả ba miền thu hút sự tham gia của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân. Người biết chữ dạy cho người không biết chữ. Đến tháng 9 năm 1946, phong trào Bình dân học vụ đã tổ chức được 75.000 lớp học với trên 95.000 giáo viên, trên 2.500.000 người được phong trào dạy biết đọc, biết viết.[36]

Theo Quyết nghị của Chính phủ, ngày 4 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ký ban hành Sắc lệnh số 4 lập "Quỹ độc lập" với mục đích "để thu nhận các món tiền và đồ vật của nhân dân sẵn lòng quyên giúp Chính phủ để ủng hộ nền độc lập của Quốc gia". Tiếp sau đó, cũng trong khuôn khổ Quỹ độc lập, Chính phủ đã đề ra biện pháp tổ chức "Tuần lễ Vàng" từ ngày 17 đến 24 tháng 9 năm 1945.[89] Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc nhân dịp "Tuần lễ Vàng", nêu rõ mục đích của việc lập quỹ là "thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu có để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc phòng". Chính phủ đã huy động được tổng cộng 20 triệu đồng và 370kg vàng.[90] Ngân quỹ quốc gia đã có hàng trăm triệu đồng. Riêng tại Hà Nội, trong "Tuần lễ vàng" nhân dân đã góp được 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc cùng tiền bạc và các hiện vật khác, tổng trị giá lên 7 triệu đồng Đông Dương.[91] Số tiền này được dùng để mua vũ khí của quân đội Nhật bị quân đội Trung hoa Dân quốc tịch thu và để hối lộ cho các tướng lĩnh Trung Hoa đang đóng quân tại miền Bắc Việt Nam.[92]

Cùng các hình thức tổ chức "Quỹ độc lập", tuần lễ vàng chính quyền cách mạng còn tổ chức nhiều hình thức khuyến khích để nhân dân có điều kiện tham gia đóng góp cho tài chính đất nước với hình thức tự nguyện như lập "Quỹ kháng chiến", "Quỹ bình dân học vụ", "Quỹ giải phóng quân", "Ngày Nam Bộ"... Sự đóng góp, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân đã góp phần giải quyết khó khăn về tài chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Theo Archimedes L.A Patti, Hồ Chí Minh và các lãnh đạo khác của Việt Minh nhiều lần bày tỏ với ông sự nghi ngại xung quanh vấn đề chủ nghĩa cộng sản có phải là hình thức chính trị phù hợp với Việt Nam hay không. Hồ Chí Minh không tin người Việt đủ trưởng thành về mặt chính trị để có thể chấp nhận chủ nghĩa cộng sản nhưng 1 hình thức dân chủ xã hội chủ nghĩa có cải biên có thể phù hợp hơn.[46] Hồ Chí Minh chủ trương Việt Nam sẽ tự do giao thương với tất cả các nước trên thế giới chứ không chỉ hạn chế vào Pháp hoặc Trung Quốc để tạo ra 1 nền kinh tế thịnh vượng. Ông cũng nghĩ tới vấn đề xây dựng 1 cộng đồng Liên Á bao gồm các nước châu Á độc lập góp phần xây dựng nền hòa bình thế giới và phát triển các chương trình kinh tế, chính trị vì lợi ích chung.[93]

Khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, đa phần dân chúng chỉ biết Hồ Chí Minh mới từ nước ngoài về và là người đứng đầu nhà nước chứ không biết rõ thân thế của ông cũng như khuynh hướng cộng sản của Việt Minh. Họ cũng không có hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, người dân cảm thấy tự hào và vui sướng vì Việt Nam đã giành được độc lập. Đa số dân chúng đều muốn thay đổi. Họ cảm thấy dễ chịu khi được người Việt cai trị hơn là người Pháp.[94]

Trong các tài liệu của Việt Minh những ngày đầu sau độc lập chỉ nhắc đến Việt Minh, tuy nhiên những ngày sau khẳng định Việt Minh bao gồm Đảng Cộng sản và các tổ chức khác, và nhấn mạnh các cuộc khởi nghĩa trước đó như Bắc Sơn, Nam Kỳ. Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản tuyên bố "tự giải tán" [trong khi chiến sự tại Nam Bộ rất ác liệt] đăng tải trên báo Cứu Quốc của Việt Minh ngày 12, kèm tổ chức kỷ niệm ngày sinh Tôn Trung Sơn. Tờ báo đăng tiểu sử nhà đại cách mạng Trung Hoa, cho biết Hồ chủ tịch tham dự chủ tọa buổi lễ do Hội Văn hóa cứu quốc tổ chức, đề nghị nhân dân treo cờ 2 nước. Báo cũng cho biết Hiến pháp "ngăn ngừa sự lũng đoạn chính quyền của một giai cấp, một đảng phái, một cá nhân nào"[95]. Ngày 13 tháng 11 năm 1945 báo Cứu quốc đã tường trình "Vì những kẻ phản bội quyền lợi dân tộc, cố ý không hiểu chính sách của Việt Minh, phao tin trong dân chúng và dèm pha với các nước Đồng minh rằng Việt Minh là cộng sản sẽ thực hành chính sách cộng sản, mục đích chúng gây sự chia rẽ mặt trận dân tộc, và gieo mối hoài nghi trước thế giới"[95]. Trước đó, báo Cứu quốc ngày 21 tháng 9 năm 1945 đã bác bỏ thành lập Mặt trận công nông thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất với lý do "Đã bao năm dưới ách phát xít Nhật - Pháp chẳng những công nhân bị thất nghiệp, nông dân bị phá sản, cả địa chủ cũng bị cướp thóc, cướp đất, tư sản cũng bị đình đốn kỹ nghệ và thương nghiệp; ngoài ra biết bao các từng lớp nhân dân khác đều chung một tai nạn chết đói chết rét. Việt Minh đã liên kết các giai cấp các từng lớp nhân dân đó đánh đuổi kẻ thù chung, giành quyền độc lập tự do cho dân tộc... Quyền lợi của giai cấp công nhân và tư sản, nông dân và địa chủ lúc nào cũng mâu thuẫn nhau, nhưng lúc này phải nhân nhượng nhau, phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết"[96].

Quân đội Đồng Minh vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật

Bài chi tiết: Hoa quân nhập Việt

Theo Hội nghị Potsdam, lực lượng Đồng Minh gồm quân Anh và quân Trung Quốc vào Việt Nam để giải giáp vũ khí Nhật. Mỹ nhường quân đội Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật. Pháp không tin tưởng ở Anh và khối Anglo-Saxon, nhưng được nhượng quyền lợi ở Trung Đông nên Anh ủng hộ Pháp. Theo thỏa thuận, Anh và Trung Hoa Dân Quốc không được có chủ quyền tại Đông Dương.[97] Giải pháp của Mỹ phù hợp với tham vọng của giới cầm quyền Trùng Khánh, bởi Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đã từ lâu nằm trong tầm nhìn của các nhà nước Trung Hoa.[44] Theo Việt Minh, Trung Hoa Dân Quốc muốn hạ bệ chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ủng hộ đồng minh của họ là Việt Nam Quốc dân Đảng lên nắm quyền[98]. Việt Minh cũng xem quyền lợi của Anh trùng hợp với các mục tiêu của Pháp nhằm khôi phục các thuộc địa của họ trước chiến tranh ở Đông Nam Á. Hồ Chí Minh tin rằng hoạt động của các cường quốc Pháp, Anh, Trung Quốc sẽ gây nguy hại cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam.[99] Hồ Chí Minh rất khó chịu về việc phải tiếp đón quân đội Trung Hoa Dân quốc. Ông lo ngại việc 1 lượng lớn người Trung Quốc tràn vào Việt Nam cùng quân đội Nhật đang hiện diện tại Việt Nam sẽ làm cho tài nguyên đất nước cạn kiệt.[100] Vấn đề nghiêm trọng hơn nữa là nếu quân đội Trung Hoa Dân quốc tiếp tế bằng lương thực tại chỗ thì sẽ xảy ra nạn đói. Ông mong muốn Mỹ tiến hành kiểm tra quân đội Trung Hoa Dân quốc và yêu cầu lực lượng này mua bán chứ không trưng thu lương thực và các vật phẩm khác trong thời gian đóng quân tại Việt Nam để tránh xung đột giữa người Việt và quân Trung Hoa Dân quốc.[101]

Ở miền Bắc, ngày 20/8 năm 1945, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch theo sự phân công của phe Đồng Minh tiến vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Theo Việt Minh, đội quân này mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ[98]. Đội quân Quốc dân Đảng Trung Quốc "chạy trốn" Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động cướp bóc trên đường xuống phía Nam đến Hà Nội.[102]. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên Võ Nguyên Giáp mô tả: quân đoàn 62 của Vũ Kim Thành [đi cùng là Việt Cách] tàn phá suốt dọc miền Đông Bắc Bắc Kỳ; lực lượng của Vũ Hồng Khanh [Việt Nam Quốc dân Đảng] và của Nguyễn Tường Tam [Đại Việt] đi theo quân đoàn 93 Vân Nam, cũng tiến hành những bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành lang Tây Bắc từ Lào Cai - Yên Bái, Phú Thọ.[103] Tuy nhiên, quân đội Trung Hoa Dân quốc vẫn để Chính phủ Hồ Chí Minh đóng tại Bắc Bộ Phủ và cộng tác với họ suốt thời gian đóng quân tại Việt Nam nhưng Trung Hoa Dân quốc không công nhận tính hợp pháp và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Chính phủ này.[104]

Trong lễ chào mừng quân Đồng Minh vào Việt Nam giải giáp Nhật do Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức tại Hà Nội ngày 10 tháng 9 năm 1945, tướng Tiêu Văn tuyên bố đối với vấn đề lương thực và nơi đóng quân, Bộ Chỉ huy Trung Quốc sẽ tiếp tế những thứ cần thiết từ nền kinh tế địa phương theo 1 chế độ trưng thu lương thực và dịch vụ nhưng chủ nhân và người bán hàng sẽ được trả tiền theo giá thị trường thỏa thuận và hợp lý.[105] Tướng Tiêu Văn cũng "gợi ý" rằng ở mỗi Bộ trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên đặt 1 sĩ quan chuyên môn người Trung Quốc để tiện liên lạc. Khi gợi ý này được dịch ra, các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở nên căng thẳng, Hồ Chí Minh tin rằng tình hình sẽ rất khó khăn và có chiều hướng hoàn toàn xấu.[106] Quân đội Trung Hoa Dân quốc tại Việt Nam đã lấy ngay những gì họ muốn bất kể đó là của người Pháp, người Việt, người Trung Quốc địa phương, không kể giàu hay nghèo. Tướng Lư Hán tự tiện ấn định tỷ giá hối đoái là 14 quan kim ăn 1 đồng bạc Đông Dương bất chấp sự phản đối của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong khi đồng quan kim đã bị mất giá trầm trọng ở Trung Quốc.[107]

Người Pháp cho rằng quân đội Tưởng cản trở sự trở lại của họ. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, Trung Hoa Quốc Dân Đảng muốn làm thất bại ý đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị tại Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên minh của người Việt Nam với các lực lượng cộng sản Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc [Quốc dân Đảng đã chọn Lư Hán và Tiêu Văn làm đại diện, Hồ Chí Minh coi cả hai như là những tên tướng cướp, đã bỏ tù và giết hại nhiều người Việt Nam vô tội để che đậy cho việc buôn bán bất chính của họ ở biên giới Đông Dương].[108] Hồ Chí Minh tin rằng Trung Quốc có kế hoạch lật đổ chính quyền do ông lãnh đạo để thay thế bằng 1 chính quyền thân Trung Quốc[109], Võ Nguyên Giáp thì mô tả lãnh đạo các đảng phái quốc gia như những người đã bỏ xứ sở mà đi, tự cho mình là những người yêu nước phụng sự cho Chủ nghĩa Quốc gia nhưng thực tế chỉ là "một nhóm phản động đang ra sức thu vén làm giàu cho bản thân" nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, và rằng Trung Hoa Quốc dân Đảng đã tô vẽ cho nhiều "tên phản bội người Việt".

Tưởng Giới Thạch nhận thức rằng vai trò cường quốc của Trung Quốc trong việc đưa quân vào Đông Dương sẽ giúp ông ép Pháp phải chấp nhận các điều kiện do ông đưa ra để giải quyết những xung đột lợi ích giữa Trung Quốc và Pháp nếu Pháp muốn quay lại thuộc địa cũ của mình[110]. Ông không có ý định dính líu vào cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Ông không muốn làm mất lòng Pháp vì Pháp là 1 cường quốc trong khối Đồng Minh. Ông chủ trương rút hết quân về nước ngay sau khi giải giáp Nhật.[111] Trong Tuyên bố của Tưởng đăng trên tờ Trung ương Nhật báo ngày 25 tháng 8 năm 1945 ở Côn Minh có đoạn: "... Tuân theo các điều khoản trong bản hiệp định của Đồng Minh mới đây, ngoài việc phái các lực lượng tới để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trong vùng bắc vĩ tuyến 16, chúng tôi không có tham vọng đất đai ở Đông Dương thuộc Pháp. Chúng tôi mong rằng người Việt Nam sẽ từng bước thực hiện được nền độc lập của họ qua con đường tự trị, và qua đó thực hiện được những điều khoản của Hiến chương Đại Tây Dương..."[112]

Báo Cứu quốc ngày 17 tháng 9 năm 1945 cũng đăng ý kiến của Tưởng Giới Thạch "Quân đội Trung Hoa kéo vào Việt Nam không có dã tâm gì về đất đai và chủ quyền của người Việt Nam" và Lư Hán "Nước Việt Nam căn bản là của người Việt Nam"[113]

Tuy nhiên trong 1 tuyên bố khác, Tưởng Giới Thạch lại công nhận chủ quyền của Pháp đối với Đông Dương và Trung Quốc sẽ cộng tác với Pháp để giải quyết vấn đề quyền lợi Trung - Pháp tại Đông Dương. Tuyên bố không đề cập đến phong trào độc lập của người Việt Nam và việc thành lập Chính phủ Lâm thời do Việt Minh lãnh đạo.[114]

Sĩ quan Scott-Bell của Hải quân Hoàng gia Anh đối thoại với Đô đốc Kondo của Nhật Bản sau khi quân Đồng minh tái chiếm Sài Gòn

Tướng Lư Hán xem lập trường của Tưởng là thiển cận vì đi ngược lại các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương đã được Trung Hoa Dân Quốc cam kết ủng hộ. Lư Hán chủ trương đóng quân tại miền Bắc Việt Nam lâu dài, đặt Việt Nam dưới sự bảo trợ của Trung Hoa Dân Quốc để Việt Nam có thể độc lập mà không cần đến sự ủng hộ của Pháp. Trong suốt thời gian đóng quân tại miền Bắc Việt Nam, Lư Hán dùng mọi khả năng của mình để làm thất bại mọi kế hoạch của Pháp giành lại quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam.[111] Người Pháp được đối xử như những người ngoại quốc khác, Pháp không được cử đại diện tham gia vào lễ đầu hàng của Nhật với tư cách 1 nước trong khối Đồng Minh, các chỉ huy Pháp tại Hà Nội cũng không được Lư Hán công nhận là đại diện của chính phủ De Gaulle. Bộ phận OSS của Mỹ tại miền Bắc Việt Nam cũng từ chối giúp các chỉ huy Pháp thiết lập 1 hành dinh tại Việt Nam.[115] Trước đó OSS đã được lệnh của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt không để cho Pháp tái chiếm Đông Dương, không được cung cấp vũ khí hay tiếp tế cho Pháp ngoại trừ để thực hiện những mục tiêu chống Nhật đã được Đồng Minh tán thành.[116]

Tạ Quang Bửu cho rằng: mặc dù Tưởng thừa nhận là đứng trung lập, nhưng ở Trung Quốc vẫn có 2 lực lượng đấu tranh với nhau. Quốc dân Đảng Trung Quốc cho việc chiếm đóng là 1 cơ hội để ép Paris phải nhân nhượng. Các tướng địa phương, đặc biệt là Lư Hán, lại coi việc chiếm đóng là 1 dịp để cướp đoạt, gây dựng 1 nguồn cung cấp hàng hóa và thị trường lâu dài để buôn lậu, đồng thời mở rộng quyền sở hữu của họ ra vùng ngoài biên giới Trung Quốc. Trong chính sách 14 điểm của quân Trung Hoa Dân quốc, có 4 điểm thường gây ra sự bực bội cho tướng Lư Hán và Pháp.[117] Hồ Chí Minh cho rằng mục tiêu trước mắt của Quốc dân Đảng Trung Quốc là giữ người Pháp đứng ngoài Đông Dương và ủng hộ phong trào Quốc gia tại Việt Nam cho đến khi đàm phán xong với Pháp. Theo ông, khi nào 1 chế độ thân Trung Quốc còn nắm quyền thì Pháp không thể lật đổ chính quyền Việt Nam tại miền Bắc.[118]

Tại miền Nam, lực lượng Anh do Thiếu tướng Douglas D. Gracey chỉ huy đổ bộ vào Sài Gòn để thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Lực lượng Anh có nhiệm vụ chiếm giữ các bộ chỉ huy thuộc Hành dinh Tập đoàn quân Nam của Nhật Bản và vùng Sài Gòn Chợ Lớn, giúp đỡ tù binh và tù dân sự, giải giáp và tập trung quân Nhật, duy trì luật pháp và trật tự, chỉ huy các quân nhân Pháp tại miền Nam. Tuy nhiên, lực lượng này không có trách nhiệm giữ trật tự ngoài các khu vực được phân công căn cứ vào nhu cầu giải giáp và hồi hương quân Nhật nếu nhà chức trách Pháp không yêu cầu và phải được sự đồng ý của Tổng Tư lệnh Tối cao quân đội Đồng Minh. Việc giữ trật tự tại các khu vực ngoài tầm kiểm soát của quân Anh sẽ do quân đội Nhật phụ trách. Tuy nhiên, Thiếu tướng Gracey xem những rối loạn tại Nam Kỳ là tình trạng vô chính phủ cần chấn chỉnh. Ông ra lệnh cho quân đội Nhật tước vũ khí của người Việt Nam, đuổi Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ ra khỏi Dinh Toàn Quyền ở Sài Gòn.[119]

Lễ đầu hàng của quân Nhật tại sân bay Tân Sơn Nhất

Trước việc quân Đồng Minh vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đề kháng thụ động đối với quân đội các nước Đồng Minh. Chính phủ của ông công khai ủng hộ nhiệm vụ giải giáp quân Nhật của họ và sẵn sàng giúp đỡ họ về mọi mặt. Ông cố gắng tránh những xung đột giữa người Việt và quân đội Trung Hoa Dân quốc tại miền Bắc, nếu cần thì sẽ chấm dứt cộng tác với quân đội này, tổ chức bãi công, bãi thị và sơ tán dân thành thị về nông thôn. Tại miền Nam không để xảy ra những rối loạn khiến người Anh can thiệp vào tình hình chính trị Việt Nam, cản trở hoạt động của Việt Minh. Ông cũng ra lệnh cho Trần Văn Giàu không được xâm phạm đến thân thể và tài sản của thường dân Pháp, không để xảy ra xung đột với các quân nhân Pháp tại miền Nam, cộng tác với quân đội Anh trong việc duy trì trật tự công cộng và hoạt động hành chính nếu như Anh không can thiệp vào công tác điều hành của Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Trần Văn Giàu ra lời kêu gọi nhân dân Nam Kỳ cộng tác với quân đội Đồng Minh theo chủ trương của Hồ Chí Minh.[120]

Lễ đầu hàng của Nhật được Trung Hoa Dân Quốc tổ chức ngày 28 tháng 9 năm 1945. Khách mời bao gồm các nhà chức trách quân sự và dân sự Trung Quốc, các chỉ huy quân đội Đồng Minh, các sĩ quan OSS, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nội các của ông, các sĩ quan Pháp. Người Pháp và người Việt Nam cố tình vắng mặt không tham dự. Tại buổi lễ có treo cờ Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc, Anh nhưng không treo cờ Pháp và Việt Nam. Phía Pháp đã yêu cầu tướng Lư Hán treo cờ Pháp nhưng ông này từ chối với lý do ở miền Bắc Việt Nam đang có phong trào chống Pháp. Sau khi tướng Nhật Tsuchihashi ký vào Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh, văn kiện này được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Việt sau đó được đọc trước buổi lễ dù cả người Pháp và người Việt đều không tham dự.[121]

Pháp quay trở lại Đông Dương

Nước Pháp chưa bao giờ tỏ ra một chút gì muốn "giải thoát" cho thuộc địa cũ của nó. Mục tiêu của Pháp được các viên chức Mỹ 3 lần chính thức cam kết ủng hộ. Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Welles đã viết ngày 13 tháng 4 năm 1943, trong 1 lá thư gửi cho Henri Haye, đại sứ Pháp ở Washington: "Chính phủ Mỹ thừa nhận chủ quyền của người Pháp đối với lãnh thổ nước Pháp và đối với những thuộc địa của Pháp ở Hải ngoại... [và] nồng nhiệt hy vọng nước Pháp sẽ có thể khôi phục được nền độc lập của nước Pháp và sự toàn vẹn lãnh thổ của Pháp"; và đến tháng 11, 1 viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại giao ở Bắc Phi, Robert Murphy, đã viết cho Giraud rằng "Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ chủ quyền nước Pháp sẽ được phục hồi càng sớm càng tốt trên toàn bộ lãnh thổ, chính quốc và thuộc địa, trên đó cờ nước Pháp đã tung bay vào năm 1939. Hiệp định Clark - Darlan về cuộc tấn công của chúng ta vào Bắc Phi cũng đã ghi nhận sự đồng ý giữa hai bên rằng các lực lượng của Pháp sẽ "giúp đỡ và ủng hộ" Đồng minh trong việc phục hồi toàn bộ Đế quốc Pháp".

1 năm sau, chính phủ Pháp lưu vong ["nước Pháp tự do"] của tướng Charles de Gaulle quyết định đến lúc phải bảo đảm cho nước Pháp sau chiến tranh 1 vị trí trong các nước Đồng minh khi ký hoà ước kết thúc chiến tranh. Để đạt được mục đích của mình, tháng 10 năm 1943, Pháp đệ trình Đại bản doanh Đồng minh [AFHQ], những yêu cầu về việc trang bị cho quân đội viễn chinh Đông Dương của Pháp [CEFEO] để sẵn sàng hành động vào mùa thu 1944.[122]

Ngày 2 tháng 5 năm 1945, tại Hội nghị San Francisco, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp G. Bidault tuyên bố chỉ có Pháp mới có quyền quyết định tương lai Đông Dương. Ông này khẳng định rằng quyền ủy trị có thể áp dụng trên các thuộc địa khác chứ không thể áp dụng cho Đông Dương.[123] Nhưng Pháp không được tham gia vào cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Nhật về việc Nhật đầu hàng Đồng Minh vì Pháp không tham gia vào chiến tranh Thái Bình Dương chống Nhật.[124]

Thống chế De Gaulle của Pháp là một người Pháp yêu nước, nhưng ông ta lại không hiểu được các dân tộc thuộc địa cũng có lòng yêu nước của họ. Trong một văn bản ghi ngày 4/9/1945, Thống chế De Gaulle viết cho Đô đốc Argenlieu về việc chuẩn bị tái chiếm thuộc địa Pháp ở Đông Dương[125]:

“Đô đốc thân mến, chúng ta còn một miếng bánh lớn cần giành lại, một phần lớn cần tham gia. Dành cho ngài đó! Hãy tiến lên”

Tháng 9 năm 1945, cựu hoàng Nguyễn Phúc Vĩnh San sau khi được De Gaulle đồng ý trở lại Việt Nam trên cương vị Hoàng đế, đưa ra đề xuất thẳng thừng đòi hỏi sự thống nhất của 3 kỳ [Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ], nền độc lập của đất nước thông qua thời gian, liên kết cần thiết và hữu cơ giữa Việt Nam, Campuchia và Lào. De Gaulle đã không đưa ra lời phản đối. Ngày 4 tháng 12 năm 1945, với mong muốn đất nước thống nhất và độc lập trong một thời gian ngắn, cựu hoàng Duy Tân đã có cuộc đàm phán với De Gaulle, mong muốn lá cờ Pháp và cờ 3 màu và 3 thanh đại diện 3 kỳ sẽ bay ở Việt Nam. Ngày 24 tháng 12, máy bay chở Duy Tân gặp nạn tại Trung Phi, những người đi trên máy bay đều thiệt mạng. Ngay sau vụ tai nạn, De Gaulle nói với Palewski: "Đó là sự thật, nó cho thấy Pháp không có cơ hội.". Sự kiện này làm nhiều người trong chính giới Pháp cho rằng cần đối thoại với các lực lượng chính trị bản xứ, bao gồm cả Việt Minh. Trước đó ngày 10 tháng 8, Pháp đã gửi thông điệp đề xuất giải pháp 1 Cao ủy Pháp bổ nhiệm Bộ trưởng được chấp nhận bởi quốc hội Việt Nam và độc lập "được trao cho đất nước này trong tối thiểu 5 năm và tối đa là 10 năm" và ngày 15 tháng 8 Pháp tuyên bố đàm phán với Việt Minh sẽ chỉ khúc dạo đầu "để tham khảo ý kiến ​​rộng rãi của tất cả các bên Đông Dương" và rằng nó sẽ tiến tới 1 bản Hiến pháp mới sẽ làm rõ "nhiều khả năng để đáp ứng nguyện vọng của các dân tộc Đông Dương trong sự độc lập trong Liên hiệp Pháp".[60]

Ở miền Nam Việt Nam, chỉ 4 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, phái bộ quân sự Anh đã có mặt ở Sài Gòn, theo sau là liên quân Anh-Pháp. Quân Anh theo lệnh Đồng Minh vào giám sát quân Nhật đầu hàng nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho quân Pháp vào Nam Bộ. Chính phủ lâm thời của Cộng hòa Pháp muốn khôi phục lãnh thổ Đông Dương với cơ chế tự trị. Ngày 19 tháng 9, Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền tại miền Nam. Ngày 23 tháng 9, với sự giúp đỡ của quân Anh, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát Sài Gòn [ngày này sau được Việt Nam gọi là ngày Nam Bộ Kháng chiến]. Nước Việt Nam vừa giành được độc lập đã phải đối đầu với quân đội nước ngoài.

Ngày 25 tháng 9, ở khu Hérault tại Tân Định ngoại ô Sài Gòn, khoảng 300 người Pháp bao gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị lực lượng Bình Xuyên bắt cóc và 1/2 trong số họ bị giết, số còn lại được thả sau khi đã bị đánh đập, tra tấn.[126]

Từ cuối tháng 9 năm 1945, các đoàn quân "Nam tiến" của Vệ quốc đoàn [quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa] bắt đầu lên đường vào Nam tiếp viện. Các tướng lĩnh quan trọng như Nguyễn Bình, Nguyễn Sơn... được cấp tốc cử vào Nam.

Ngày 9 tháng 10, Anh chấp thuận Cục Dân sự Pháp là cơ quan duy nhất ở Đông Dương về phía Nam vĩ tuyến 16.[127] Ngày 7 tháng 1 năm 1946, Pháp và Vương quốc Campuchia ký hiệp ước chấp thuận Vương quốc Campuchia là quốc gia tự trị, thành viên Liên hiệp Pháp. 1 hiệp ước tương tự được ký với Vương quốc Lào ngày 27 tháng 8.[128].

Ngày 9 tháng 10, tướng Pháp Leclerc đến Sài Gòn, theo ông là lực lượng gồm 40.000 quân Pháp để chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ.

Ngày 23/10 quân Pháp nổ súng tấn công thị xã nha Trang. Binh lực của Pháp tại khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên được điều động khoảng 15.000 người, đa phần dồn hỏa lực tấn công vào tỉnh Khánh Hòa, hòng đè bẹp phòng tuyến 4000 quân Việt Minh ở đây [Sau 3 tháng phòng tuyến Nha Trang tan vỡ, Pháp chiếm thành công nơi này].

Trong các tháng 11-12 năm 1945 và tháng 1 năm 1946, lực lượng Việt Minh tại các tỉnh Nam Bộ đã chiến đấu ngăn chặn làm chậm bước tiến của quân Pháp. Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, sau một thời gian, các lực lượng này đều phải rút ra những căn cứ đầm lầy và rừng núi, xây dựng chiến khu để bảo tồn lực lượng cho kháng chiến lâu dài.

Tại Lào, 1 chính phủ nhân dân phi cộng sản thành lập tháng 10 năm 1945. Tuy nhiên vua Sisavang Vong chấp thuận nền quân chủ lập hiến trong Liên hiệp Pháp và từ ngày 13 tháng 5 năm 1946, tất cả các văn bản từ khi Nhật chiếm đóng Lào vô hiệu.

Sự chia rẽ giữa các đảng phái

Trước năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng phái Quốc gia khác tuy có ý thức hệ khác nhau nhưng vẫn có chung nền tảng giáo dục, thường xuyên có sự hợp tác và đôi khi có cùng quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Trong giai đoạn 1924-1927, ở miền Nam Trung Quốc, các nhóm người Việt chống thực dân Pháp đa dạng tương tác với nhau, với cả người Trung Quốc, Triều Tiên và các dân tộc khác. Từ 1941-1944 ở miền nam Trung Quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Nam Quốc Dân Đảng [Việt Quốc] và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội [Việt Cách] cùng tham gia vào mặt trận chống Nhật, đôi khi tố giác nhau với chính quyền Trung Quốc, nhưng không bắt cóc hoặc ám sát lẫn nhau. Chính sự cạnh tranh để kết nạp thành viên, thu nhận viện trợ cũng như sự bảo trợ của người Trung Quốc, hơn là sự khác biệt về ý thức hệ, mới là nguyên nhân khiến căng thẳng giữa các tổ chức lưu vong gia tăng. Trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng từng hợp tác với những người Trotskyist tại Nam Kỳ trong giai đoạn 1933-1937.[129] Các bên sau đó chỉ trích nhau chẳng hạn thành viên của Quốc tế thứ ba [Đảng Cộng sản Đông Dương] và Quốc tế thứ tư [những người Trotskyist] cáo buộc lẫn nhau là phục vụ lợi ích đế quốc. Ban đầu cuộc tranh đấu chỉ trong phạm vi báo chí, truyền thông. Đến năm 1945 thì các phe phái đã dùng vũ lực để tấn công lẫn nhau. Quốc dân Đại hội Tân Trào do Việt Minh tổ chức ngày 16 tháng 8 năm 1945, trước khi Việt Minh nắm chính quyền, xác định 10 chính sách lớn trong đó chính sách đầu tiên là "Phản đối xâm lược; Tiêu trừ Việt gian. Lập nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập". Trong thời điểm đặc biệt khó khăn cần sự đoàn kết giữa các lực lượng chính trị tại Việt Nam thì Việt Minh và các đảng phái, tôn giáo khác như Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, những người Trotskyist, Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài... bị chia rẽ nghiêm trọng, xoay quanh các tranh cãi về đường lối ứng phó trước quân đội Trung Hoa và quân Pháp.

Miền Nam

Tại miền Nam, sự lãnh đạo của Việt Minh không vững như tại miền Bắc. Những người Trotskyist đang kiểm soát ngành cảnh sát và các tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài có ác cảm với Việt Minh. Các giáo phái được Nhật hỗ trợ phát triển phong trào chính trị của họ mạnh mẽ. Cao Đài đông hàng triệu người, tỉnh nào cũng có, họ tập trung ở Sài Gòn đến mấy vạn làm công nhân và làm binh lính. Lực lượng Cao Đài có Đảng Phục Quốc của Trần Quang Vinh. Hòa Hảo đông hàng chục vạn người, nhiều nhất là ở Hậu Giang, tập trung tại Sài Gòn đến vài ngàn. Hòa Hảo có chính đảng là Dân Xã Đảng. Giáo phái Tịnh độ cư sĩ có hàng vạn quần chúng, họ không tập trung lên Sài Gòn, nhưng làm cơ sở quần chúng cho Quốc gia Đảng. Phe Trotskyist không có đông quần chúng nhưng 1 cánh Trotskyist là cánh Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Văn Phương cầm đầu Sở Mật thám và Sở Cảnh sát Nam Kỳ tạo thế cho các cánh khác hoạt động. Nhiều tổ chức khác có năm bảy trăm, vài ba ngàn người hợp tác với Sở Sen đầm Kempeitai của Nhật. Đảng viên bí mật Đảng cộng sản Đông Dương Phạm Ngọc Thạch được Thống đốc Nam Kỳ Minoda Fujio và Tổng lãnh sự Nhật Ida mời tổ chức Thanh niên Tiền phong. Lực lượng này chỉ riêng tại Sài Gòn đã có hơn 20 vạn người và phát triển hơn 1 triệu đoàn viên trong toàn cõi Nam Kỳ.[130]

Tháng 3 năm 1945, nhóm Trotskyist ra tuyên bố lên án Đảng Cộng sản Đông Dương, nhóm Stalinist của Quốc tế thứ ba, đã từ bỏ giai cấp công nhân để nhóm mình thảm hại dưới các đế quốc "dân chủ", phản bội những người nông dân và không còn nói về vấn đề ruộng đất; đồng thời tuyên bố "cuộc đấu tranh độc lập dưới lá cờ của Quốc tế thứ tư", "ủng hộ cách mạng thế giới". Ý nghĩa chính của họ là làm suy nhược Đảng Cộng sản Đông Dương tại Nam Kỳ và để làm giảm hiệu quả của Việt Minh ở đó.[131] Người Trotskyist cũng đấu tranh vì độc lập dân tộc nhưng lại chủ trương vũ trang quần chúng, xóa bỏ tàn dư của chế độ thực dân Pháp, chống lại nỗ lực của các nước Đồng Minh khôi phục chủ quyền của Pháp và thi hành ngay các cải cách xã hội còn Việt Minh vẫn chấp nhận cơ cấu chính quyền cũ, sẵn sàng thương lượng với Đồng Minh và cải cách xã hội từng bước để tránh sự thay đổi đột ngột về kinh tế xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp gắn liền với nó.[132] Theo Trần Huy Liệu, tại hội nghị Quốc dân Đại hội Tân Trào tháng 8 năm 1945 ở Tân Trào, Sơn Dương, tất cả đại biểu của các đảng phái tham dự đã thống nhất cuộc cách mạng giải phóng dân tộc sẽ theo khuynh hướng dân chủ, không dùng bạo lực và lập ra 1 mặt trận thống nhất có kỷ luật của tất cả các đảng phái để ra mắt Đồng Minh. Tuy nhiên một số đảng phái ở miền Nam đã không thấy hết sự quan trọng của việc duy trì trật tự xã hội trong giai đoạn chuyển tiếp này.[133]

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Quốc gia Thống nhất được thành lập quy tụ nhiều tổ chức cách mạng tại miền Nam Việt Nam như Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng, Thanh niên Tiền phong, Tịnh độ cư sĩ Phật giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, Liên đoàn công chức, nhóm Tranh đấu của những người Trotskyist... Ngày 21 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Quốc gia Thống nhất tổ chức biểu tình biểu dương lực lượng tại Sài Gòn. Ngày 22 tháng 8 năm 1945, Thanh niên Tiền phong rời khỏi Mặt trận Quốc gia Thống nhất để gia nhập Việt Minh. Ngay sau đó, Việt Minh treo biểu ngữ "Chánh quyền về Việt Minh" khắp Sài Gòn, rải truyền đơn tuyên bố Việt Minh được phe Đồng Minh ủng hộ và kêu gọi nhân dân ủng hộ chính quyền do Việt Minh thành lập. Lãnh tụ các đảng phái quốc gia tại miền Nam Việt Nam hoàn toàn bất ngờ trước ý định đơn phương thành lập chính quyền của Việt Minh.[134]

Tại Sài Gòn, xảy ra các xung đột giữa người Việt và người Pháp khiến một số người của cả hai bên chết. Báo Dân chúng của Việt Minh kêu gọi nhân dân bình tĩnh, tái lập trật tự và biểu thị sự trưởng thành chính trị đồng thời lên án những đảng phái quốc gia đã gây rối loạn và phá hoại sự nghiệp độc lập dân tộc bằng cách tấn công "những người Việt Nam yêu chuộng hòa bình". Dương Bạch Mai, Ủy viên trưởng Quốc gia Tự vệ Cuộc, ra lệnh tước vũ khí của 2 giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo nhưng không đạt kết quả. Các báo chí chống cộng được những người Trotskyist hỗ trợ đáp trả bằng cách kết tội Trần Văn Giàu và đồng sự thân Pháp, có mưu đồ khôi phục nền cai trị của Pháp, phản bội sự nghiệp giải phóng dân tộc.[135] Sainteny nhận định Việt Minh đã mất khả năng kiểm soát tình hình, việc Việt Nam trở nên hỗn loạn chỉ là vấn đề thời gian không phải vì xung đột với Pháp mà vì người Việt tự đánh lẫn nhau. Người Pháp sẽ bị kẹt giữa cuộc chiến đó của người Việt. Tình hình chỉ có thể được cứu vãn nếu người Anh hoặc Trung Quốc đến kịp thời.[136]

Đêm 22 tháng 8 năm 1945, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Kỳ [thuộc chính phủ De Gaulle] Jean Cédile nhảy dù xuống gần Biên Hòa và bị nông dân bắt giữ giao cho quân đội Nhật. Sau đó ông được thả ra.[137] Ngày 27 tháng 8 năm 1945, Cédile gặp Trần Văn Giàu để bàn về tương lai của Việt Nam. Cédile đề nghị tương lai chính trị của Việt Nam chỉ được bàn sau khi người Pháp đã khôi phục quyền hành và phải được đặt trong khuôn khổ Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của Pháp [theo đó Pháp có chủ quyền trên toàn Đông Dương], còn Giàu giữ quan điểm Pháp trước hết phải công nhận nền độc lập của Việt Nam rồi mới bàn tới quan hệ giữa Việt Nam và Pháp. 2 bên không đi đến thống nhất về vấn đề này. Khi biết được điều này, những người Trotskyist tố cáo Việt Minh là bán mình cho Pháp và phản cách mạng.[138]

Trong tháng 8 năm 1945, những người Trotskyist đưa ra 1 chương trình cách mạng xã hội. Họ cùng với các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên khuyến khích nông dân tước đoạt tài sản và chia nhau ruộng đất của địa chủ. Nhiều địa chủ bị nông dân giết. Việt Minh phản đối việc xúi giục nông dân chiếm ruộng đất của địa chủ và tuyên bố: "chúng tôi chưa làm cách mạng cộng sản chủ nghĩa nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất. Chính phủ hiện nay chỉ là chính phủ dân chủ vì thế không có nhiệm vụ nói trên. Tất cả những người nào xúi giục nông dân chiếm tài sản của địa chủ sẽ bị trừng trị nghiêm khắc".[139]

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Sài Gòn, những người lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn, theo chỉ thị của Hà Nội hoặc muốn biểu thị 1 sự đoàn kết với Hà Nội, đã tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ nhân Ngày Độc lập. Nhưng các lãnh tụ Việt Minh kinh ngạc khi thấy trong đám quần chúng khoảng 20 vạn người đi diễu hành dọc phố Catinat, các đảng phái chính trị hợp thành liên minh miền Nam, trương lên những biểu ngữ, bích trương đầy tính chất tranh giành chia rẽ đảng phái. Khi người biểu tình đến trước cửa Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn thì có tiếng súng nổ từ phía Câu lạc bộ Pháp. Cuộc biểu tình biến thành 1 sự hỗn loạn. Không điều tra thủ phạm vụ nổ súng, cảnh sát Việt Nam đã bắt ngay hàng trăm người Pháp và thân Pháp. Bọn lưu manh thừa cơ hội cướp bóc một số nhà hàng người Hoa và Pháp. Các đảng phái nghi ngờ nhau đem đến 1 tương lai chính trị bấp bênh cho đất nước.[140] Vụ nổ súng làm thiệt mạng 4 người Pháp và 14 người Việt. Cảnh sát không tìm ra được thủ phạm vụ nổ súng.[141]

Ngày 7 tháng 9 năm 1945, tờ Báo Tranh đấu, cơ quan ngôn luận của những người Trotskyist đăng 1 bài xã luận chỉ trích Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ không có những biện pháp bảo đảm an toàn cho cuộc biểu tình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Sài Gòn khiến một số người chết. Sau đó, ngày 8 tháng 9 năm 1945, Trần Văn Giàu thay mặt Ủy ban Hành chính Lâm thời ra thông cáo tố cáo những kẻ khiêu khích [ám chỉ những người Trotskyist và các giáo phái] đã phá hoại trật tự và gây đổ máu vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, đồng thời chỉ trích việc họ đã tổ chức một cuộc biểu tình đòi vũ trang cho quần chúng. Bản thông cáo nhắc nhở rằng quân đội Nhật mặc dù đã bại trận nhưng theo thỏa thuận với Đồng Minh vẫn có trách nhiệm duy trì trật tự cho đến khi Đồng Minh tới. Tổng Hành dinh Nhật có thể tước vũ khí bộ đội quốc gia, cấm các phong trào chính trị gây rối loạn trị an, cấm các cuộc biểu tình không được phép trước Tổng Hành dinh Nhật, tước vũ khí dân chúng. Thông cáo kêu gọi người dân vì lợi ích quốc gia hãy tin cậy Ủy ban Hành chính Lâm thời, đừng để bọn phản bội tổ quốc lôi kéo. Chỉ như vậy việc đàm phán giữa phong trào độc lập của Việt Nam với Đồng Minh mới thuận lợi.[142]

Ngay sau đó, những người Trotskyist và các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài công khai thách thức Ủy ban Hành chính Lâm thời. Họ tổ chức biểu tình yêu cầu cấp vũ khí cho dân chúng và kêu gọi mọi người chống lại quân đội Anh. Các Ủy ban Nhân dân địa phương ủng hộ yêu sách của các tổ chức này. Tại các tỉnh đã xảy ra xung đột vũ trang giữa bộ đội Việt Minh và các đơn vị quân sự của Cao Đài và Hòa Hảo. Phe đối lập kết tội Việt Minh phản bội, từ chối không giao nộp vũ khí và đòi Giàu từ chức.[143]

Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Việt Minh cải tổ Ủy ban Hành chính Lâm thời. Trần Văn Giàu từ chức nhường chỗ cho Phạm Văn Bạch. Số thành viên thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương rút từ 6 [trong số 9 người] xuống còn 4 [trong số 13 người]. Trong Ủy ban Hành chính Lâm thời mới có 1 thuộc Cao Đài, 1 người Trotskyist, 2 thuộc Hòa Hảo, 3 người không đảng phái, 2 người thuộc các đảng phái quốc gia khác. Tuy nhiên sự cải tổ này không đem lại ổn định cho miền Nam. Ủy ban mới nhanh chóng sụp đổ chưa đầy 2 tuần lễ sau do các cuộc tranh cãi đảng phái và nỗi lo sợ các đội vũ trang của Việt Minh.[144]

Miền Bắc

Tại miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem những đảng phái quốc gia thân Trung Hoa Dân Quốc như Việt Cách, Việt Quốc là bọn quốc gia giả hiệu, đầy tớ Quốc dân Đảng, không có liên hệ gì với nhân dân Việt Nam. Ông miêu tả họ là những người không có tổ chức, 1 nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng phái quốc gia cũ không có chương trình hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lãnh tụ.[145] Theo sử gia Trần Trọng Kim thì Việt Quốc, Việt Cách có thế lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ[146], tuyên truyền nhiều mà không làm được việc gì đáng kể[147]. Sĩ quan OSS [Cơ quan tình báo Mỹ] Archimedes L.A Patti mô tả: "họ mang theo cao vọng là sẽ nắm trọn quyền lãnh đạo đất nước nhưng lại quá kém về tổ chức và không có được một chương trình hành động ra hồn. Họ đã sống tập trung nhiều năm ở Quảng Tây dưới sự che chở của Trương Phát Khuê và ngẫu nhiên trở nên chống Pháp. Liên minh Đồng minh Hội đầy tham vọng và rạn nứt, đã bị lạc lõng. Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt cũng tách khỏi liên minh và tìm cách giành cho mình quyền lãnh đạo... Sự chia rẽ đã làm lợi cho Việt Nam suốt trong 6 tháng sau và những người Quốc gia thân Trung Quốc đã tự mình cô lập khỏi đông đảo quần chúng, đúng như Hồ Chí Minh đã dự đoán."[148]

Trong suốt thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ có Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội [Việt Cách] mà các đảng phái chống thực dân Pháp lưu vong tại miền Nam Trung Quốc nhận được sự công nhận và hỗ trợ của tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh quân khu IV [Quảng Đông - Quảng Tây]. Tuy nhiên, từ tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo Việt Minh hoạt động tại các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc mà không lấy danh nghĩa Việt Cách khiến tướng Tiêu Văn [cấp dưới của Trương Phát Khuê phụ trách vấn đề Đông Dương] khó chịu. Tiêu Văn ủng hộ lãnh đạo Việt Cách là Nguyễn Hải Thần [người được kính trọng vì từng là đồng chí của Phan Bội Châu] tập hợp hàng trăm người Việt lưu vong để cùng quân đội Trung Hoa Dân quốc vượt biên giới tấn công quân Nhật. Tuy nhiên, khi Nhật bất ngờ đầu hàng Đồng Minh, Tưởng Giới Thạch giao cho Lư Hán nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Lư Hán không có quan hệ với Việt Cách cũng như các đảng phái lưu vong khác của người Việt nhưng chấp nhận cho Tiêu Văn tham gia quân đội của ông.[149]

Ngày 1 tháng 9 năm 1945, tại Móng Cái, Việt Cách thành lập Chính phủ Quốc gia lâm thời Việt Nam do Nguyễn Hải Thần đứng đầu. Sau đó Việt Cách thông báo với Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rằng Trung Hoa Dân quốc và phe Đồng Minh đã công nhận hiệu kỳ của Việt Cách là lá cờ của tất cả các đảng cách mạng Việt Nam. Trên đường tiến vào Hà Nội và Hải Phòng, Việt Cách để cán bộ lại tại các tỉnh họ đi qua khiến Nguyễn Hải Thần khi về đến Hà Nội chỉ có 1 nhóm cận vệ bên cạnh.[150]

Trong 2 ngày 18-19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí mật với Việt Cách [18 tháng 9 năm 1945] và Việt Quốc [ngày 19 tháng 9 năm 1945]. Trong 2 cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Cách và Nguyễn Tường Tam đại diện Việt Quốc đề nghị Hồ Chí Minh đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Qua đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo sẽ nhận được sự ủng hộ về tài chính và chính trị của Trung Hoa Dân quốc. Võ Nguyên Giáp dứt khoát không đồng ý. Theo ông, những đề nghị đó không có giá trị và không thật thà, nó chẳng khác gì thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung Quốc, nhân dân sẽ "chẳng bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính nghĩa của họ để đổi lấy đô la Trung Quốc".[151]

Lực lượng Việt Nam Quốc dân Đảng [Việt Quốc] bao gồm những đơn vị vượt biên giới Trung Quốc tiến vào Việt Nam cùng quân đội Trung Hoa Dân quốc, các chi bộ đảng tại Công ty Đường sắt Đông Dương, Sở Bưu điện và Viện Đại học Đông Dương, các đảng viên Việt Quốc mới ra tù và các thành viên Đại Việt đang muốn liên kết với Việt Quốc. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương đánh giá Việt Quốc còn cao hơn Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskyist hay các đảng phái khác.[152]

Đầu tháng 9 năm 1945, Vũ Hồng Khanh, người đứng đầu Việt Quốc, sau nhiều lần bị Trung Quốc cản trở từ Vân Nam, Trung Quốc về đến Hà Nội ngày 20 tháng 10 năm 1945. Trong khi ông vắng mặt, 1 nhóm đảng viên Việt Quốc sẵn sàng hợp tác với Việt Minh đã thành lập 1 ủy ban nhằm tái cơ cấu lại Việt Quốc. Vũ Hồng Khanh làm ngơ việc này. Nguyễn Tường Tam ở lại Trung Quốc trong suốt năm 1945 để vận động Trung Quốc và Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam nhưng không thành công. Vì vậy tài năng báo chí của Tam không được sử dụng.[153]

Việt Quốc xuất bản Báo Việt Nam ra số đầu tiên ngày 15 tháng 11 năm 1945, trên trang nhất của số đầu tiên tuyên bố Việt Quốc kế thừa sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông hy sinh năm 1930 đồng thời cáo buộc Hồ Chí Minh quay lưng với Mặt trận thống nhất [1942-1945] bằng cách đơn phương giành chính quyền vào tháng 8 năm 1945. Bài báo cho rằng Việt Quốc hoàn toàn có thể lật đổ Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng vì lợi ích quốc gia nên họ không làm. Việt Quốc cũng tuyên bố Việt Minh đang "theo đuổi 1 chính sách sai lầm, thiếu hiệu quả, vì theo chủ nghĩa cực đoan nên đánh mất bạn bè quốc tế, khủng bố các đảng phái cách mạng khác, không xử lý nổi các vấn đề kinh tế và hoàn toàn thụ động trước việc Pháp đổ bộ vào miền Nam". Việt Quốc kêu gọi các đảng phái gạt bỏ bất đồng để thành lập Chính phủ liên hiệp lãnh đạo nhân dân giành độc lập, kêu gọi các thành viên Việt Minh hãy nhận thức rằng lãnh đạo của họ đang đưa đất nước đến thảm họa và sử dụng họ vào các mục tiêu quyền lực tham lam, ích kỷ. Trong 6 tuần sau, Báo Việt Nam hiếm khi sử dụng cụm từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nếu có dùng thì cũng để trong ngoặc kép đồng thời không thừa nhận quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Họ buộc tội Hồ Chí Minh là độc tài, Việt Minh là băng đảng phát xít và vẽ một số tranh biếm họa chỉ trích Hồ Chí Minh. Họ cũng tố cáo Tổng bộ Việt Minh lừa bịp, tống tiền, bắt cóc đối thủ và tổ chức các cuộc tấn công vũ trang vào văn phòng Việt Quốc. Họ cũng chỉ trích Báo Cứu quốc của Việt Minh. Báo Việt Nam rất ít nói về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngoại trừ thường xuyên lên án lực lượng an ninh và Bộ Tuyên truyền. Báo Việt Nam lưu hành rộng rãi tại các tỉnh với sự giúp đỡ của các đảng viên Việt Quốc và các cảm tình viên ở Sở Bưu điện và Công ty Đường sắt Đông Dương. Các chính quyền địa phương thường xuyên tịch thu Báo Việt Nam và bắt giữ những người đọc báo này.[154]

Ngày 20 tháng 1 năm 1946, Nguyễn Tường Tam và Nghiêm Kế Tổ từ Trùng Khánh về Việt Nam thông báo về cuộc đàm phán Hoa - Pháp khiến nội bộ Việt Quốc tranh luận căng thẳng về hành động tiếp theo khi Trung Quốc rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam. Ngày 10 tháng 2 năm 1946, tại Hà Nội và Hải Phòng, Việt Quốc tổ chức lễ tưởng niệm cuộc nổi dậy năm 1930 ở Yên Bái. Tại Hải Phòng, cuộc tưởng niệm bị một số người phản đối vì không treo cờ đỏ sao vàng.[155]

Từ giữa tháng 2 năm 1946, việc Pháp và Trung Quốc đàm phán với nhau, Pháp có thể đổ quân vào miền Bắc và Hồ Chí Minh đàm phán với Pháp khiến các đảng phái lo lắng và bắt đầu chỉ trích lẫn nhau. 1 tờ báo phi đảng phái chỉ trích cả hai tờ Việt Nam và Cứu Quốc vì đã liên tục dùng từ "phản động" mạt sát nhau khiến công chúng hoang mang, ảnh hưởng đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong khi người nước ngoài [trong đó có Pháp] cũng đang đọc báo của họ.[156]

Ngày 20/2 năm 1946, 1 đám đông tập hợp trước dinh Bảo Đại mang theo cờ vàng của nhà vua và các biểu ngữ ủng hộ Bảo Đại, phản đối chính sách thân Pháp và cảnh báo tổ quốc đang lâm nguy. 3 người cao tuổi đến gặp Bảo Đại để yêu cầu ông đứng ra thành lập chính phủ mới thay thế Hồ Chí Minh. Quân cảnh Trung Hoa Dân Quốc ngăn cản lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố gắng giải tán đám đông. Việt Minh cáo buộc Việt Quốc tổ chức cuộc biểu tình này.[156]

Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang như "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên [Ba Viên bị Quốc dân Đảng nghi ngờ là gián điệp của Pháp, sau khi gặp Hồ Chí Minh, Ba Viên quay về Hà Giang, bắt giữ và hành quyết một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng[152]], rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà Nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[157] Khi Pháp chiếm lại Nam Kỳ, báo chí của các đảng phái này chỉ trích Việt Minh là bất lực, có khi là phản bội[118]. Khi Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của AFP và AP rằng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng chấp nhận các cố vấn Pháp nếu họ tới Việt Nam với tư cách bạn bè chứ không phải kẻ xâm lược thì Việt Cách rải truyền đơn kết tội Việt Minh cấu kết với Pháp và kêu gọi người Việt Nam nếu muốn thật sự có độc lập thì "phải từ bỏ Hồ Chí Minh và bè lũ giết người" của ông. Họ ca ngợi lập trường của Tưởng Giới Thạch là "tuân theo các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương và giúp đỡ cho sự nghiệp độc lập của Việt Nam", trong khi Việt Minh tại miền Nam lại thương lượng với Pháp và Hồ Chí Minh ở Hà Nội tỏ ra thân thiện với Pháp. Hồ Chí Minh nhận xét: "Việt Minh sẽ còn phải đấu tranh lâu dài cả với người Trung Quốc và người Việt Nam".[158]

Nam Bộ kháng chiến

Bài chi tiết: Nam Bộ kháng chiến

Jean Cédile đến Việt Nam theo mệnh lệnh nhằm lập lại quyền thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam[159]. Cédile có cảm tình với nguyện vọng độc lập của người Việt nhưng ông chủ trương trao trả độc lập từng bước cho Việt Nam. Ngay sau khi đến Việt Nam, Cédile đã tiếp xúc với các lãnh đạo Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ và cố gắng để đi đến 1 sự thông cảm nhưng quan điểm của ông là chỉ bàn đến độc lập của Việt Nam sau khi người Pháp đã khôi phục quyền hành và phải được đặt trong khuôn khổ Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945[138]. Cédile đồng ý thương lượng với Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ nhằm tránh xung đột vũ trang Pháp Việt nhưng khá nhiều chủ nhà băng, chủ đồn điền, chủ mỏ, quan chức, chính trị gia Nam Kỳ người Pháp, Việt, Hoa phản đối ông với lý do Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ do những đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo.[160] Giữa tháng 9 năm 1945 và tháng 10 năm 1946 khi rời Nam Kỳ, Cédile ủng hộ chính sách của D'Argenlieu-Pignon chấp thuận cho các chính khách tại Nam Kỳ thành lập Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ và hậu thuẫn những đảng phái thân Pháp như Đảng Nam Kỳ của Béziat. Jean Cédile cho lập Hội đồng tư vấn Nam Kỳ [Conseil consultatif de Cochinchine] với 12 ủy viên. Thành phần Hội đồng gồm 4 người Pháp và 8 người Việt nhưng tất cả đều có quốc tịch Pháp.[161] Kết quả quan trọng là cú đảo chính ngày 22 đến 23 tháng 9 năm 1945 ở Sài Gòn và việc ông ký Hiệp định ngày 3 tháng 6 năm 1946 thành lập Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ với bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thân Pháp làm Thủ tướng. Mục đích của Pháp là tách Nam Kì ra khỏi Việt Nam thống nhất.[162]

Người Việt cũng bị chia rẽ. Việt Minh sẵn sàng đối thoại và thỏa thuận với phía Pháp để Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy đó làm điểm xuất phát cho quá trình Pháp dần trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngược lại, phe đối lập muốn hủy bỏ thương lượng với Jean Cédile và phát động cuộc chiến chống Pháp.[163]

Đến ngày 16 tháng 9 năm 1945, cuộc đàm phán Jean Cédile - Phạm Văn Bạch không đạt kết quả cụ thể. Theo phía Việt Nam, người Pháp tham gia đối thoại chỉ nhằm có thêm thời gian để củng cố vị trí và chờ quân đội của tướng Leclerc đổ bộ vào Việt Nam. Phạm Văn Bạch do chịu áp lực của phe đối lập đã công khai lên án Anh không chịu công nhận Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Nam Kỳ và gạt bỏ đề nghị hợp tác của Ủy ban. Sau khi không nhận được hồi đáp, Ủy ban tổ chức một cuộc tổng bãi công vào ngày 17 tháng 9 năm 1945 để phản đối điều mà họ gọi là âm mưu Pháp - Anh nhằm lật đổ Chính phủ Việt Nam.[164]

Ngay sau khi tướng Douglas D. Gracey, chỉ huy quân đội Anh, đến Sài Gòn ông ra lệnh cho quân đội Nhật tước vũ khí của người Việt Nam, đuổi Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ ra khỏi Dinh Toàn Quyền ở Sài Gòn. Chỉ huy quân đội Nhật, Thống chế Terauchi, điều 7 tiểu đoàn vào Sài Gòn để tước vũ khí người Việt. Nhật đòi Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ phải tước vũ khí và giải tán lực lượng vũ trang của Việt Nam. Trên thực tế, chỉ có Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên có lực lượng vũ trang có tổ chức còn Việt Minh và những người Trotskyist chỉ có lực lượng tượng trưng do đó lệnh tước vũ khí áp dụng chủ yếu cho các giáo phái này. Người Pháp ngay lập tức treo cờ Pháp lên tất cả các công sở và xe quân sự. Phạm Văn Bạch gửi phái đoàn OSS 1 bức điện thông báo tình hình và yêu cầu phái đoàn thay mặt Đồng Minh chứng minh quyền được độc lập của nhân dân Việt Nam và tuyên bố Việt Nam đã hoàn toàn độc lập, người Việt có quyền tự quyết định số phận của mình.[165]

Tình hình Sài Gòn ngày càng hỗn loạn. Quân đội Nhật bắt được nhiều nhóm khiêu khích thuộc lực lượng Bình Xuyên đã đánh bị thương một số quân nhân Pháp và đốt 2 nhà của người Pháp. Đến đêm các cuộc tấn công vào người Pháp và người Việt tăng lên. Người Pháp bắt đầu lo sợ còn người Việt chuẩn bị sơ tán về nông thôn. Cédile gặp chỉ huy quân đội Anh, Douglas D. Gracey, để yêu cầu ông này cấp vũ khí cho tù bình Pháp nhằm bảo vệ tài sản và tính mạng của người Pháp.[159]

Thiếu tướng Douglas D. Gracey, chỉ huy quân đội Anh không được lệnh cung cấp vũ khí cho người Pháp. Ông cũng muốn tránh một cuộc xung đột giữa quân đội của ông và người Việt. Ông đã được tướng Mounbatten nhắc nhở về việc quân đội Anh chỉ có trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật chứ không được tham gia vào việc duy trì trị an vốn là trách nhiệm của quân đội Nhật cũng như tránh xa các diễn biến chính trị Pháp-Việt. Tuy nhiên quân đội Nhật tỏ ra không muốn cộng tác với người Anh trong việc tước vũ khí người Việt.[166] Gracey triệu tập chỉ huy quân đội Nhật đến và chỉ thị cho ông này phải có những biện pháp cấp bách và hiệu quả để khôi phục trật tự công cộng, thậm chí có thể dùng vũ lực. Nhật phải thực hiện mệnh lệnh ngày 6 tháng 9 năm 1945 của phía Anh về việc tước vũ khí của bộ đội, dân quân, công an và dân thường Việt Nam.[167]

Trước tình hình mâu thuẫn Pháp Việt ngày càng leo thang, Cédile nhờ Thiếu tá A. Peter Dewey, chỉ huy OSS tại Sài Gòn, gặp các lãnh đạo Việt Minh để thuyết phục họ khôi phục lại trật tự. Đêm 18 tháng 9 năm 1945, A. Peter Dewey bí mật gặp Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Tạo. Tất cả đều cho rằng quá muộn để thương lượng và hợp tác. Dân chúng bị xúc phạm và kích động vì thái độ kiêu căng của Pháp đã ở tư thế sẵn sàng làm mọi việc để giữ vững nền độc lập. Trần Văn Giàu phát biểu: "Hiện nay, việc cực kỳ khó khăn là kiểm soát được các bè phái chính trị khác nhau vì không phải tất cả thân Việt Minh mà tất cả đều chống Pháp".[168]

Sáng ngày 19 tháng 9 năm 1945, Cédile tổ chức họp báo và tuyên bố Việt Minh không đại diện cho nguyện vọng của người Đông Dương và không đủ khả năng duy trì trật tự công cộng. Các cuộc thương lượng với người Việt sẽ dừng lại cho đến khi trật tự được lập lại và sẽ chỉ được tiếp tục dựa trên cơ sở Bản Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của Pháp.[168]

Lính Nhật dán bản Thông cáo số 1 về việc duy trì pháp luật và trật tự ở Đông Dương vào tháng 9 năm 1945

Ngày 21 tháng 9 năm 1945, Thiếu tướng Anh Gracey ra bản Thông cáo số 1 tuyên bố sẽ duy trì pháp luật và trật tự ở Đông Dương phía Nam vĩ tuyến 16. Ông cấm tất cả các loại báo vì họ đưa tin sắp xảy ra nổi loạn và nội chiến trừ đài Sài Gòn và các báo của người Pháp. Trong 24 giờ sau, tình hình trở nên cực kỳ tồi tệ. Các vụ phá hoại, cướp bóc, hành hung, bắt cóc,... do cả hai phía Pháp Việt gây ra bùng nổ đáng sợ. Để đối phó với tình hình, ngay sau đó, tướng Gracey ra lệnh thiết quân luật. Quân đội Anh sẽ thực hiện giới nghiêm; cấm tụ tập, hội họp, biểu tình công khai; hạn chế đi lại ở một số khu vực; cấm mang vũ khí; thiết lập toà án binh để xử các vụ vi phạm trật tự, xử tử hình đối với tội cướp bóc và phá hoại. Gracey cũng cho sáp nhập cảnh sát Việt Nam vào quân đội Anh coi như 1 đơn vị dưới quyền chỉ huy của ông.[169]

Đêm 21 tháng 9 năm 1945, tình báo Pháp SLFEO báo cho Cédile biết người Việt đang củng cố lực lượng vũ trang của họ dưới sự chỉ đạo của Việt Minh. Cédile lại gặp Gracey để yêu cầu ông này trang bị vũ trí cho 14.000 tù binh Pháp [thuộc Chính phủ Vichy] để hỗ trợ quân Anh giữ trật tự. Gracey đồng ý. Ngay sau khi được thả ra, để chứng tỏ lòng trung thành với chính phủ De Gaulle, số lính này ra đường bắt bất cứ người Việt nào họ gặp được. Cédile muốn tái lập trật tự sau đó nối lại các cuộc thương lượng với người Việt. Ngày 22 tháng 9 năm 1945, Cédile cho lính Pháp thay thế người Nhật chiếm giữ các đồn cảnh sát ở Sài Gòn, Kho bạc, Sở Mật thám, Bưu điện. Việt Minh phản ứng bằng cách thông báo với phái đoàn OSS rằng họ sẽ tổ chức một cuộc biểu tình vì nền độc lập của Việt Nam dù lệnh thiết quân luật của Anh cấm biểu tình. Phạm Ngọc Thạch nói rằng Việt Minh muốn khích cho Anh Pháp tiến hành đàn áp, gây nhiều thương vong để thế giới chú ý đến tình cảnh của Việt Nam.[170]

Rạng sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Toà Thị chính Sài Gòn, nơi làm việc của Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ, bắt toàn bộ ban lãnh đạo của cơ quan này. Pháp đã chiếm lại Sài Gòn. Dân thường Pháp xem đây là dịp để trả thù. Từng toán đàn ông và đàn bà Pháp xông ra đường bắt và đánh đập bất cứ người Việt nào họ gặp được. Số nạn nhân có thể lên tới hàng ngàn người. Lính Pháp và Anh chỉ đứng nhìn chứ không can thiệp. Chỉ huy OSS, A. Peter Dewey, xin gặp Gracey để phản đối Anh, Pháp để tình trạng này xảy ra. Ngày hôm sau, Dewey bị Gracey trục xuất khỏi Sài Gòn.[171]

Cédile muốn chấm dứt tình trạng này. Ông ra lệnh ngừng việc bắt bớ nhưng không ai tuân thủ. Ông giải thích hành động của mình để tái lập trật tự chứ không phải để trả thù và muốn nhanh chóng nối lại điều đình trong khuôn khổ Bản Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của Pháp. Ông cho thả tất cả người Việt Nam vừa bị bắt. Báo chí quốc tế phản ứng mạnh trước tình hình. Người Anh bị chỉ trích gay gắt. Gracey ra lệnh cho Cédile tước vũ khí tù binh Pháp, đưa họ trở về trại và giao cho người Nhật trách nhiệm khôi phục lại trật tự.[172]

Biểu tình tại Chợ Bến Thành năm 1945

Sau khi được thả khỏi nhà giam, người Việt tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Việt Minh để tiến hành chiến tranh. Ngày 24 tháng 9 năm 1945, một số người Pháp bị giết, nhà máy và kho tàng bị đập phá, điện nước bị cắt hoàn toàn. Các đơn vị dân quân Việt Nam và các đội công nhân vũ trang tấn công phi trường Tân Sơn Nhất, đốt 1 tàu Pháp ở cảng, phá nhà giam, thả hàng ngàn người Việt vừa bị bắt. Đến trưa chợ Bến Thành bị đốt cháy. Chướng ngại vật được dựng lên khắp đường phố. Sài Gòn chìm trong tình trạng vô chính phủ. Người Pháp trốn vào khách sạn Continental, nơi ở của các sĩ quan Đồng Minh được bảo vệ cẩn thận. Cả người Anh và người Nhật đều không muốn can thiệp vào tình hình. Khi bị Anh khiển trách vì không thể duy trì trật tự, người Nhật giải thích rằng lính Nhật sợ bị người Việt trả thù nếu họ can thiệp. Đêm 24 tháng 9 năm 1945, lực lượng Bình Xuyên tấn công khu Hérault tại Tân Định, Sài Gòn bắt cóc 300 dân thường Pháp. Khoảng 1/2 bị giết, số còn lại được trả về sau khi đã bị đánh đập. Để đối phó, Gracey 1 lần nữa chấp nhận yêu cầu của Cédile cấp vũ khí cho tù binh Pháp nhưng tình hình đã quá muộn.[173]

Những rối loạn tại Sài Gòn lan rộng ra toàn miền Nam. Trần Văn Giàu ra lệnh tổng bãi công; sơ tán người Việt khỏi Sài Gòn; cấm bán lương thực, thực phẩm cho Pháp; đặt Sài Gòn trong tình trạng cô lập. Giàu đe dọa sẽ phá hủy Sài Gòn nếu Pháp không bỏ vũ khí, rút lui và công nhận độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các đơn vị Việt Nam dựng các chướng ngại trên đường vào Sài Gòn, ngăn chặn mọi người ra vào trừ người Anh và Mỹ. Họ bắn bất cứ quân nhân Pháp nào xuất hiện. Ngoài phạm vi Sài Gòn, trong vùng do Nhật kiểm soát, tình hình hoàn toàn hỗn loạn.[174]

Ngày 26 tháng 9 năm 1945, Thiếu tá chỉ huy OSS tại Sài Gòn A. Peter Dewey bị lực lượng Việt Nam bắn chết vì tưởng ông là người Pháp. Tin này lan khắp thế giới làm xấu đi hình ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thiếu tá OSS Archimedes L.A Patti đang công tác tại miền Bắc Việt Nam nhận xét: "Họ đã giết hại người bạn độc nhất của họ ở Nam Kỳ và chắc chắn những tin này sẽ chẳng đề cao được lý tưởng của họ trước nhân dân Mỹ.".[175] Sau đó Gracey ra lệnh bắt chỉ huy quân đội Nhật Thống chế Bá tước Térauchi vì ông này bất lực trong việc giữ trật tự[176].

Ngày 28 tháng 9 năm 1945, tướng Mounbatten triệu tập Gracey và Cédile đến Singapore để nhắc nhở 2 người về việc quân đội Anh không được can thiệp vào tình hình chính trị Đông Dương và nhất là không được giao chiến với người Việt. Mounbatten đề nghị nên nối lại thương lượng với các lãnh đạo Việt Nam[177].

Ngày 1 tháng 10 năm 1945, Gracey nối lại đàm phán với Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. 2 bên tạm thời ngừng bắn. Phía Anh nhấn mạnh chính sách trung lập của mình nhưng theo sự thỏa thuận giữa các nước Đồng Minh, Anh sẽ không công nhận bất kỳ sự thay đổi chủ quyền trên bất kỳ lãnh thổ nào đã phải chiếm lại bằng vũ lực trong thời kỳ chiến tranh. Người Pháp yêu cầu trả lại các con tin bị bắt và xác của Thiếu tá Dewey trước khi tiếp tục thương lượng. Phía Việt Nam yêu cầu trước hết Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nước tự do và độc lập. Người Việt chỉ ngừng bắn với điều kiện Pháp trao trả quyền hành chính tại Sài Gòn cho Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ, lực lượng cảnh sát phải được trao lại cho Việt Nam, quân đội Pháp phải giải giáp và không được đưa quân mới vào, người Pháp phải tập trung vào những khu vực nhất định.[178]

Dân quân Nam Bộ năm 1945

Trong khi thương lượng, Việt Nam đã triển khai quân đội xung quanh Sài Gòn tại các vị trí chiến lược phía Bắc và phía Nam thành phố. Hoàng Quốc Việt vẫn liên lạc chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Hà Nội và chỉ thị cho Giàu và Bạch phải chống lại mọi mưu đồ của Đồng Minh nhằm giúp Pháp nắm quyền kiểm soát Sài Gòn. Nếu cần, chỉ sau 24 tiếng Hà Nội sẽ gửi quân tăng viện cho miền Nam. Do lo ngại bị Việt Nam tấn công, phía Pháp yêu cầu Anh can thiệp. Tướng Mounbatten gặp Thạch và Bạch để yêu cầu kéo dài cuộc ngừng bắn thêm 48 giờ. Phạm Ngọc Thạch cho rằng Việt Nam đã độc lập và tất cả những gì còn phải bàn cãi chỉ là quy chế cho nước Việt Nam tương lai. Người Anh trả lời vẫn tiếp tục chấp nhận đối thoại cho đến khi nào có thể đạt được thỏa thuận. Người Việt đồng ý kéo dài cuộc ngưng bắn.[179]

Ngày 3 tháng 10 năm 1945, 10.000 quân Pháp do Leclerc chủ huy đổ bộ xuống Sài Gòn. Ngày 9 tháng 10 năm 1945, Pháp Anh ký thỏa hiệp tại Luân Đôn xác định Anh hoàn toàn ủng hộ Pháp trong việc cai trị toàn Đông Dương dưới vĩ tuyến 16. Đêm 10 tháng 10 năm 1945, bộ đội Việt Nam tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Lực lượng Việt Nam giao chiến với quân Anh, Pháp tại tất cả các cửa ngõ vào Sài Gòn. Người Anh yêu cầu Nhật hỗ trợ. Nhật đồng ý tham chiến. Lực lượng Anh, Pháp, Nhật đã phá vỡ cuộc phong tỏa Sài Gòn của Việt Nam sau 2 tuần chiến đấu liên tục. Ngày 16 tháng 10 năm 1945, phía Việt Nam ngừng bao vây Sài Gòn và rút quân về vùng nông thôn do lực lượng Anh, Pháp, Nhật quá mạnh. Không quân Hoàng gia Anh và không quân Nhật tiếp tục ném bom vào các địa điểm đóng quân của Việt Nam.[180]

Phản ứng trước việc Anh dùng quân đội Nhật tấn công lực lượng Việt Nam, tướng Douglas MacArthur phát biểu: "Nếu có gì đó làm máu tôi sôi lên thì đó là việc tôi thấy các nước Đồng Minh của chúng ta ở Đông Dương và Java sử dụng quân Nhật để đàn áp các dân tộc nhỏ bé này mà chúng ta đã hứa giải phóng. Đó là 1 sự phản bội kinh tởm nhất.".[180]

Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ kêu gọi dân chúng sơ tán về nông thôn và thi hành chiến lược dùng nông thôn bao vây thành thị bằng cách cắt đứt mọi hoạt động thương mại giữa nông thôn và thành thị. Dân chúng trong đó có nhiều nhân sĩ yêu nước theo lời kêu gọi của Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ rời bỏ Sài Gòn và các thành phố khác về nông thôn. Lực lượng kháng chiến và cơ quan Quốc gia Tự vệ Cuộc bắt giam và thủ tiêu nhiều nhân sĩ, trí thức và lãnh tụ các đảng phái bị kết tội làm Việt gian hợp tác với Pháp hoặc bị tình nghi là Việt gian. Thậm chí một số nhân viên thừa hành của Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ và một số nhóm kháng chiến còn lợi dụng công vụ để cướp bóc, trấn lột; nếu ai chống đối sẽ bị kết tội là Việt gian rồi thủ tiêu. Tinh thần kháng chiến đi xuống, lực lượng kháng chiến bị chia rẽ, các đảng phái quốc gia xa lánh Việt Minh và thành lập Mặt trận Quốc gia Liên hiệp[181]. Tháng 12 năm 1945, Nguyễn Bình được cử vào Nam lãnh đạo phong trào kháng chiến tại Nam Bộ. Ông lập lại trật tự bằng cách lập tòa án quân sự xét xử tất cả các chỉ huy quân sự lợi dụng danh nghĩa kháng chiến để cướp bóc, quấy nhiễu dân chúng, tổ chức lại lực lượng kháng chiến thành các chi đội Vệ quốc đoàn.[182]

Thành lập Chính phủ Liên hiệp

Bài chi tiết: Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Bài chi tiết: Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Nội các Chính phủ Liên hiệp Lâm thời

Ngày 20/8 năm 1945, Việt Cách cùng quân đội Trung Hoa Dân quốc tiến vào Việt Nam. Ngày 30/9 năm 1945, Nguyễn Hải Thần dẫn đầu 1 phái đoàn tới gặp Tiêu Văn để thảo luận về việc loại bỏ Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đàn áp Đảng Cộng sản Đông Dương. Tiêu Văn tỏ ra không ủng hộ ý định của Nguyễn Hải Thần. Cuối tháng 10 năm 1945, 7 đảng viên Việt Cách dưới quyền Nguyễn Hải Thần ký bản "Đoàn kết tinh thần" với Việt Minh theo đó Việt Cách sẽ liên kết với Việt Minh chống lại sự xâm lược của Pháp, bảo vệ nền độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên sau đó nhiều người chối bỏ họ đã ký bản "Đoàn kết tinh thần". Nguyễn Hải Thần công khai bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Việt Nam. Hàng loạt vụ đụng độ giữa Việt Minh và Việt Cách xảy ra khiến công chúng bị sốc và làm các chỉ huy quân đội Trung Hoa Dân quốc tại miền Bắc Việt Nam khó chịu. Tiêu Văn gây sức ép lên tất cả các bên để buộc họ thành lập chính phủ liên hiệp.[150]

Tuy nghi ngờ, thậm chí thù địch nhau nhưng các thành viên Việt Minh và Việt Quốc vẫn gặp nhau thậm chí còn ký kết các thỏa thuận. Ngày 29 tháng 9 năm 1945, Nguyễn Lương Bằng [Việt Minh] và Chu Bá Phượng [Việt Quốc] gặp nhau và đồng ý chấm dứt xung đột, thả tù nhân và ngừng lên án nhau công khai. Ngày 19 tháng 11 năm 1945, Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần thỏa thuận về các nguyên tắc chung nhằm định hướng đàm phán thành lập chính phủ liên hiệp, quân đội thống nhất và kết thúc cuộc đấu tranh đảng phái để cùng nhau chống Pháp. Ngày 24 tháng 11 năm 1945, sau buổi lễ trước trụ sở Việt Quốc, lãnh tụ 3 tổ chức Việt Minh, Việt Cách, Việt Quốc ký bản ghi nhớ cam kết các bên sẽ không tấn công lẫn nhau, đi đến thống nhất và hỗ trợ Nam Bộ kháng chiến.[183]

Sau đó vài ngày, Báo Cứu quốc coi bản ghi nhớ ngày 24 tháng 11 năm 1945 là sự xác nhận 1 chính phủ liên hiệp đã tồn tại. Việt Quốc lên án việc này. Hồ Chí Minh thông báo cho Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh rằng các đảng phái đã thống nhất ý kiến, không cần phải thay đổi chính phủ làm cho nhân dân hoang mang, quốc tế hoài nghi mà sẽ tổ chức bầu cử quốc hội trong 3 tuần nữa; ông cũng mời Việt Quốc và Việt Cách ứng cử và chấm dứt công kích nhau bằng lời nói và hành động cho đến ngày Quốc hội khai mạc. Báo Việt Nam của Việt Quốc chỉ trích Hồ không quân tử và sử dụng các biện pháp "khủng bố và độc tài".[184][185]

Ngày 23 tháng 12 năm 1945, Tướng Tiêu Văn tổ chức một cuộc họp hòa giải các bên để thành lập chính phủ liên hiệp. Tại cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đề nghị Hồ Chí Minh hợp tác với Việt Quốc, Việt Cách thành lập 1 chính phủ bao gồm thành viên của Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh và các đảng phái nhỏ khác. Nguyễn Hải Thần sẽ đảm nhận chức Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh làm Phó Chủ tịch. Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, mỗi đảng nắm giữ 1/4 số ghế Bộ trưởng trong Chính phủ; 1/4 còn lại do các đảng phái nhỏ nắm. Như vậy Việt Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nhận được sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc chống lại cố gắng của Pháp tái chiếm Việt Nam. Điều làm Quốc dân Đảng Trung Hoa lo sợ nhất là Hồ Chí Minh từng là nhân viên của Quốc tế Cộng sản và Việt Minh có khuynh hướng cộng sản. Trước đó, Pháp cũng đã họp với Nguyễn Hải Thần và cho biết Pháp sẽ thực hiện Bản Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 và công nhận 1 chính phủ của người Việt Nam nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp với điều kiện chính phủ đó không do người cộng sản lãnh đạo.[186] Cuối cùng các bên đạt được 1 thỏa thuận được tuyên bố là mang tính pháp lý [viết bằng chữ Hán] theo đó các ghế bộ trưởng trong chính phủ sẽ phân chia như sau: Việt Minh 2 bộ trưởng, Đảng Dân chủ Việt Nam [cũng tham gia Việt Minh] 2 bộ trưởng, Việt Quốc 2 bộ trưởng, Việt Cách 2 bộ trưởng, phi đảng phái 2 bộ trưởng. Thỏa thuận này không sử dụng tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì Việt Quốc không đồng ý với tên này. Cuộc bầu cử quốc hội được hoãn 2 tuần. Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần chấp nhận để Hồ Chí Minh tiếp tục làm chủ tịch nước lâm thời. Quốc hội sẽ quyết định quốc kỳ và quốc huy. 2 đảng này cũng không được tham gia vào cơ quan chỉ huy và tham mưu của quân đội. Việt Quốc sẽ được 50 ghế còn Việt Cách 20 ghế trong Quốc hội mà không phải tranh cử. Điều này khẳng định với nhiều người rằng 2 đảng phái này không có khả năng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại địa phương.[184]

Sau khi đạt được thỏa thuận, các bên ra lệnh cho cấp dưới ngừng xung đột vũ trang và chỉ trích nhau. Điều này khiến nhiều người thấy khó hiểu như việc các lãnh đạo người Mường đã giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàn áp Việt Quốc nghi ngờ về chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những người khác ủng hộ chấm dứt cảnh huynh đệ tương tàn. Tuy vậy các bên vẫn không sẵn sàng thảo luận về việc sáp nhập hoặc phối hợp hoạt động với nhau. Tại một số nơi các chỉ huy Trung Quốc phải đứng ra làm trung gian giữa Việt Minh và Việt Quốc, Việt Cách để đi đến thành lập chính quyền liên hiệp. Tại Phú Thọ, tướng Vương của Trung Hoa Dân quốc làm trung gian để Việt Minh và Việt Quốc thảo luận việc thành lập chính quyền liên hiệp nhưng 2 bên ngừng thảo luận và đấu súng với nhau tại chợ khiến dân chúng bị thiệt hại nên họ đã gửi kiến nghị lên Hồ Chí Minh phàn nàn cả hai bên bắt cóc nhiều con tin, khiến giao thương đình trệ và không bên nào lắng nghe những bậc cao niên ở địa phương. Tướng Vương phải ép 2 bên ngừng bắn, cuộc ngừng bắn kéo dài được 4 tháng.[156]

Do các đảng phái đối lập phản đối nên Hồ Chí Minh đồng ý loại Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu ra khỏi nội các. Các bên tổ chức Hội nghị và họp nhiều lần để thảo luận ai sẽ nắm giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Nội vụ đồng thời làm thế nào chia sẻ quyền lực trong Vệ quốc quân. Phan Anh được chọn làm Bộ trưởng Quốc phòng tuy anh trai ông ta là thành viên Việt Minh. Các đảng phái đối lập hy vọng Phan Anh sẽ chống lại việc Việt Minh cố gắng nắm toàn bộ Bộ chỉ huy và Bộ tổng tham mưu Vệ quốc quân nhưng họ sẽ thất vọng. Hội nghị cũng xem xét các nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn và Trần Đình Nam xem ai thích hợp cho vị trí Bộ trưởng Bộ nội vụ. Ngô Đình Diệm bị loại vì quá chống cộng còn Bùi Bằng Đoàn quá thân Việt Minh. Trong 2 người còn lại, Hồ Chí Minh đã chọn Huỳnh Thúc Kháng. Ông gửi điện cho Kháng và cử sứ giả đến gặp ông này. Huỳnh Thúc Kháng miễn cưỡng chấp thuận. Không ai phản đối Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ trưởng Nội vụ vì ông có uy tín khắp cả nước. Hội nghị cũng thành lập Ủy ban Kháng chiến gồm 9 người với Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và Vũ Hồng Khanh làm Phó chủ tịch.[187]

Ngày 1 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập thay thế Chính phủ Cách mạng Lâm thời với sự tham gia của 2 đảng phái đối lập Việt Cách và Việt Quốc.[188] Trái với thỏa thuận ngày 23 tháng 12 năm 1945, nội các chính thức có đến 14 bộ trưởng và 2 thứ trưởng[184]. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.[189] Hồ Chí Minh cho rằng nếu không có sự lãnh đạo của Việt Minh thì sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc sẽ thất bại. Việt Quốc và Việt Cách chỉ có thể duy trì 1 nền độc lập hình thức cho Việt Nam dưới quyền kiểm soát của người Pháp với sự hỗ trợ của Trung Hoa Dân Quốc phù hợp với kế hoạch bóc lột kinh tế Việt Nam của Trung Quốc. Sau khi Trung Hoa Dân quốc đạt được những thỏa thuận với Pháp có lợi cho họ, Việt Quốc, Việt Cách sẽ bị bỏ rơi và bất lực trong việc đối đầu với quân Pháp đổ bộ vào Việt Nam khiến Việt Nam quay lại làm thuộc địa Pháp.[190] Hồ Chí Minh cũng không vội vàng triệu tập nội các[184].

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu tiên đã bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại[191]. Các đảng này cho là "trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản", "chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được"[192]. 2 đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng [Việt Quốc] và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội [Việt Cách] không tham gia bầu cử dù trước đó Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Nguyễn Hải Thần [lãnh tụ Việt Cách] và Vũ Hồng Khanh [lãnh tụ Việt Quốc] mời Việt Quốc và Việt Cách tham gia Tổng tuyển cử và đề nghị 2 bên không công kích nhau bằng lời nói hoặc hành động cho đến ngày Quốc hội khai mạc[185]. Có tài liệu ghi nhận lá phiếu không bí mật[193] và theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim[194] thì có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh.[195] Nhưng theo Việt Minh, cuộc bầu cử diễn ra công bằng[196]. Mặc dù bị nhiều đảng phái tuyên truyền vận động dân chúng tẩy chay cuộc bầu cử và ngăn cản việc tổ chức bầu cử ở một số nơi [ở khu Ngũ Xá, có 1 nhóm vũ trang cả súng liên thanh đến ngăn cản dân phố đi bầu cử, cấm treo cờ đỏ sao vàng, cấm đặt hòm phiếu; ở Hải Phòng xảy ra cướp hòm phiếu và hành hung cán bộ an ninh, ở Sài Gòn máy bay Pháp bắn vào dân đi bầu cử], nhưng tại các địa phương, ở đâu cũng có người tự ứng cử, các cuộc tiếp xúc tranh cử công khai, tự do diễn ra ở khắp mọi nơi. Đa số đại biểu trúng cử không phải là thành viên Việt Minh[196][197] Trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên", đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với mặt trận Việt Minh nên tìm cách chỉ trích và không tham gia bầu cử.[198]

Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập để thay thế Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lập trong năm 1946. Theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội [Việt Quốc 50 ghế, Việt Cách 20 ghế] cùng một số vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. 20 thành viên Việt Cách trở thành đại biểu quốc hội bằng 1 sắc lệnh hành pháp. Hồ Đắc Thành và Bồ Xuân Luật ứng cử và cũng trở thành đại biểu quốc hội.[199] Cùng ngày, quốc hội họp phiên đầu tiên nhưng Nguyễn Hải Thần vắng mặt. Hồ Chí Minh đề cử Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch nước, Nguyễn Đình Tri của Việt Cách làm Bộ trưởng xã hội.[199] Theo David G. Marr, Hồ Chí Minh đồng ý để Nguyễn Hải Thần thay vì 1 lãnh đạo nào đó của Việt Quốc làm Phó Chủ tịch nước vì Thần từng là đồng chí của Phan Bội Châu, được các lãnh đạo Trung Hoa Dân quốc kính trọng và nhất là Thần không có khả năng tự gây dựng cơ sở quyền lực trong nước. Việc Nguyễn Hải Thần làm Phó chủ tịch nước cũng gây ra sự chia rẽ bên trong nội bộ Việt Cách có lợi cho Việt Minh.[200]

Tháng 4 năm 1946, Ủy ban Hành chính Bắc bộ ký thỏa thuận với đại diện Việt Quốc tại 4 thị xã nhằm thành lập Ủy ban Hành chính liên hiệp giữa 2 bên. Đầu tháng 5, Ủy ban Hành chính Bắc bộ cảnh báo với Ủy ban tỉnh Bắc Giang cần linh hoạt với các thành viên Việt Quốc để duy trì sự đoàn kết đồng thời phải chuẩn bị kế hoạch dự phòng nhằm tránh các tình huống bất thường xảy ra.[201]

Trong thời gian hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục...[202] Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, 1 người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản"[203]

Trường Chinh, trên báo Sự thật ngày 30/6 đưa ra chủ trương đoàn kết dân tộc: kẻ thù trước mắt của dân tộc ta là thực dân phản động Pháp. Chúng đang uy hiếp chủ quyền của ta tiến công ta, dùng chiến thuật chính trị: chia rẽ. Chia rẽ dân tộc: đem người thiểu số chống người Kinh. Chia rẽ Nam Bắc: phỉnh đồng bào Nam Bộ chống đồng bào Bắc Bộ. Chia rẽ giai cấp: làm cho giàu nghèo chống chọi nhau, hằn ghét nhau. Chia rẽ tôn giáo: xui giáo chống lương, xui lương chống giáo; gây nghi ngờ giữa lương và giáo. Chia rẽ đảng phái: lập đảng Việt gian chống phe yêu nước, khuyến khích đảng nọ chống đảng kia. Thống nhất quốc gia. Đoàn kết dân tộc. Chúng ta đề ra khẩu hiệu "Trung, Nam, Bắc một nhà". Chúng ta lập mặt trận toàn dân đoàn kết, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị. Chúng ta tham gia Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam.[204]. Ý nghĩa của "đoàn kết dân tộc", theo Hồ Chí Minh là liên minh công nhân và nông dân với giai cấp tư sản và địa chủ.

Ngày 15 tháng 6 năm 1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Việt Nam[205]. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh Hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội Tưởng Giới Thạch và do bất đồng về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6 tháng 3 cũng như không muốn sáp nhập quân đội vào biên chế Vệ quốc đoàn dưới sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng do Việt Minh kiểm soát do lo sợ bị khống chế rồi bị giải tán dần đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp.[206] Lãnh tụ Việt Cách là Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Quốc Vũ Hồng Khanh trong chính phủ và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại Việt Nam chờ thời cơ[207]. Mặc dù Hồ Chí Minh giữ độc quyền liên lạc với Pháp với sự trợ giúp của Hoàng Minh Giám nhưng Nguyễn Tường Tam vẫn thực hiện trách nhiệm của mình một cách nghiêm túc[208]. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị trù bị tại Đà Lạt mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn[208]. Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp còn theo David G. Marr Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn.[208][209]. Sau đó Tam cũng không tham gia Hội nghị Fontainebleau, cuối cùng rời bỏ chính phủ[206] [tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán, rồi đào nhiệm ra nước ngoài[208][210] nhưng theo sử gia David G. Marr việc này khó xảy ra vì Tam khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn[208]].

Việc các thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh rời bỏ chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập tại miền Bắc, trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến là biểu tượng.

Những hoạt động ngoại giao

Ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt [1946]

Bài chi tiết: Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt [1946]

Trong suốt năm 1946, mặc dù 2 bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố gắng hết mức thương lượng với Pháp để cứu vãn hòa bình và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh. Tháng 2 năm 1946, tại Lai Châu, lực lượng vũ trang của Việt Quốc và Vệ quốc quân lần lượt giao tranh nhỏ với Pháp. Việt Quốc rút về Lào Cai còn Vệ quốc quân rút về Sơn La.[155] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt [1946] cho phép Pháp đưa quân vào miền Bắc đổi lại Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp.

Trong khi đó Pháp ký Hiệp ước Hoa-Pháp thỏa thuận với Trung Hoa ngày 28 tháng 2 năm 1946 để Quân đội Trung Hoa rút khỏi phía bắc vĩ tuyến 16 nhường chỗ cho Pháp đại diện phe Đồng Minh giải giới Quân đội Đế quốc Nhật Bản. Trước đó, ngày 26 tháng Giêng đại diện Pháp và Trung Hoa dân quốc thảo luận, Trung Hoa dân quốc tuyên bố muốn loại bỏ chính phủ cộng sản, ủng hộ chính quyền thân Trung Quốc được thành lập ở Hà Nội và đàm phán với Pháp, cùng chống Việt Minh. Nhưng phía Pháp đã bác bỏ, chủ trương đàm phán với Việt Minh.

Đảng Cộng sản Đông Dương [khi đó lui vào hoạt động bí mật], Thường vụ Trung ương ngày 3 tháng 3 năm 1946 tuyên bố thì nếu Pháp cho Đông Dương tự trị thì kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì hòa để phá tan âm mưu của "bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn lại". Ngày 24 tháng 3 [sau khi Hiệp định được ký] chỉ thị của Đảng Cộng sản cho thấy mục đích ký Hiệp định này để tránh tình thế bất lợi "phải cô lập chiến đấu cùng 1 lúc với nhiều lực lượng phản động [thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong nước]"[211], tập trung đối phó với người Pháp và "các đảng phái phản động"[211]. Để tránh mũi nhọn của 2 kẻ thù có thể đồng thời tấn công, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp tiến ra Bắc để nhanh chóng loại bỏ nguy cơ của 20 vạn quân Tưởng.

Ngày 16 tháng 2, Jean Sainteny gặp Hồ chí Minh và thỏa thuận cụm từ "tự trị" sau đó được chấp nhận bởi chính phủ Pháp. Tuy nhiên đến Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3, sử dụng cụm từ "tự do" thay cho cụm từ "độc lập" hay "tự trị". Việt Minh muốn Pháp phải thừa nhận Việt Nam đã có 1 chính phủ, quốc hội, quân đội để đi đến 1 nền độc lập thực sự, trong khi phía Pháp có sự chia rẽ. Đối với những người tin tìm thấy những lợi ích của Pháp là sự độc lập của Việt Nam sẽ được giới hạn bởi các liên kết của nó với các nước Đông Dương khác. Lúc này khởi đầu Chiến tranh Lạnh, Marius Moute muốn Nam Kỳ tách ra khỏi ảnh hưởng của Việt Nam thống nhất dưới sự điều khiển của Việt Minh, lập 1 chế độ ở Sài Gòn và sau đó, sẽ 1cuộc họp sơ bộ của các quốc gia ở Đông Dương được tổ chức mà không có sự hiện diện của chính phủ Việt Nam tại Hà Nội.

Từ ngày 3 đến 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp, Trung Quốc đàm phán 3 bên. Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh không tham gia cuộc đàm phán này dù Nguyễn Tường Tam là Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tam cũng không có mặt trong cuộc họp nội các khi Hồ công bố thỏa thuận với Sainteny.[212]

Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946 được ký kết giữa Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và Hồ Chí Minh cùng Vũ Hồng Khanh [giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến], đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyễn Hải Thần đã rời Hà Nội nên chỉ có Hồ Chí Minh ký kết hiệp định này.[199] Tuy tham dự lễ ký kết Hiệp định nhưng Nguyễn Tường Tam từ chối ký Hiệp định này còn Vũ Hồng Khanh miễn cưỡng ký Hiệp định[212]. Nội dung của Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:

  • Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là 1 quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng.
  • Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân.
  • Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
  • 2 bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.

Về phía người Pháp, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt giúp họ danh chính ngôn thuận khi đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị tái chiếm Đông Dương như họ đã làm ở Nam Việt Nam,[213] đồng thời Hiệp ước Hoa-Pháp giúp họ tránh khỏi sự ngăn cản của các tướng lĩnh Trung Hoa Quốc dân đảng; đổi lại Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là 1 quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Đó là những điều kiện mà quân đội Pháp đồng ý để lấy lại 1 chỗ đứng tại Bắc Kỳ. Sainteny không đồng ý ký 1 tài liệu sử dụng từ "độc lập", ông chỉ đồng ý sử dụng từ "Nhà nước tự do". Ngược lại, Hồ Chí Minh cho rằng "Nhà nước tự do" của ông chịu 2 tầng "xiềng xích" của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.[61]

Nhiều thành viên Việt Quốc tức giận khi Vũ Hồng Khanh ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt [1946]. Học viên và hiệu trưởng trường đảng Nguyễn Thái Học của Việt Quốc kéo đến trụ sở đảng chất vấn Khanh. Tại cuộc họp khẩn cấp Ban chấp hành Trung ương Việt Quốc, nhiều đảng viên chỉ trích Khanh là kẻ độc tài vì ra quyết định quan trọng như vậy mà không thảo luận trước. một số chi bộ Việt Quốc cách xa Hà Nội cắt đứt quan hệ với lãnh đạo trung ương và phản đối chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hợp tác với Pháp. Ban chấp hành Trung ương Việt Quốc cử Lê Khang tới các địa phương để giải thích hoàn cảnh chính trị và lập lại kỷ luật đảng.[214]

Thời điểm đó, nhiều người Việt hoang mang về việc Hiệp định sơ bộ đã mở đường cho quân Pháp quay trở lại miền Bắc. Trong 1 buổi họp Quốc hội, Hồ Chí Minh đã giải thích mục đích của bản hiệp định này là để nhanh chóng loại bỏ nguy cơ lớn và lâu dài hơn từ 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch[215]:“Các vị quên lịch sử đất nước ta rồi sao? Nếu quân Tưởng ở lại thì chúng nó sẽ ở lại luôn hàng ngàn năm!”

Trước đó, ngày 28 tháng 2 năm 1946, chính phủ Pháp và chính phủ Tưởng Giới Thạch đã ký kết 1 Hiệp định tại Trùng Khánh [Trung Quốc], theo đó quân Pháp sẽ được thay thế quân Trung Hoa ở miền Bắc Việt Nam [từ ngày 1 đến 31 tháng 3 năm 1946], bù lại Pháp sẽ trả lại một số tô giới ở Trung Quốc. Dù không có Hiệp định sơ bộ thì quân Pháp vẫn sẽ tiến ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa. Do vậy, việc ký Hiệp định sơ bộ theo Hồ Chí Minh nhận định thì sẽ chẳng gây tổn hại gì, mà còn “mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”[216].

Sau khi ký Hiệp định sơ bộ, trong cuộc mít tinh ngày 7 tháng 3 năm 1946, Hồ Chí Minh giải thích về việc ký kết hiệp định "Chúng ta trên thực tế đã độc lập từ tháng 8 năm 1945, nhưng cho đến nay chưa có cường quốc nào công nhận độc lập của chúng ta. Bản hiệp định ký với nước Pháp này mở đường cho sự công nhận của quốc tế. Bản hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến 1 vị trí quốc tế ngày càng vững vàng và đó là 1 thắng lợi chính trị lớn lao. Quân đội Pháp sẽ đến theo lệnh của các nước Đồng Minh. Họ chỉ có 15.000 người và chỉ ở lại trong 5 năm nữa, sau đó họ sẽ rút khỏi nước ta. Chọn thương lượng thay vì đánh nhau chính là bằng chứng hiểu biết về chính trị. Thực vậy, vì sao lại đi hy sinh 50 hoặc 100 ngàn người trong khi chúng ta có khả năng bằng con đường thương lượng mà đi đến độc lập có thể trong 5 năm". Còn Võ Nguyên Giáp phân tích "Những người không thỏa mãn chỉ hiểu độc lập hoàn toàn như 1 khẩu hiệu, 1 nhật lệnh, trên giấy tờ hoặc ngoài cửa miệng. Họ không thấy rằng độc lập của đất nước là kết quả của những điều kiện khách quan và trong cuộc chiến đấu giành độc lập của chúng ta, phải biết cương nhu tùy lúc... Chúng ta đã chọn con đường thương lượng nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn, nhằm có thể đợi chờ cơ hội đi đến 1 nền độc lập nguyên vẹn".[217] Ngày 12 tháng 3 năm 1946, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam tuyên bố "Trung Quốc và Mỹ có nhiệm vụ bảo vệ cho hòa bình ở Viễn Đông... Trong lúc chờ đợi nước Pháp và nước Việt Nam lập lại được 1 nền hòa bình vững chắc, nước Mỹ phải giúp đỡ chúng ta về mọi phương diện hoàn toàn như Trung Quốc"[218].

Sau khi Sainteny ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt với chính phủ Hồ Chí Minh, tại Nam Kỳ Cédille liên hệ Nguyễn Bình đề nghị ký hiệp ước hòa bình giữa Pháp và lực lượng kháng chiến Nam Bộ. Ngày 20/3 năm 1946, 2 bên gặp nhau tại miếu Bà Cố cách Biên Hòa 10km. Cédille đề nghị phía Việt Nam phải giải tán dân quân, nạp khí giới cho Pháp thì quân Pháp sẽ đồng ý hợp tác. Phái đoàn Việt Nam không đồng ý và trở về căn cứ kháng chiến.[219]

Hội nghị Fontainebleau và Tạm ước Việt - Pháp

Bài chi tiết: Hội nghị Fontainebleau 1946
Bài chi tiết: Tạm ước Việt - Pháp
Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946

Ngày 31 tháng 5 năm 1946, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu khởi hành sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau tiếp tục đàm phán về các điều khoản đề ra theo Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3. Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lên đường sang Pháp tiếp xúc với chính giới Pháp và cộng đồng người Việt tại Pháp. Nội dung chương trình nghị sự được 2 đoàn thoả thuận là sẽ thảo luận về các vấn đề như [đã nêu tại Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3]:[220]

  • Địa vị của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, về quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
  • Quan niệm tổng quát về Liên bang Đông Dương.
  • Vấn đề thống nhất nước Việt Nam và việc trưng cầu dân ý.
  • Chi tiết về Liên bang Đông Dương và vấn đề quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông Dương.
  • Dự thảo Hiệp ước.

Hội nghị Fontainebleau sau đó diễn ra kéo dài hơn 2 tháng, từ 6 tháng 7 đến 10 tháng 9 năm 1946 nhưng không đem lại kết quả cụ thể nào vì 2 bên đã bế tắc ở 2 điểm bất đồng then chốt:[221]

  • Việc thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [bao gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ].
  • Độc lập chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quan điểm của Pháp bác bỏ độc lập mà chỉ xét tự trị hay độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Hơn nữa họ đòi là phải tái lập trật tự trước tiên rồi sau đó sẽ mở cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về vấn đề thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điểm gây nhiều khó khăn nhất là việc chính phủ Pháp đã đơn phương cho phép thành lập Nam Kỳ quốc theo tinh thần Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của tướng De Gaulle, tách rời khu vực này khỏi những phong trào độc lập ở 2 miền Bắc và Trung. Ngày 27 tháng 5, Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu tiếp tục thông qua việc thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương, chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh.[222][223]

Việt Nam nhượng bộ về mọi mặt: kinh tế, tài chính và quân sự nhưng phái đoàn Việt Nam đòi Pháp ấn định thời hạn để thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ. Thấy Pháp chần chừ không trả lời dứt khoát, phái đoàn Việt Nam bỏ bàn hội nghị ra về ngày 13 tháng 9. Hội nghị Fontainebleau vì vậy tan vỡ.

Tuy nhiên Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet không chấp nhận thất bại. Trong khi Phạm Văn Đồng bỏ về nước, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Dương Bạch Mai nán lại Paris. Nhằm cứu vớt hòa bình lần cuối Hồ Chí Minh thảo 1 bản nghị ước vào chiều ngày 11 tháng 9 và trao cho Marius Moutet.[224] 3 ngày sau, 14 tháng 9 năm 1946, Marius Moutet hồi đáp với 1 bản nghị ước khác. Đạt được đồng thuận, Hồ Chí Minh đã đến tư dinh của Marius Moutet lúc nửa đêm ngày 14 tháng 9 năm 1946 để ký văn bản này, tức Tạm ước Việt - Pháp [Modus vivendi].[221]

Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp

Trong bản Tạm ước này, 2 bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp cùng bảo đảm với nhau về quyền tự do của kiều dân, chế độ tài sản của 2 bên; thống nhất về các vấn đề như: hoạt động của các trường học Pháp, sử dụng đồng bạc Đông Dương làm tiền tệ, thống nhất thuế quan và tái lập cải thiện giao thông liên lạc của Liên bang Đông Dương, cũng như việc thành lập ủy ban tạm thời giải quyết vấn đề ngoại giao của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết ưu tiên dùng người Pháp làm cố vấn hoặc chuyên môn, và 2 bên đã đồng ý chấm dứt mọi hành động xung đột, vũ lực cũng như tuyên truyền chống đối nhau, phóng thích tù nhân chính trị, bảo đảm không truy bức người của bên kia, và hợp tác để những kiều dân 2 bên không làm hại nhau. Tạm ước cam kết sẽ có 1 nhân vật do Việt Nam chỉ định và Chính phủ Pháp công nhận được uỷ nhiệm cạnh thượng sứ để xếp đặt cộng tác thi hành những điều thoả thuận này. Cuối cùng, Chính phủ 2 bên sẽ sớm tiếp tục đàm phán [chậm nhất là vào tháng 1 năm 1947] để tìm cách ký kết những bản thoả thuận riêng nhằm dọn đường cho 1 hiệp ước chung dứt khoát.[225][226] Tạm ước này sẽ được thi hành bắt đầu từ ngày 30/10 năm 1946.[221]

Sau khi ký Tạm ước Việt Pháp, Hồ Chí Minh bị Việt Quốc và Việt Cách chỉ trích phản bội và hợp tác với Pháp đồng thời yêu cầu ông từ chức. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phê chuẩn Tạm ước Việt Pháp, biểu quyết tín nhiệm Hồ Chí Minh và yêu cầu ông thành lập nội các mới[227]. Tại miền Nam, ngày 28 tháng 10 năm 1946, Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ theo chỉ thị của Chính phủ Trung ương ra tuyên bố sẵn sàng thành thực thi hành Tạm ước Việt Pháp và chống lại mọi hành động phá hoại Tạm ước đồng thời kêu gọi dân chúng giữ kỷ luật, thi hành đúng những mệnh lệnh của Chính phủ và tránh mọi hành động khiêu khích[228].

Trong khi đó, ngày 6 tháng 8, Cao ủy Pháp đã tổ chức 1 hội nghị tại Đà Lạt để nghiên cứu tình hình Liên bang Đông Dương trong Liên hiệp Pháp với đại diện của Campuchia, Lào, Nam Kỳ và Nam Trung Bộ. Ngày 14 tháng 8, các bên tham gia Hội nghị khuyến nghị thành lập 1 Quốc hội liên bang của các nhà nước.[128] Nhân dân Sài Gòn tổ chức bãi công để phản đối.[229]

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua Hiến pháp đầu tiên khẳng định nền độc lập ngày 8 tháng 11 năm 1946 [lúc này Quốc hội được chia thành các nhóm: Marxist, Việt Minh, Dân chủ, Xã hội, Việt Quốc, Việt Cách, Tổng liên đoàn lao động, không đảng phái]. Trước đó, 1 Chính phủ mới được thành lập được báo Cứu quốc mô tả "Các đảng phái từ tả sang hữu đều ủng hộ Chính phủ mới". Ủy ban Quân sự Việt - Pháp vẫn làm việc, tuy nhiên phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liên tục tố cáo Pháp vi phạm Thỏa ước. Mặc dù vậy, ngày 20 tháng 2 năm 1947, khi chiến tranh đã nổ ra, Hồ Chí Minh vẫn gửi thư - thông qua Lãnh sự Anh - đến Tổng thống Pháp kêu gọi hòa bình. Ông viết "...chúng tôi muốn được thống nhất và độc lập trong Liên hiệp Pháp; chúng tôi muốn, một nền hòa bình đích thực sẽ làm vinh danh cho cả Pháp và Việt Nam".[230]

Kêu gọi sự công nhận và ủng hộ của các cường quốc

Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry S. Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ nhưng không được đáp lại

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm [Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman[231], Lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…]. Từ giữa tháng 10 năm 1945-3 năm 1946, Hồ Chí Minh đã gửi nhiều điện tín cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ và Liên Hợp Quốc kêu gọi Mỹ và Liên Hợp Quốc can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương và vì lý do nhân đạo nhưng không đến được tay những người có thẩm quyền do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được Mỹ công nhận nên không được hồi đáp[232]. Hồ Chí Minh cũng viết thư cho Stalin thông báo về sự ra đời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đề nghị Liên Xô đưa vấn đề độc lập của Việt Nam vào chương trình nghị sự của Liên hiệp quốc nhưng cũng không được hồi đáp. Vào thời điểm này, Liên Xô quan tâm đến châu Âu hơn Đông Dương.[233] Trong lúc đó, những người Việt Nam theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Pháp ủng hộ chủ nghĩa thực dân qua những mối quan hệ với giới chính trị Trung Quốc và Pháp đã tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là tay sai trung thành của Liên Xô. Ngày 5 tháng 12 năm 1946, khi A.B. Moffat, Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ ngoại giao Mỹ, đến thăm Đông Dương, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Acheson có điện tín chỉ dẫn trong trường hợp gặp Hồ Chí Minh "phải luôn nhớ rằng ông Hồ đã được xác định là một tay sai của Quốc tế Cộng sản", hàm ý rằng Mỹ sẽ không công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[234] Thậm chí Hồ Chí Minh còn không nhận được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp đang tham gia liên minh cầm quyền trong việc giúp ông giành độc lập dân tộc[41].

Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hồ Chí Minh được nội các đồng ý đã gửi 1 phái đoàn ngoại giao đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt - Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn 2 nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa-Pháp. Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ, 1 thành viên Việt Quốc có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc, làm trưởng đoàn, 2 người còn lại là thành viên Việt Minh. Đêm trước khi 3 người khởi hành, Hồ Chí Minh cử Cố vấn Vĩnh Thụy [Bảo Đại] đi cùng. Ban đầu cả Nghiêm Kế Tổ và Bảo Đại đều phản đối ý tưởng này nhưng sau khi họp với Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh họ thay đổi ý kiến. Theo David G. Marr, Hồ Chí Minh muốn ngăn cản tướng Leclerc lôi kéo Bảo Đại trong khi các nhà lãnh đạo Việt Quốc lại thấy Bảo Đại có thể trở thành lãnh tụ của 1 chính phủ mới của phe Quốc gia được Trung Quốc và Hoa Kỳ ủng hộ. Ngày 13 tháng 4 năm 1946, đoàn công tác về đến Hà Nội còn Bảo Đại vẫn ở lại Trùng Khánh rồi sang Hồng Kông sống lưu vong cho đến khi những người Việt Quốc gia lưu vong khác đến gặp ông năm 1947.[235]

Trấn áp các đảng phái đối lập

Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945, các tổ chức chính trị thân Pháp ngừng hoạt động, lãnh đạo các tổ chức này tránh lộ diện công khai. Các đảng phái khác tăng cường hoạt động nhờ sự tê liệt của Sở Liêm phóng Đông Dương do các viên chức Pháp bị cầm tù. Các đảng phái thân Nhật hoạt động công khai, xuất bản báo chí, hội họp, thăm dò mức độ ủng hộ của Nhật. Các đảng phái đứng về phe Đồng Minh tích cực hoạt động để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Đông Dương đồng thời lên án các đảng phái thân Nhật. Từ tháng 7 năm 1945, bạo lực chính trị bắt đầu gia tăng nhưng lãnh đạo các đảng phái và các trí thức thuộc các khuynh hướng khác nhau vẫn gặp gỡ trao đổi thông tin và thảo luận về việc thành lập các liên minh chống thực dân Pháp.[236]

Truyền đơn của Việt Minh kêu gọi tiêu trừ Việt gian

Từ cuối năm 1945, sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Lãnh đạo các đảng phái quốc gia đối lập với Việt Minh rất phẫn nộ vì thấy Việt Minh đơn phương thành lập chính quyền và mong muốn giành lại chính quyền từ tay Việt Minh[27]. Các đảng phái đối lập đẩy mạnh các biện pháp chống lại chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các biện pháp của những đảng phái đối lập này rất đa dạng, bao gồm: tuyên truyền, kích động biểu tình có vũ trang[237], kêu gọi Trung Hoa Dân quốc can thiệp, ám sát các cán bộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thậm chí âm mưu đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[238]

Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với các thế lực đế quốc và tay sai trong nước đã cấu kết, bao vây, chống phá hòng thủ tiêu mọi thành quả của cuộc Cách mạng tháng 8, nhằm khôi phục lại sự thống trị đối với Việt Nam, xoá bỏ nền độc lập mà dân tộc Việt Nam vừa giành được. Các đảng phái dựa vào quân Tưởng, quân Anh và Pháp liên tục tuyên truyền, gây rối chống phá chính phủ, buộc chính phủ phải ban hành các sắc lệnh giải tán đồng thời trấn áp mạnh tay với các phần tử, đảng phái muốn tiêu diệt, lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[239]

Ngay sau khi thành lập, Chính phủ Cách mạng Lâm thời ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái[240][241], với lý do các đảng này "tư thông với ngoại quốc", làm "phương hại đến nền độc lập Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam" [như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng...] nhằm kịp thời "trừng trị bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ" đồng thời giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác cho nhân dân.[242] Ngày 6 tháng 9, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt giam Võ Văn Cầm, thủ lĩnh Đảng Việt Nam Thanh niên ái quốc với tội danh dẫn quân Nhật tìm đánh Việt Minh[243]. Báo Cứu Quốc, số ra ngày 7 tháng 9 năm 1945 đăng tin của Bộ tuyên truyền và cổ động "Dưới thời đô hộ của Nhật, nhiều người đã quá nông nổi, hoặc đã bị hướng dẫn sai lầm, nên vô tình gia nhập vào những đảng có tính cách phản quốc. Chính phủ hiểu rõ chỗ lầm lẫn đáng tiếc đó và sẵn sàng tha thứ cho những người con của Tổ quốc đã lầm đường, trừ những lãnh tụ đã có những hành vi phản quốc rõ rệt...".[244]

Sự có mặt của quân đội Trung Hoa [Tưởng Giới Thạch] là chỗ dựa đảm bảo sự tồn tại của các nhóm đối lập thân Trung Hoa như Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội thì còn xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và những người có trách nhiệm khác của Việt Minh. Sự chống đối của các đảng phái khiến Võ Nguyên Giáp rất tức giận vì nó làm cản trở các nỗ lực của Chính phủ để đối phó với Pháp, cũng như khiến chính phủ phải liên tục đề phòng quân đội Trung Hoa. Có những lần các đơn vị tự vệ thu nhặt những tờ truyền đơn do các đảng đối lập thân Trung Hoa rải trên phố phường, lập tức Hồ Chí Minh bị quân đội Trung Hoa gọi đến trụ sở và bị răn đe. Võ Nguyên Giáp đề nghị dẹp bỏ những đảng phái chống đối để Chính phủ có thể loại trừ nguy cơ đảo chính và yên tâm đối phó với Pháp, nhưng Hồ Chí Minh khuyên ông kiên nhẫn vì "ném chuột phải tránh vỡ bình quý", chẳng có gì phải sợ các đảng phái đối lập vì họ quá yếu kém, "nhưng họ có những kẻ chống lưng" [hàm ý là phải nín nhịn để tránh xung đột với quân đội Tưởng Giới Thạch][245].

Sau khi Hiệp định sơ bộ được ký với Pháp vào tháng 3 năm 1946, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa. Các nhóm đối lập thân Trung Hoa sợ bị mất chỗ dựa. Các nhóm này đã cài người vào đám đông để kích động nhân dân gây bạo loạn nhằm tìm cách phá bỏ hiệp định[246]. Tại ngoại ô Hà Nội dân chúng biểu tình phản đối vì cho rằng Hồ Chí Minh thỏa hiệp với Pháp[247]. Ngày 7 tháng 3 năm 1946, khi hàng vạn người dân tập trung tại quảng trường Nhà hát lớn để nghe Hồ Chí Minh phát biểu thì một quả lựu đạn từ trong đám đông ném lên nhưng không nổ. Thủ phạm sau đó bị bắt, đó là trùm ám sát Giáo Mười và kẻ trực tiếp ném lựu đạn là Văn. Chỗ ở bí mật của Hồ Chí Minh cũng bị Việt Nam Quốc dân Đảng lần ra, nhóm này kéo đến phá phách tan tành ngôi nhà và lấy đi hết đồ đạc[248].

Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15 tháng 6 năm 1946, Võ Nguyên Giáp thấy thời cơ đã tới. Không còn phải e ngại quân Trung Quốc, ông quyết định phải dẹp bỏ mọi sự chống đối trong nội bộ đất nước để Chính phủ có thể tập trung các nỗ lực đối phó với Pháp. Võ Nguyên Giáp hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng , nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên "chiến sĩ Công giáo". Võ Nguyên Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này.[152] Phe quốc gia cho rằng khi sang Pháp đàm phán Hồ Chí Minh đã lên kế hoạch để Võ Nguyên Giáp ở lại Hà Nội tiêu diệt các đảng phái đối lập để dẹp yên sự chống đối trong nội bộ đất nước, và qua đó chính phủ cũng dễ đàm phán với Pháp[247].

Ngày 19 tháng 6 năm 1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sĩ quan Nhật Bản tình nguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp [ở Hòn Gai quân Pháp cung cấp cho Việt Minh những khẩu pháo để diệt một số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ] trong chiến dịch này.[205] Theo David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy thù hận, phản bội, tranh đấu và chết chóc. Cho tới tháng 8 năm 1946, các đảng phái đối lập, ngoại trừ Giáo hội Công giáo, đều bị phá vỡ, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong[129]. Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết giữa các đảng phái, sau các vụ bắt giữ đã mất đi ý nghĩa của nó. Đến tháng 11 năm 1946, chính phủ này được thay thế bởi Chính phủ Liên hiệp Quốc dân nhằm đáp ứng tình hình mới.

Trấn áp Đại Việt

Từ tháng 9 năm 1945, rải rác khắp ba miền, Đại Việt Quốc dân Đảng đã cho thành lập chiến khu ở Kép [Bắc Giang], Lạc Triệu [Bắc Giang], Yên Bái, Di Linh [huyện Nông Cống, Thanh Hóa], An Điền [huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định], An Thành [Vĩnh Long], và Ba Rài [Mỹ Tho] để xây dựng các căn cứ và xây dựng lực lượng quân sự mạnh chống Pháp và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo. Riêng ở Lạc Triệu và Yên Bái còn có trường huấn luyện sĩ quan. Chiến khu ở Kép [Bắc Giang] được Đại Việt Quốc dân Đảng đánh giá là một áp lực mạnh mẽ đối với Việt Minh, có thể "sẵn sàng chuyển quân nhanh chóng về Hà Nội, "dọn dẹp" sạch sẽ Bắc Bộ Phủ [trụ sở của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]"[238].

Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng với lý do "Đại Việt quốc gia xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam và Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam"[249][250]

Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, các tổ chức khác nhau của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Minh có thể đã thủ tiêu hoặc bắt giữ hàng trăm đảng viên và những người có liên quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng tại các tỉnh Ninh Bình, Tuyên Quang, Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên... Trương Tử Anh lẩn trốn sự truy nã của công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời liên tục cảnh báo Việt Nam Quốc dân Đảng không được liên minh với Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong suốt năm 1946, công an tiếp tục truy lùng thành viên các đảng Đại Việt. Theo David G. Marr, nhờ tuyên truyền có hiệu quả nên Việt Minh làm dân chúng tin rằng đảng viên Đại Việt là những tên tay sai cho phát xít Nhật dù trên thực tế trước ngày 9 tháng 3 năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp chỉ có một số ít người Việt có quan hệ với người Nhật, sau ngày 9 tháng 3 năm 1945 tất cả các đảng phái ở Việt Nam kể cả Việt Minh đều tiếp xúc với quân đội và nhân viên dân sự Nhật.[251] Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ngày 19 tháng 12 năm 1946 thì Trương Tử Anh đột ngột mất tích, có người nghi là ông bị Việt Minh thủ tiêu.[252]

Năm 1949, khi chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đến hồi quyết liệt, các đảng viên Đại Việt thỏa hiệp với Pháp và tham gia thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam trực thuộc Liên hiệp Pháp. Năm đảng viên Đại Việt chiếm 5 trong số 19 ghế Nội các trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam.

Trấn áp nhóm Trotskyist

Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist [nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế] đã có hành vi phá hoại. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ thể hiện bằng báo chí, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm bất đồng quan điểm về việc thực hiện cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ bộ vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực hiện ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh, gồm cả Anh và Pháp. còn Đảng cộng sản Đông Dương muốn thi hành chính sách thận trọng: giải phóng dân tộc trước rồi làm cách mạng xã hội, đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước.[237]

Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu "Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong ủy ban Hành chánh Nam bộ". Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong chống lại, xung đột với đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương.[237]

Ngay sau đó, Dương Bạch Mai bắt giam những người Trotskyist tại Sài Gòn. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22 tháng 9 năm 1945 và giao nộp cho người Pháp.[237] Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức tấn công quân Anh, Pháp theo lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10 năm 1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ hoặc xử bắn khoảng 20 lãnh đạo quan trọng của phe Trotskyist[237]. Nguyễn Long Thành Nam [tín đồ Hòa Hảo, cựu quan chức Việt Nam Cộng hòa] cho rằng tại Sài Gòn, lực lượng công an do Việt Minh kiểm soát đã bắt và xử bắn 68 cán bộ chủ chốt của phe Trotskyist trong đó có Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Văn Phương khi họ đang họp ở Thủ Đức vì phe Trotskyist không chấp hành lệnh rút lui về nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị của Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ[253]. Tuy nhiên, một số nguồn khác thì cho rằng một số nhân vật Trotskyist bị các nhóm vũ trang tự phát đang cát cứ tại địa phương ám sát [ví dụ như Phan Văn Hùm bị "tư lệnh miền Đông" tự xưng là Kiều Đắc Thắng giết][254]. Những thành viên Trotskyist khác phải nương tựa Hòa Hảo và các đảng phái quốc gia ở Đồng bằng sông Cửu Long.[255][256][257][258]

Tại miền Bắc, các chính quyền địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và bắt giam những người Trotskyist tuy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo ngại đối với chính quyền hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí, từ Trotskyist vẫn tiếp tục xuất hiện là để cảnh cáo những nhân viên nhà nước công khai phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động kiểm soát nhà máy, xí nghiệp.[259]

Trấn áp Việt Cách

Sau khi Việt Minh lập chính quyền mới, Nguyễn Hải Thần yêu cầu Hồ Chí Minh nhường chỗ cho ông ta trong chính phủ nhưng ông Hồ làm ngơ nên Việt Cách tổ chức một chiến dịch chống Việt Minh hết sức quyết liệt. Hồ Chí Minh nhượng bộ bằng cách ký với Việt Cách một thỏa hiệp hợp tác vào ngày 23 tháng 10 năm 1945.[27] Trong khi lãnh đạo các phe phái Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách tranh cãi về các định nghĩa pháp lý, về việc bổ nhiệm các bộ trưởng và việc đưa ra các tuyên bố chung để đi đến thành lập Chính phủ liên hiệp thì các chủ bút, cán bộ chính trị, lực lượng vũ trang của các bên vẫn đấu tranh với nhau gay gắt. Trên báo Cứu Quốc, 7 Tháng Chín 1945 Việt Minh tố cáo Việt Cách "Hội ấy cũng nêu lên cái khẩu hiệu đánh đuổi Pháp - Nhật. Nhưng họ đã tranh đấu những gì? Trong cuộc võ trang khởi nghĩa đánh vào hai kẻ thù, giữa lúc chủ quyền của chúng còn bền vững cũng như khi đã tan rã, người ta chỉ thấy có đoàn thể Việt Minh... Suốt trong thời kỳ ấy, không ai nghe nói đến hành động của Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Vừa đây, trước cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Minh ít ngày, hội ấy mới mộ một bọn thổ phỉ kéo vào Móng Cái để đánh Pháp Nhật [ở đó Pháp không còn một người và Nhật đã rút lui]".[260] Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến ban biên tập các tờ báo một bức thư hư cấu chỉ trích Nguyễn Hải Thần không cử người tham gia đoàn quân Nam tiến chi viện cho miền Nam đồng thời buộc tội ông thỏa thuận với quân Pháp. Báo chí thường xuyên cáo buộc Việt Cách và Việt Quốc tống tiền dân chúng. Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên bắt giữ các thành viên Việt Cách vì tội tống tiền, đặc biệt là đối với Hoa kiều. Các thành viên Việt Minh và Việt Cách xé áp phích của nhau, đe dọa tính mạng và phá các cuộc họp của đối thủ. Bồ Xuân Luật, nguyên là đảng viên Việt Cách, đã rời bỏ đảng này và lập ra tờ báo Đồng Minh xuất bản cho đến tháng 11 năm 1946. Mười ngày sau đó, tại Hà Nội, Bồ Xuân Luật bị Việt Cách phục kích bắn trọng thương, nhưng may mắn thoát chết.[200]

Các lãnh đạo Việt Cách không gặp khó khăn gì trong việc kiểm soát các thị xã từ biên giới Trung Quốc đến đồng bằng sông Hồng cho đến khi quân đội Trung Quốc rút về nước vào tháng 4 năm 1946. Các viên chức nhà nước tại những nơi đó phải đối mặt với việc trung thành với Việt Cách, trung lập hay di tản khỏi thị xã. Việt Cách đôi khi phải xin phép chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thực hiện một số hoạt động của họ.[199]

Bị Việt Quốc làm lu mờ và ngày càng mất đoàn kết, tháng 3 năm 1946, Việt Cách bị chia rẽ. Một số thành viên tập trung bảo vệ các thị xã phía Bắc Hà Nội, những người khác gia nhập Việt Quốc, số còn lại gia nhập Việt Minh. Việt Cách có thể đã tổ chức một số cuộc tấn công vào lính Pháp tại Hải Phòng vào tháng 4 năm 1946. Cuối tháng 4 năm 1946, Pháp khai quật được 12 thi hài tại tầng hầm trụ sở cũ của Việt Cách tại Hà Nội trong đó có 2 công dân Pháp mất tích ngày 24 tháng 12 năm 1945. Cuối tháng 5 năm 1946, thành viên Việt Cách Hồ Đắc Thành tham gia Mặt trận Liên Việt. Các thành viên Việt Cách ở Quảng Yên và Móng Cái đã rút qua Trung Quốc vào giữa tháng 6 năm 1946. Cuối tháng 10 năm 1946, báo Đồng Minh của Bồ Xuân Luật đưa tin về cuộc họp của một số chi bộ còn lại của Việt Cách và việc một số thành viên Việt Cách tham gia kỳ họp thứ hai của quốc hội. Công an thu được một số tài liệu của Việt Cách và triệu tập các thành viên Việt Cách tới thẩm vấn. Một số thành viên Việt Cách bị bắt giam hoặc phải lưu vong, một số thành viên khác thì hợp tác với Việt Minh để xây dựng một hình ảnh mặt trận quốc gia liên hiệp kháng chiến giữa các đảng phái.[261], ví dụ như Bồ Xuân Luật [nguyên là đảng viên của Việt Cách] được giữ chức Quốc vụ khanh trong chính phủ mới.

Trấn áp Việt Quốc

Ngay sau khi Việt Minh giành chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945, Lê Khang dẫn đầu một nhóm Việt Quốc rời Hà Nội đến Vĩnh Yên nằm trên tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội. Tại đây họ tổ chức một cuộc biểu tình của dân chúng để thuyết phục lực lượng Bảo an binh địa phương tham gia. Ngày 29 tháng 8 năm 1945, hàng ngàn người ủng hộ Việt Minh thuộc 3 huyện lân cận tiếp cận căn cứ của Việt Quốc tại Vĩnh Yên kêu gọi Việt Quốc tham gia một cuộc diễu hành xuyên qua thị trấn. Khi bị từ chối, họ bắn thành viên Việt Quốc. Việt Quốc bắn trả khiến một số người chết đồng thời bắt giữ khoảng 150 người. Những người bị bắt được thả sau khi đã được tuyên truyền về Việt Quốc và thừa nhận mình bị lừa khi tham gia biểu tình. Sau đó, Việt Minh và Việt Quốc tiếp tục thảo luận về việc phóng thích những người còn bị Việt Quốc giam giữ, về việc tổ chức đàm phán và những đề xuất liên quan đến việc thành lập chính quyền liên hiệp ở địa phương. Trong khi hai bên thảo luận, Việt Minh cắt đứt nguồn cung cấp lương thực cho thị xã Vĩnh Yên khiến cuộc sống ngày càng khó khăn.[262]

Ngày 18 tháng 9 năm 1945, Hoàng Văn Đức, một thành viên quan trọng của Đảng Dân chủ Việt Nam cùng đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Hà Nội đến Vĩnh Yên thương lượng. Cuộc thương lượng không thành công, Lê Khang tấn công Phúc Yên nhưng thất bại. Các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công Vĩnh Yên nhưng không giành được thị xã này. Sau đó hai bên ngừng bắn trong vài tháng. Việt Quốc không tranh giành ảnh hưởng với Việt Minh ở vùng nông thôn ngoài việc chiếm giữ nông trại Tam Lộng tại Vĩnh Yên. Đầu tháng 12 năm 1945, Việt Minh tấn công Tam Lộng nhưng bị đẩy lùi.[263]

Tháng 9 năm 1945, Việt Quốc thỏa thuận bí mật với đại úy Nguyễn Duy Viên theo đó đại đội lính khố đỏ của ông sẽ theo Việt Quốc. Tuy nhiên Việt Quốc nghi ngờ đại úy Viên là điệp viên hai mang của Pháp và sẽ điều động đơn vị của mình thủ tiêu đảng viên Việt Quốc ngay sau khi vượt biên giới về Việt Nam. Đầu tháng 11, Viên đến Hà Giang gặp các thành viên Việt Quốc tại đây. Những binh sĩ đào ngũ từ các đơn vị lính thuộc địa cũng đổ về Hà Giang giúp Viên có được một đội quân khoảng 400 người. Việt Quốc và Việt Minh tại Hà Giang mâu thuẫn nhau khiến Viên đến Hà Nội yêu cầu chính phủ cử đại diện đến thuyết phục mọi người cùng chống Pháp. Sau khi gặp Hồ Chí Minh, Viên trở về Hà Giang, cho quân bắt giữ các đảng viên Việt Quốc tại đây và xử bắn một số người trên một ngọn đồi gần thị xã. Tháng 4 năm 1946, Việt Quốc cho người ám sát ông tại Hà Nội.[152]

Việt quốc đã mua chuộc thư ký của Đàm Quang Trung để nhận nhiệm vụ ám sát Hồ Chí Minh, nhưng kế hoạch này đã bị phá vỡ. Cuối tháng 10 năm 1945, ban ám sát của Việt Quốc là "Hùm xám" đã giao cho Nghiêm Xuân Chi nhiệm vụ ám sát Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng tại số 8 phố Lý Thái Tổ, nhưng Chi bị bắt tại nhà hàng Thuỷ Tạ khi đang phục kích để hành động. Sau đó Hồ Chí Minh ít trở về số 8 Vua Lê nữa mà chuyển về ở tại một ngôi nhà nhỏ sát đê Bưởi, cách dốc Cống Vị khoảng 300 mét để tránh bị ám sát[264].

Báo Sự thật của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dương, ngày 5 tháng 12 năm 1945 đăng tải bức thư ngỏ của Hội gửi các anh em trong Việt Nam Quốc dân Đảng: "...Chúng tôi không bảo những người theo Đại Việt quốc xã, Cao đài, Phật thầy là Việt gian cả. Trong số những người ấy có nhiều phần tử trung thực chỉ vì thiếu sự nhận xét sáng suốt về chính trị, nên đã nhầm theo bọn lãnh tụ Việt gian. Nhưng còn những phần tử 100 phần 100 phản quốc, lẩn sau những chiêu bài Việt Nam Cách mạng đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân đảng để tránh sự trừng phạt của quốc dân và Chính phủ. Các anh dung túng họ và hơn nữa nhận họ trong hàng ngũ; thế là các anh tự chia rẽ với dân, chứ không phải ai chia rẽ với các anh đâu...Không kể chi những chuyện xa xôi, hãy nói những cuộc khởi nghĩa hay đấu tranh cách mạng từ chiến tranh đến giờ: Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, kháng Nhật cứu nước, mồng 9 tháng ba, khởi nghĩa 19 Tháng Tám. Trong những giờ phút thiêng liêng ấy, các anh ở đâu?... Chúng tôi xin đề ra ba nguyên tắc hợp tác giữa các đảng phái yêu nước như dưới đây:1. Đoàn kết hợp tác giữa tất cả các đoàn thể chân chính yêu nước, nhưng không đoàn kết vô nguyên tắc với bọn phản quốc. 2. Sự đoàn kết thành thực giữa các đảng phái cách mạng chỉ có thể đặt lên trên nền tảng hành động chung. 3. Cấm chỉ mọi hành động có hại cho nước, có lợi cho địch, nhất là việc gièm pha cuộc kháng chiến và mạt sát Chính phủ kháng chiến."[265]

Tháng 5 năm 1946, Trần Đăng Ninh, phụ trách an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đến Vĩnh Yên với lý do thảo luận về công tác sửa chữa đê điều và bị Vũ Hồng Khanh bắt. Ninh và 2 người khác trốn thoát. Việc bắt giữ này trở thành lý do để đàn áp Việt Quốc. Vệ quốc quân bắt đầu tuần tra quanh nơi hoạt động của Việt Quốc. Ngày 20/5 năm 1946, trong một cuộc đụng độ gần Phú Thọ, Việt Quốc bắt giữ và hành quyết một nhóm người ủng hộ Việt Minh, thả vài xác chết xuống sông Hồng để cảnh cáo.[266]

Giữa tháng 5 năm 1946, Bộ Nội vụ ra lệnh cho tất cả các cán bộ công chức đang làm việc tại 7 thị xã ở các tỉnh phía Tây và Tây Bắc Hà Nội sơ tán và tham gia vào các Ủy ban thay thế được thành lập ở các địa điểm mới. Những người không thực hiện lệnh này không còn là người của chính phủ.[266]

Tháng 6 năm 1946, khi quân đội Trung Quốc rút về Vân Nam, dân quân của Việt Minh cô lập các thị xã do Việt Quốc kiểm soát. Ngày 18 tháng 6 năm 1946, Vệ quốc quân tấn công Phú Thọ và Việt Trì. Quốc dân quân của Việt Quốc ở Phú Thọ hết đạn sau 4 ngày và phải rút lui. Vũ Hồng Khanh chỉ huy 350 lính phòng thủ Việt Trì trong 9 ngày rồi rút lui về Yên Bái. Việt Quốc ở Vĩnh Yên do Đỗ Đình Đạo chỉ huy đàm phán với Việt Minh và đạt được thỏa thuận ngừng bắn trong 2 tháng. Đỗ Đình Đạo đồng ý sáp nhập lực lượng của ông vào Vệ quốc quân và thành lập Ủy ban Hành chính liên hiệp tại Vĩnh Yên. Lực lượng này được chia nhỏ đưa về các tiểu đoàn Vệ quốc quân tại nhiều nơi. Đỗ Đình Đạo được thuyên chuyển về Hà Nội. Trong suốt tháng 5 và tháng 6 năm 1946, Báo Việt Nam của Việt Quốc tại Hà Nội khẩn thiết kêu gọi Việt Minh ngừng tấn công Việt Quốc.[266]

Cuối tháng 6 tại Hà Nội, các thành viên Việt Quốc họp để thảo luận về việc có nên thừa nhận sự lãnh đạo của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ chức đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là đồng minh của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính có thể bắt đầu bằng việc tấn công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có ý định diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp [14 tháng 7 năm 1789] khiến lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lo ngại sự kiện này có thể trở thành mục tiêu của các đảng phái đối lập với Việt Minh. Võ Nguyên Giáp hỏi ý kiến của chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ, đại tá Jean Crépin về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách thì được ông này trả lời Pháp sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[267] Trường Chinh [Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật, chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương] được Nha Công an Trung ương báo cáo phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị đảo chính Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ đạo phải tập trung trấn áp Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ.

Sáng sớm ngày 12 tháng 7 năm 1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[268] bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do nghi ngờ Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14 tháng 7 năm 1946 khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp phản ứng.[269] Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên nhưng vẫn tiến hành để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.[268] Công an cũng được cho là đã phát hiện một bản kế hoạch có chữ ký của Trương Tử Anh, theo đó Đại Việt sẽ quăng lựu đạn vào lính Pháp gốc Phi trong ngày diễu binh của quân đội Pháp, tiếp đó quân đội Đại Việt hoặc quân đội Pháp sẽ bắt giữ những lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cuối cùng Trương Tử Anh sẽ công bố thành lập chính phủ mới[267]. Lê Giản, Giám đốc Nha Công an Bắc bộ, đưa tài liệu này cho Quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng. Ông này đọc rồi nói giận dữ: "Tiêu diệt chúng! Quét sạch toàn bộ! Lũ phản bội! Đồ chó má!". Tuy nhiên, tài liệu này là một bản dự thảo do Trương Tử Anh viết tay chỉ để sử dụng trong nội bộ Đại Việt Quốc dân Đảng chứ không gửi cho Pháp, Lê Giản không cung cấp được bằng chứng về sự thông đồng của Pháp với Đại Việt Quốc dân Đảng trong kế hoạch đảo chính hụt ngày 14 tháng 7 năm 1946 ngoài việc Sainteny tiếp tục muốn tổ chức diễu binh vào ngày đó. Lê Giản tìm Võ Nguyên Giáp và được Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh.[267]

Sau đó, lúc 7 giờ sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, Việt Nam Công an vụ thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu[270]. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản [Giám đốc Nha Công an Bắc bộ], Nguyễn Tuấn Thức [Giám đốc Công an Hà Nội] và Nguyễn Tạo [Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương].[269] Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng [7 căn nhà] tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó... Hơn 100 người bị bắt và một số người biến mất không dấu vết. Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt có một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.[207][267]

Nhà nước sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công được gọi tắt là "Vụ án phố Ôn Như Hầu". Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả... Tuy nhiên Việt Quốc đã không bị kể tên trong một số bài báo.[267]

Theo David G. Marr, nếu thật sự Pháp muốn đảo chính [họ đã cân nhắc và hoãn nhiều lần] thì không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ngòi, càng không cho Anh thành lập chính phủ. Công an cố tình lập lờ giữa Đại Việt Quốc Dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh lãnh đạo khi nhắm vào tòa soạn Báo Việt Nam và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn công, có người trong chính quyền đã cố gắng hạn chế những lời lên án công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc vì nó đồng nghĩa với tội phản quốc.

Sau khi rút lui về Yên Bái, Vũ Hồng Khanh nhận ra rằng nguồn cung cấp lương thực tại địa phương chỉ đủ nuôi sống lực lượng quân đội Việt Quốc chứ không đủ cung cấp cho những người ủng hộ Việt Quốc từ đồng bằng sông Hồng đến. Việc tiếp tế từ Lào Cai gặp nhiều khó khăn vì Việt Minh đã phá hủy đường sắt. Tới tháng 11, Lào Cai bị Vệ Quốc quân bao vây và lương thực sắp hết. Vũ Hồng Khanh quyết định sơ tán sang Vân Nam và ra lệnh hành quyết 2 giảng viên học viện quân sự vì cố gắng dẫn học viên của họ quay trở lại đồng bằng. Tháng 10 năm 1947, khi quân Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ, công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị Pháp cáo buộc xử bắn hơn 100 tù nhân Việt Quốc.[271]

Theo William Duiker, các tình tiết xung quanh vụ xung đột với Việt Quốc là vấn đề phải bàn cãi. Tuy nhiên, đáng chú ý, các nhà ngoại giao Mỹ và Pháp cũng đều đổ lỗi cho những phần tử Việt Quốc đã xúi giục gây rối trong các bản báo cáo gửi về nước.[246]

Về sau, Việt Quốc lại phân hóa thành nhiều nhóm khác nhau. Một nhóm đồng ý hợp tác với Việt Minh để cùng tham gia chính phủ kháng chiến chống Pháp, ví dụ như Chu Bá Phượng [nguyên là đảng viên Việt Quốc] được giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế trong chính phủ kháng chiến. Nhóm kia thì vẫn chống Việt Minh, đến năm 1949 thì nhóm này lại phân hóa thành 2 khuynh hướng: một số chống Bảo Ðại vì quyết giữ lập trường chống Pháp, nhưng số khác lại quay sang hợp tác với Pháp, ủng hộ việc thành lập Quốc gia Việt Nam để cùng Pháp chống Việt Minh. Nhóm hợp tác với Pháp có nhiều người giữ nhiều chức vụ cao trong chính phủ Quốc gia Việt Nam như Nghiêm Xuân Thiện được làm tổng trấn Bắc Kỳ vào năm 1949.

Căng thẳng dẫn đến bùng nổ

Bài chi tiết: Trận Hải Phòng [1946-1947] và Trận Hà Nội 1946

Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu.

Ngày 20 tháng 11 năm 1946, quân Pháp tấn công và đánh chìm ở cảng Hải Phòng một thuyền buồm Trung Quốc chở xăng được cho là để giao cho Việt Minh. Vệ quốc quân Việt Nam đánh trả lại quân Pháp. Sau cuộc ngừng bắn ngày 21 tháng 11 năm 1946, Pháp gửi tối hậu thư cho chính quyền Việt Nam ở Hải Phòng, đòi quân đội Việt Minh phải rút khỏi Hải Phòng và trao thành phố lại cho Pháp. Ngày 23 tháng 11 năm 1946, chính quyền Việt Nam từ chối yêu sách của Pháp, và quân Pháp bắt đầu bắn phá Hải Phòng với xe tăng, pháo binh và trọng pháo từ tuần dương hạm Suffren, để "dạy Việt Minh một bài học", như lời của Tổng chỉ huy quân Pháp, tướng Jean-Étienne Valluy nói với các viên chỉ huy địa phương qua radio.[272]

Tổ tự vệ chợ Đồng Xuân mùa đông năm 1946.

Ngày 23 tháng 11, Đại tá Pierre Louis Dèbes gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏi khu phố Tàu của Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tàu chiến Pháp bắn phá thành phố, trong một buổi chiều đã giết chết hơn 6.000 người dân[273] hoặc hơn 2.000 người theo một nguồn khác.[274]. Sau đó, khoảng 2.000 lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Máy bay ném bom và oanh tạc cơ Pháp trên không phận yểm trợ cho các đoàn thiết giáp và bộ binh tiến chiếm các khu phố, tấn công các trụ sở chính quyền Việt Nam.

Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Quân Tự vệ Việt Nam chỉ có những thứ vũ khí cũ kỹ như súng trường Mousqueton, mã tấu và lựu đạn nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu bảo vệ Hải Phòng. Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.

Tin chiến sự lan ra toàn quốc. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy bình tĩnh để cố cứu vãn hòa bình. Trong khi đó thì Võ Nguyên Giáp yêu cầu được gặp Tướng Molière [Tư lệnh Pháp tại Bắc Việt Nam] vào ngày 27 tháng 11 năm 1946 để đàm phán. Mãi tới ngày 29 tháng 11, Tướng Molière mới chịu gặp Giáp. Khi nói chuyện, Tướng Molière nói thẳng lập trường của Pháp là quân Pháp phải kiểm soát Hải Phòng cùng các vùng phụ cận và quốc lộ số 5 [nối liền Hà Nội với Hải Phòng] cũng như tất cả các thông lộ nối liền với các đồn trú quân của Pháp. Nếu chính phủ Việt Nam không chấp nhận những điều kiện này thì không có đàm phán gì hết. Đòi hỏi của Pháp khiến cho chính quyền Việt Nam không còn hy vọng gì thương thuyết được với người Pháp và phải chuẩn bị chiến tranh. Tất các cơ quan chính quyền Việt Nam chuẩn bị rút lui ra khỏi thủ đô Hà Nội để chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Sau sự kiện Hải Phòng, kế hoạch phòng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để chính phủ Việt Nam có thời gian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. Còn phần lớn lực lượng quân sự của Việt Nam trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trong nội thành có gần 10.000 du kích và tự vệ, bao gồm những thanh niên đầy nhiệt tình ủng hộ cách mạng, nhưng các lực lượng này chỉ được trang bị chủ yếu bằng vũ khí thô sơ tự tạo. Đối thủ của họ là vài nghìn lính Lê dương Pháp được trang bị hiện đại, chủ yếu đóng trong Thành Hà Nội, phần còn lại đóng xen kẽ tại 45 điểm trong thành phố như Phủ Toàn quyền, ga Hà Nội, nhà băng Đông Dương, nhà thương Đồn Thủy, cầu Long Biên, và sân bay Gia Lâm.

Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy phòng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí phòng thủ của mình. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi Pháp rút về các vị trí họ đã giữ từ trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng tránh được chiến tranh - cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. "Nhưng nếu chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh", ông nói, "chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự do của mình".

Ngày 12 tháng 12, Léon Blum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Blum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.

Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Blum vào đến Sài Gòn, Vallue viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó thì chiến tranh đã nổ ra rồi.

Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún [Hà Nội], rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau [ngày 19 tháng 12], Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của quân Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố.

Leclerc, người tham gia Hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba, cũng đã điều tra sự cố dẫn đến xung đột tại miền Bắc Việt Nam và việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố kháng chiến khiến các giải pháp chính trị thất bại. Ngày 27 tháng 1 năm 1947, tuyên bố của chính phủ Pháp về "Chi tiết các mục tiêu theo đuổi của Pháp ở Đông Dương" có nêu "để đạt được càng sớm càng tốt với các đại diện đủ điều kiện của người An Nam một thỏa thuận phù hợp với nguyện vọng chính đáng trong Liên hiệp Pháp [...] trên cơ sở độc lập của đất nước cùng với việc duy trì lợi ích của Pháp và sự hiện diện của [các] căn cứ chiến lược của lực lượng Pháp. Một hỗ trợ lớn và ngay lập tức phải nhằm củng cố chính quyền của Nam Kỳ, nhưng "phần nào đủ điều kiện" để không đóng cánh cửa đàm phán với Việt Minh." [275]

Đối với người Việt, tình hình không khác với sự kiện Hải Phòng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đã ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Blum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng cứu vãn hòa bình, Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm phán "tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Ðảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong tình hình hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng ngày. Kháng chiến chống Pháp bắt đầu.

Vệ quốc đoàn với vũ khí tầm vông vạt nhọn

Ngay trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trên hệ thống loa phát thanh Hà Nội. Sáng ngày 20/12, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp đất nước[276]:

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp để cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11-1945: Tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương

Nguyễn Minh Huệ - Phạm Minh Triều
2020-11-26T16:07:37+07:00 2020-11-26T16:07:37+07:00 //truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-tuyen-truyen/chi-thi-khang-chien-kien-quoc-ngay-25-11-1945-tam-nhin-chien-luoc-cua-dang-cong-san-dong-duong-984.html /home/themes/egov/images/no_image.gif
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước //truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png
Thứ tư - 25/11/2020 20:55 88.159 0
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Để giải quyết tình hình “thù trong, giặc ngoài”. Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ngày 25/11/1945. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những nhiệm vụ mới, với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết".
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn, uy tín và địa vị của Liên Xô, thành trì hòa bình của chủ nghĩa xã hội được nâng cao trên trường quốc tế, bên cạnh đó phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ, điều này có lợi cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền, nhân dân ta được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước. Nước ta đứng trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng khó vượt qua của thù trong, giặc ngoài và những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, mà chế độ thực dân phong kiến để lại, nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các chính quyền phản động trong khu vực. Nước ta còn chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết, 90% số dân mù chữ. Ở miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, kéo theo là “Việt Quốc, Việt Cách”, chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi, cướp của giết người và chống phá chính quyền cách mạng. Ở miền Nam: quân Anh với danh nghĩa đồng minh kéo vào nước ta tiếp tay cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. “Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc!”.
Trước tình hình cấp bách, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về “Kháng chiến kiến quốc”. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những nhiệm vụ mới. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn trung ương Đảng đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm chống lại kẻ thù xâm lược, đồng thời giải quyết quyền lợi cho nhân dân. Chỉ thị xác định một số vấn đề cơ bản về đường lối và nhiệm vụ của toàn Đảng. Khẩu hiệu là Dân tộc trên hết – Tổ quốc trên hết”. “Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”[1]. Nội dung của bản chỉ thị gồm 13 điều, đề cập tới toàn bộ hoàn cảnh trong nước cũng như quốc tế. Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cấp bách nhất mà cách mạng cần phải làm trong giai đoạn mới. Chỉ thị là bước chỉ đạo quan trọng khi tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến hết sức phức tạp, không có lợi cho cách mạng, tựu chung lại chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau:
+ Về chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng đất nước, củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn phản quốc, tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp, có thể cải tổ chính phủ trước khi bầu cử, sửa đổi cách làm việc của chính quyền nhân dân địa phương.
+ Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
+Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
+ Về kinh tế tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạng tăng gia sản xuất, chống nạn đói theo khẩu hiệu: “Tấc đất tấc vàng", “Sẽ cơm nhường áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”.
+ Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy nhồi nhét, cổ dộng văn hóa cứu quốc, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá.
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
+ Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai, tuyển thêm đảng viên mới, chú trọng gây thêm cơ sở Đảng trong các xí nghiệp, mở rộng các tổ chức nghiên cứu chủ nghĩa Mác bao gồm những ai có khuynh hướng cộng sản hay có cảm tình với cộng sản, nhưng tổ chức phải do những người cộng sản điều khiển. Trong việc phát triển đảng viên, tăng cường tổ chức Đảng, bản Chỉ thị chỉ rõ, phải tránh cả hai khuynh hướng: Chỗ thì tổ chức Đảng hẹp quá, chậm quá, và chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi câu chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí mật, chỗ thì tổ chức Đảng rộng quá, nhanh quá khiến cho những phần tử phức tạp có thể len vào Đảng. Đồng thời, Chỉ thị cũng nêu rõ: Các tổ chức Đảng phải giữ vững và duy trì sinh hoạt đều đặn, xây dựng, củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay các hội hợp pháp; thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp sự hoạt động bí mật với hoạt động công khai, trong đó, hoạt động bí mật phải được đặc biệt coi trọng và không để cho các cơ quan bí mật trở thành xung đột hoặc đối lập với cơ quan công khai.
+Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc, thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn quố; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Campuchia chống Pháp xâm lược. Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử...
Chỉ thị là bước đi hợp lý, là biện pháp cần thiết sau khi giành chính quyền nhằm cũng cố chế độ, giải quyết những khó khăn của quần chúng càng làm tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của nhân dân với cách mạng. Chỉ thị thể hiện sự sáng tạo trong việc giải quyết chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng trong tình hình mới, chiến lược ở đây được hiểu là chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, còn sách lược ở đây là những biện pháp cụ thể có tính mềm dẻo, khôn khéo, giải pháp mang tính tạm thời nhưng vẫn hướng tới mục tiêu chiến lược đó là giải phóng dân tộc.
Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị của một chính Đảng mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trên một loạt vấn đề liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân - thành quả cao nhất của Cách mạng tháng Tám 1945, tạo tiền đề cơ bản đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đó là việc xác định rõ tính chất và nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám, xác định và phân loại chính xác kẻ thù, phương hướng cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, một loạt giải pháp nhằm xây dựng và tăng cường thực lực cho cuộc kháng chiến, những quan điểm cơ bản về chỉ đạo chiến tranh và những nội dung chính của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh... Trong tình hình “nước sôi lửa bỏng” lúc bấy giờ, những chiến lược và sách lược được thể hiện trong bản Chỉ thị lịch sử “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương thực sự là ánh sáng soi đường cho toàn dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc./.
Tài liệu tham khảo:
[1] Việt Nam những sự kiện lịch sử [1945-1975], NxbHà Nội, Giáo Dục, Tr. 20.
[2] Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương về Kháng chiến kiến quốc, ngày 25-11-1945, Văn kiện Đảng Toàn tập, CTQG, T.8, H, 2000. Những trích dẫn trong bài đều ở bản Chỉ thị này.

Tác giả bài viết: Nguyễn Minh Huệ - Phạm Minh Triều

Công tác tư tưởng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp [1945 - 1954]

[ĐCSVN] - Công tác tư tưởng đã thường xuyên tố cáo những tội ác dã man của địch để nâng cao lòng căm thù, ý chí quyết tâm kháng chiến, không ngại hy sinh gian khổ, vạch những thủ đoạn xảo quyệt của địch để đề cao cảnh giác. Đã kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần đoàn kết quốc tế, làm cho mọi người phân biệt được bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân lao động Pháp.
Hình ảnh những ngày tháng Tám lịch sử ở Hà Nội [Ảnh: hochiminh.vn]

1. ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN Ở MIỀN NAM VÀ CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, tình hình quốc tế có những thay đổi cơ bản. Liên Xô trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa, có uy tín và anh hưởng sâu rộng, là trụ cột của lực lượng hòa bình và dân chủ trên thế giới, là chỗ dựa của nhân dân các nước đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, một loạt nước Đông Âu và miền Bắc Triều Tiên được giải phóng khỏi ách phát xít, tiến hành các cải cách dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ làm rung chuyển hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã có lực lượng mạnh và những vùng giải phóng rộng lớn. Cuộc đấu tranh để giành độc lập của nhiều nước thuộc địa và nửa thuộc địa ngày càng lớn mạnh, có nơi đã giành được một phần quyền làm chủ đất nước. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống của các tầng lớp nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ. ở một số nước như Pháp và Ý, Đảng Cộng sản có uy tín lớn, có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Phe dế quốc suy yếu đi nhiều. Đức, Ý , Nhật bị đánh bại, Anh, Pháp tuy chiến thắng nhưng kiệt quệ về kinh tế, suy yếu hơn về chính trị, quân sự. Riêng đế quốc Mỹ lợi dụng chiến tranh đã vượt lên về kinh tế, chính trị, quân sự và khoa học, kỹ thuật. Dựa vào sức mạnh kinh tế và độc quyền về vũ khí nguyên tử, Mỹ muốn giành quyền bá chủ thế giới. Mỹ dùng hình thức “viện trợ kinh tế” để buộc Anh, Pháp và các nước tư bản khác lệ thuộc vào mình, xâm nhập vào các nước thuộc địa bằng chủ nghĩa thực dân mới.

Tuy bọn đế quốc mâu thuẫn với nhau sâu sắc nhưng trước sự lớn mạnh của Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới, chúng câu kết với nhau lập mặt trận bao vây Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, chống phá phong trào cách mạng thế giới.

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới là điều kiện khách quan thuận lợi để nhân dân ta giữ vững chính quyền và xây dựng chế độ mới. Tuy nhiên, do tính chất triệt để chống đế quốc, lại có vị trí đi đầu trong phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở một địa bàn chiến lược ở Đông Nam Á cho nên cách mạng Việt Nam đã trở thành đối tượng chống phá chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chính quyền cách mạng mới ra đời đã gặp muôn vàn khó khăn. Nạn đói khủng khiếp chưa chấm dứt lại xảy ra lụt lớn ở Bắc Bộ, sau đó lại đến hạn hán. Sản xuất đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả cao vọt. Về mặt tài chính, Nhà nước gặp khó khăn lớn: Kho bạc trống rỗng, tbuế chưa thu được. Nước Việt Nam dán chủ cộng hoà ra đời chưa được nước nào trên thế giới công nhận. Giữa lúc ấy thì hơn hai mươi vạn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho chúng.

Ở miền Nam quân đội Anh kéo vào, mở đường cho quân đội thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Một đội quân Pháp từ Vân Nam trở về chiếm đóng tỉnh Lai Châu. Bọn phản động người Việt [tập hợp trong hai tổ chức: Việt Nam quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh hội] theo gót quân đội Tưởng, được chúng giúp đỡ đánh chiếm các thị xã Lao Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Móng Cái, hô hào chống lại chính quyền cách mạng, tổ chức bạo loạn.

Bọn chúng được quân Tưởng hỗ trợ lập trụ sở ở nhiều khu phố Hà Nội, tự xưng là những người yêu nước, nói xấu chính quyền cách mạng, xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản. Chúng tập hợp các loại phản cách mạng từ bọn phản động trong giai cấp địa chủ, tư sản, trong đạo Thiên Chúa đến bọn Tờrốtkít. . . vào cái gọi là “Mặt trận quốc gia”. Chúng mắc loa phóng thanh tuyên truyền, xuất bản báo chí phản động, tổ chức mít tinh, biểu tình vận động, bãi thị, bãi khóa, tổ chức ám sát, bắt cóc, nhằm lật đổ chính quyền.

Chính quyền cách mạng mới ra đời kinh tế tài chính kiệt quệ, trên đất nước có tới 30 vạn quân đội thù địch nước ngoài. Vận mệnh dân tộc ta lúc này khác nào “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền cách mạng có thể bị lật đổ. Nhưng cũng chính vào lúc này, nhân dân ta đã làm chủ đất nước tràn đầy phấn khởi, tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng làm mọi việc để bảo vệ độc lập, tự do.

Ngay sau ngày công bố Tuyên ngôn Độc lập [2-9- 1945], trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng nêu ra 6 nhiệm vụ cấn kíp: chống đói; chống dốt; tổng tuyển cử; xây dựng nếp sống mới; xoá bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tín ngưỡng tự do. Sau đó Người đã bổ sung và khái quát thành ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Trong tháng 9, cuộc đấu tranh phức tạp, gay gắt của nhân dân miền Bắc chống lại quân đội Tưởng và bè lũ tay sai diễn ra cùng một lúc với cuộc kháng chiến anh dũng và gian khổ của nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Công tác tư tưởng lúc này tập trung giáo dục ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lời thề ngày “Tuyên ngôn độc lập” 2-9 “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vưng quyền tự do và độc lập”[1], cổ vũ nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Ngay sau khởi nghĩa,Bộ Tuyên truyềnđược thành lập do đồng chí Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng đã tiếp quản các cơ sở tuyên truyền, báo chí của chế độ cũ và đài phát sóng Bạch Mai. Đài phát thanhTiếng nói Việt Namđược thành lập và hoạt động từ ngày 7-9- 1945.Việt Nam Thông tấn xãcũng được thành lập để cung cấp tin cho các cơ quan lanh đạo và phục vụ công tác tuyên truyền. Ngày 15-9 Việt Nam Thông tấn xã đã chính thức phát tin bằng sóng vô tuyến ra thế giới bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp, Anh.

BáoCờ giải phóngcủa Đảng,Cứu Quốccủa Mặt trận Việt minh,Lao độngcủa Hội Công nhân cứu quốc,Tiếng gọi phụ nữcủa Hội Phụ nữ cứu quốc,Hồn nướccủa Đoàn thanh niên cứu quốc,Độc lậpcủa Đảng Dân chủ đã được phát hành công khai, rộng rãi. Khắp nơi tổ chức các cuộc mít tinh, các buổi nói chuyện về việc thành lập Chính phủ cách mạng, chính quyền địa phương và những nhiệm vụ công tác trước mắt.

Khi quân Tưởng kéo vào, đâu đâu chúng cũng thấy những khẩu hiệu “Hoa-Việt thân thiện”, “Kiên quyết ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm” . Ngày 11-9-1945 tướng Lư Hán vào Hà Nội thì ngày 14-9- 1945 đã được chứng kiến hàng chục vạn nhân dân Hà Nội biểu tình phản đối quân đội Anh yểm trợ cho quân đội thực dân Pháp trở lại miền Nam.

Đầu tháng 10, Tổng tham mưu trưởng quân đội Tưởng, tướng Hà ứng Khâm đến Hà Nội để thúc đẩy thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng lại được đón tiếp bằng một cuộc biểu tình của hơn 30 vạn nhân dân Hà Nội. Các đoàn biểu tình hàng ngũ chỉnh tề mang theo cờ, băng, biểu ngữ, hô vang các khẩu hiệu “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh", "Đả đảo thực dân xâm lược Pháp".

Ngày 26-9- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửl thư cho đồng bào Nam Bộ, nêu rõ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ được cả nước ủng hộ, biểu dương gương chiến đấu dũng cảm của quân dân Nam Bộ, nêu rõ quyết tâm của toàn dân ta: "Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”[2], khẳng định cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta nhất định thắng lợi. Công tác tuyên truyền đã liên tục tố cáo âm mưu và tội ác của thực dân Pháp ở miền Nam, động viên lòng căm thù và ý chí quyết tâm chống xâm lược, ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến. Các tỉnh đều có những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng chống thực dân Pháp xâm lược. Các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ đều có nhiều hình thửc động viên phong phú để quyên góp thuốc men, quần áo, vũ khí chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam như tổ chức ra các "Phòng Nam Bộ", "Ngày Nam Bộ". Hàng vạn thanh niên nô nức tham gia tòng quân, xung phong "Nam tiến". Các cuộc tiễn đưa các đoàn quân "Nam tiến" diễn ra hào hùng trong tiếng ca cách mạng.

Ở Nam Bộ, ngay từ đầu tháng 9-1945 khi quân Pháp bám gót quân Anh kéo vào, công tác tuyên truyền đã được tiến hành sâu rộng nhằm nâng cao ý chí chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Ở Sài Gòn Chợ Lớn, chiều 23-9- 1945 ta vận động đồng bào tổng đình công, không hợp tác với giặc, lập các công sự, tổ chức cuộc chiến đấu trong thành phố bằng các vũ khí sẵn có. Từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10, cuộc chiến đấu của các lực lượng tự vệ công nhân, tự vệ thanh niên, công an xung phong cùng với nhân dân thành phố đã gây cho quân đội Anh, Pháp khốn đốn: điện, nước bị cắt, tiếp tế khó khăn, luôn luôn bị ta tập kích tiêu hao, tiêu diệt, buộc chúng phải tìm cách điều đình với ta để tạm thời hoà hoãn cho đến khi có thêm quần tiếp viện. Vì chưa có thời gian chuẩn bị, cuộc kháng chiến ở Nam Bộ lúc đầu có nhiều khó khăn, nhưng sau hội nghị Xứ uy Nam Bộ, đảng bộ Nam Bộ được củng cố, ta rút được kinh nghiệm bước đầu, tổ chuc lại các lực lượng vũ trang, phát triển cơ sở chính trị, đẩy mạnh chiến tranh du kích, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của Pháp.

Tháng 2- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu vẻ vang“Thành đồng Tổ quốc”cổ vũ mạnh mẽ cuộc chiến đấu của quân, dân miền Nam.

Ở miền Bắc, ngay từ khi đưa quân vào nước ta, bọn Tưởng cũng đã thấy quyết tâm bảo vệ chủ quyền của nhân dân ta, bắt buộc phải liên hệ với chính quyền cách mạng để giải quyết những nhu cầu về hậu cần, tiếp tế. Nhân dân ta ngày càng thấy rõ đã tâm của chúng và bọn phản động tay sai nên tỏ rõ thái độ phản đối, bất hợp tác với những hành động vu cáo, phá rối của bọn tay sai Việt quốc, Việt cách.

Ngày 17- 10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện và làng, chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ chính quyền cách mạng. Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, đều là đầy tớ của dân nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của đế quốc Pháp, Nhật. Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Người cũng vạch ra những lầm lỗi cần phải sửa chữa của một số cán bộ: Cậy thế, làm trái phép, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.Bức thư này bước đầu đã xây dựng cơ sở lý luận cho chính quyền kiểu mới ở nước ta.

Ngày 25- 11- 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”, phân tích tình hình trong nước và thế giới, đánh giá thái dộ của đế quốc Pháp, Anh, Mỹ và phản động Tưởng Giới Thạch, xác định cách mạng nước ta vẫn là cách mạng giải phóng dân tộc, kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược. Hai nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ mới. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Chỉ thị cũng nêu rõ những biện pháp cơ bản về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao để thực hiện nhiệm vụ trên.

Về tuyên truyền, khẩu hiệu vẫn là: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, chỉ nói đánh thực dân Pháp xâm lược, không nói đánh cả Anh, Pháp, không công kích nước Pháp và dân Pháp.

Chỉ thị kháng chiến kiến quốc vạch ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược sau Cách mạng Tháng Tám, soi đường cho nhân dân ta giữ vững chính quyền cách mạng, từng bước xây dựng chế độ mới trong tình hình vô cùng khó khăn, phức tạp lức này.

Các cán bộ Đảng, đoàn thể, Mặt trận được phái đi khắp mọi nơi tuyên truyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, chống đói, xoá nạn mù chữ, phát triển và củng cố các đoàn thể cứu quốc.

Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, chống đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa. Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”[3]. Trong Lời kêu gọi đồng bào cả nước ra sức cứu đói Người viết: “… Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước:

Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó [mỗi bữa một bơ để cứu dân nghèo”[4]. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói sôi nổi ở khắp nơi.

Với khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang”, các khu hoang hoá được khai khẩn, trồng trọt. Nhiều sáng kiến tương trợ, đùm bọc lẫn nhau của nhân dân để cứu đói như tổ chức “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày nhịn ăn cứu đói” được thực hiện ở cả nông thôn, thành phố.

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất cứu đói, Đảng lãnh đạo chính quyền thực hiện việc tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại công điền, giảm tô, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác. Nhờ đó sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục. Việc chống nạn mù chữ cũng được tuyên truyền rộng rãi thành một cao trào ở các địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo…”[5]

Nội dung và hình thức tuyên truyền chống mù chữ rất phong phú. Khắp nơi có khẩu hiệu “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên gạch xây nền độc lập của nước nhà”… Nhiều ca dao, hò vè được sáng tác để cổ vũ phòng trào, gây ấn tượng sâu sắc, như: “Lấy chồng biết chữ là tiên, lấy chồng mù chữ là duyên lỡ làng” . Sau một năm đã có 2 triệu người thoát nạn mù chữ. Thắng lợi trên mặt trận sản xuất, chống nạn mù chữ có ý nghĩa chính trị rất lớn làm cho nhân dân càng tin tưởng vào chính quyền cách mạng và chế độ mới.

Tháng 9- 1945, nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau khi cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh cả nước, khuyến khích các cháu học tập tốt để sau này đem tài năng phục vụ đất nước.

“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[6].

Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, giáo dục tinh thần yêu nước, đạo đức "cần kiệm, liêm chính", chống các hủ tục lạc hậu cũng được tuyBn truyền sâu rộng. Nạn trộm cắp, cờ bạc, các hủ tục trong ma chay cưới xin được xoá bỏ ở nhiều nơi, công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ cách mạng có tính quần chúng, nhất là ca hát được phát triển rộng rãi.

Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử vào ngày 6-l-1946 để bầu Quốc hội, xây dựng hiến pháp và lập chính phủ chính thức.

Công tác tuyên truyền vận động bầu cừ thực sự là một cuộc đấu tranh gay gắt chống lại sự phá hoại của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt quốc, Việt cách ở miền Bắc và bọn thực dân Pháp ở miền Nam.

Khẩu hiệu phổ biến mọi nơi là: Tất cả cử tri tới thùng phiếu, “Mỗi lá phiếu là một viên đạn diệt thù”. Ngày 5-l-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước “… Một lá phiếu cũng có sức lực một viên đạn.

Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã:

Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ,

Kiên quyết chống bọn thực dân,

Kiên quyết tranh quyền độc lập…”[7]

Cuộc tổng tuyển cử đã đạt kết quả tốt thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu bầu cho các ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh, kể cả ở miền Nam dưới bom đạn của thực dân Pháp. Nó cũng là dịp giáo dục cho nhân dân ta về lòng yêu nước, ý thức làm chủ của công dân một nước độc lập, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên thế giới.

Sau kết quả của các cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập”, tổ chức “Tuần lễ vàng”, để xây dựng nền tiền tệ độc lập của nước ta, ngày 31-1-1946 Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.

Khẩu hiệu “Người Việt Nam tiêu tiền Việt Nam” hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên đồng tiền mới đã nhanh chóng thay thế đồng tiền của ngân hàng Đông Dương.

Trong khi ra sức củng cố chính quyền cách mạng, ổn định tình hình, bước đầu xây dựng chế độ mới, chúng ta phải tiếp tục đấu tranh với âm mưu lật đổ của bọn Tưởng và tay sai ở miền Bắc và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam. Công tác tuyên truyền cổ động liên tục vạch đã tâm của bọn Tưởng và hành động bán nước của bọn tay sai, đập tan những luận điệu xuyên tạc, vu cáo của chúng, vận động nhân dân biểu thị sự đoàn kết chặt chẽ chung quanh Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chống lại những hành động chia rẽ, phá hoại trật tự trị an, âm mưu gây bạo loạn của chúng. Mặt khác, lại phải giải thích cho dân hiểu rõ và đồng tình với thái độ kiên nhẫn, mềm dẻo, hoà hoãn với bọn Tưởng để tập trung mũi nhọn chống kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Để hoà hoãn, tháng 11- 1945 Đảng rút vào bí mật, tuyên bố “tự giải tán” nhưng vẫn giữ hệ thống tổ chức và quyền lãnh đạo. Về công khai, Đảng tổ chức ra “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và đường lối chính sách của Đảng. Tờ Sự thật được xuất bản ngày 5- 12- 1945 để thay thế cho tờ Cờ giải phóng dưới danh nghĩa công khai là cơ quan ngôn luận của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác Đông Dương.

Được sự thoả thuận của Mỹ, tháng 1-1946, Pháp đã mua bán với Anh, để quân đội Pháp được thay quân đội Anh ở miền Nam. Ngày 28-2-1946, Pháp và Tưởng lại ký hiệp ước Hoa - Pháp. Pháp được đưa quân vào thay quân Tưởng ở miền Bắc, đổi lại Pháp trả cho Tưởng các tô giới Pháp ở Trung Quốc và đường xe lửa Vân Nam.

Trước tình hình trên, ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Tình hình và chủ trương”. Chỉ thị phân tích âm mưu của đế quốc và tay sai, đánh giá so sánh lực lượng, cân nhắc lợi hại, quyết định hoà hoãn với Pháp để phá tan âm mưu phá hoại cách mạng của bọn Tưởng và tay sai, giành thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chỉ thị cũng vạch ra những nguyên tắc căn bản cho việc đàm phán giữa ta và Pháp và nhấn mạnh: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp không nhữngkhông ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”[8].

Ngày 6-3-1946, Chính phủ ta ký với Pháp hiệp định sơ bộ. Trong tình hình lúc ấy, làm cho nhân dân thông suốt việc ta đồng ý để cho quân đội Pháp vào miền Bắc là rất khó khăn. Ngày 7-3, trong cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội gồm hàng chục vạn người, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp nói chuyện với nhân dân, giải thích lợi ích của việc ký kết, kêu gọi nhân dân giữ bình tĩnh, đoàn kết, tôn trọng kỷ luật, đồng thời nhắc nhở đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Trước đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lên lời thề xúc động mọi người: “Tôi, Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời đã cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước”[9]. Ngày 9-3- 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hoà để tiến” giải thích rõ chủ trương hoà với Pháp lúc này: “Chúng ta hoà với Pháp để:

1] Tránh tình thế bất lợi… 2] bảo đảm thực lực, giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào, tóm lại, để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”. Chỉ thị phê phán những khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng không muốn hoà hoãn với Pháp dễ sinh ra vô tổ chức, vô chính phủ, dễ bị kẻ thù khiêu khích; khuynh hướng cho rằng hiệp định được ký kết là Pháp đã 'thất bại và sẽ phải thực hiện, dân tộc ta đa tránh được mọi khó khăn~ dễ sinh mất cảnh giác, không thấy bản chất phản động của kẻ thù. Chỉ thị nhấn mạnh việc đề phòng thực dân Pháp bội ước, nhân dân ta phải tiếp tục chuẩn bị kháng chiến lâu dài, nhưng phải kín đáo, giữ thái độ bình tĩnh, nhã nhặn với binh lính Pháp, vận động kéo lính Pháp theo ảnh hưởng của ta. Phải khéo léo đối phó với bọn Tưởng chực kéo dài thời gian đóng quân ở Đông Dương và chống lại mọi hành động phản tuyên truyền, phá hoại của bọn phản động thân Tưởng và bọn Việt gian thân Pháp.

Căn cứ vằo Chỉ thị “Tình hình và chủ trương” và Chỉ thị “Hoà để tiến”, đảng bộ và Mặt trận Việt Minh các địa phương tổ chức các cuộc họp để giải thích cho nhân dân về chủ trương hoà hoãn với Pháp, nội dung của hiệp định sơ bộ và những nhiệm vụ công tác trước mắt. Nhiều nơi xuất bản các tài liệu ngắn để giúp cán bộ làm công tác tuyên truyền. Qua giải thích, cán bộ và nhân dân ta nhận rõ được thắng lợi và lợi ích của việc ký kết hiệp định, đã chống lại những hoạt động chia rẽ, gây rối loạn của bọn Việt quốc, Việt cách, tích cực thực hiện các nhiệm vụ để đối phó với các hành động bội ước của bọn thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 14-3-1946, mười vạn nhân dân thủ đô họp mít tinh để tố cáo những hành động trái với hiệp định của Pháp, đòi Pháp đình chỉ những hành động xâm lược và mở ngay đàm phán chính thức ở Paris.

Tháng 4-1946, Hội nghị trù bị Việt - Pháp họp ở Đà Lạt không có kết quả vì thực dân Pháp vẫn giữ lập trường ngoan cố như muốn tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, lập lại chế độ Toàn quyền Đông Dương…

Ngày 30-5, năm vạn nhân dân thủ đô họp mít tinh tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn ta lên đường sang Pháp dự cuộc đàm phán chính thức. Khẩu hiệu chính của cuộc mít tinh là: “Việt Nam hoàn toàn tự chủ”, “Nam Bộ là đất Việt Nam”, “ủng hộ Hồ Chí Minh”, “ủng hộ Phái đoàn”, “Gửi lời chào nhân dân Pháp”.

Trước khi lên đường, ngày 31-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến đồng bào Nam Bộ, khẳng đỉnh: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.

Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”[10]

Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp và nói chuyện với các chính đảng, các đoàn thể chính trị ở Pháp, các tổ chức quốc tế như Tổng liên đoàn lao động thế giới, Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Liên đoàn phụ nĩí thế giới, các nhà chính trị, các nhà trí thức lớn, nhà báo, nhà văn để làm cho nhân dân Pháp và thế giới hiểu rõ mục đích chiến đấu của ta, lập trường đàm phán và chính sách hợp tác bình đẳng của nước ta với nước Pháp.

Những cuộc nói chuyện ấy làm cho dư luận tiến bộ Pháp hiểu rõ hơn tình hình nước ta, hoan nghênh lập trường đàm phán đúng đắn của ta, đánh tan sự bưng bít về tình hình Việt Nam và sự xuyên tạc lập trường của ta của bọn thực dân Pháp.

Ngày 2 7-6- 1946 và mấy ngày tiếp theo trên khắp nước ta, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã họp mít tinh, biểu tình, tổng bãi công, bất hợp tác, bãi khoá, bãi thị đê phản đối thực dân Pháp đem quân lấn chiếm Tây Nguyên và lập ra cái gọi là “Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Nam Kỳ”.

Trong thời gian này, thực hiện chủ trương của Đảng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc, công tác tuyên truyền vận động đã được đẩy mạnh để thu hút những người còn mặc cảm, chưa có quan hệ với Mặt trận Việt Minh, với các đoàn thể cứu quốc, như các nhân sĩ, trí thức, công thương gia, quan lại cũ, tham gia vào các tổ chức thích hợp. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập ngày 20-5-1946. Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập ngày 27-7- 1946 để tập hợp nhân sĩ trí thức, là thành viên của Hội Liên Việt. Cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội xuất bản tờTiến lên. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được thành lập ngày 20-7- 1946 là tổ chức Công đoàn của giai cấp công nhân, các tầng lớp lao động công nghiệp và viên chức Nhà nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập ngày 20- 10- 1946 để tập hợp rộng rãi phụ nữ yêu nước trong các giai cấp, các tầng lớp.

Trong khi hội nghị Phôngtennơblô đang họp, bọn thực dân Pháp tiếp tực chính sách xâm lược. Chúng âm mưu dùng bọn tay sai Việt quốc, nhân ngày 14-7-1946, ngày kỷ niệm Cách mạng Pháp, nổ súng vào cuộc diễu binh của Pháp sẽ diễn ra để vu cáo ta rồi đánh chiếm thủ đô Hà Nội. Ta đã kịp thời phát hiện và đập tan âm mưu này, phá tan sào huyệt của bọn Việt quốc ở Hà Nội và các nơi khác, trừng trị bọn đầu sỏ, vạch mặt sự câu kết của chúng với thực dân Pháp.

Do thực dân Pháp chưa từ bỏ đã tâm xâm lược nên hội nghị Phôngtennơblô tan vỡ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với chính phủ Pháp bản tạm ước 14-9-1946 quy định một số điều quan hệ tạm thời về văn hóa và kinh tế giữa hai nước, đình chỉ chiến sự ở miền Nam và tiếp tục cuộc đàm phán Việt- Pháp vào tháng 1-1947.

Để giải thích rõ tình hình và nhiệm vụ trước mắt sau khi hội nghị Phôngtennơblô bị tan vỡ, đồng chí Trường Chinh viết bài đăng trên báo Sự thật số 54 ra ngày 20-9-1946 “Tại sao cuộc đàm phán Việt - Pháp ở Phôngtennơblô bị bỏ dở”. Sau khi nêu rõ nguyên nhân thất bại của hội nghị, bài báo phân tích triển vọng của cuộc bang giao Việt - Pháp và chỉ ra những công việc trước mắt. Về mặt tuyên truyền, bài báo chỉ rõ “Trước hết phải giải thích rõ nguyên nhân thất bại của Hội nghị Phôngtennơblô để bóc trần âm mưu gian dối của phản động thực dân Pháp trước dư luận và kêu gọi nhân dân chống lại chúng, đả phá mọi thái độ hoài nghi; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Hồ Chủ tịch và phái đoàn chính phủ. Đả phá quan niệm của bọn dao động, bi quan hay cơ hội, khiêu khích, cho rằng chính sách ngoại giao của Hồ Chủ tịch và của chính phủ không đúng, Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 là sai, v.v… Phải làm cho nhân dân nhận rõ và nhớ rằng: Chính sách ngoại giao thắng hay bại phần lớn ở ta, ở sự đoàn kết phấn đấu của ta, chứ không phải ở “lòng tốt” hay ở “sự thành thật” của thực dân Pháp. Hô hào nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi trong Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, khép chặt hàng ngũ chung quanh Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn sàng đối phó với bất cứ một sự bất trắc nào”[11]. Đối với Nam Bộ, Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 có ý nghĩa chính trị và tinh thần lớn. Dựa vào pháp lý của hiệp định và nhân lúc thực dân Pháp phải điều một phần quan trọng lực lượng quân sự ra miền Bắc, đảng bộ Nam Bộ đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phát động nhân dân phá tề, trừ gian, chống địch càn quét, khủng bố, vi phạm hiệp định, vi phạm ngừng bắn. Khắp nơi nhân dân vùng dậy với khí thế mạnh mẽ phát triển chiến tranh du kích, nhiều vùng giải phóng và căn cứ du kích được mở rộng.

Ở Sài Gòn, dựa vào nội dung Hiệp định 6-3, Thành uỷ vận động giới trí thức gồm hơn 400 người ký vào bản tuyên ngôn lấy tên là “Tuyên ngôn của trí thức Sài Gòn- Chợ Lớn”, đòi tự do, độc lập cho đất nước Việt Nam thống nhất, đòi thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh. Các đồng chí lãnh đạo đã có quan hệ với “Nhóm văn hóa Mác xít” do những người Pháp dân chủ phản đối chiến tranh lập ra, trong nhóm có các đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đảng viên Đảng Xã hội, nhiều trí thức các ngành, cả sĩ quan quân đội Pháp. Nhóm này tuyên bố rõ lập trường của mình ttên báo Paris - Sài Gòn yêu cầu trao trả độc lập tự do hoàn toàn cho Việt Nam, đó là cơ may duy nhất của nước Pháp, gây chiến tranh Pháp không thể chiến thắng được Việt Minh mà lại mất những người đáng lẽ là bạn của dân tộc Pháp. Theo gợi ý của ta, nhóm xuất bản tờ báo tiếng PhápNhững ngày mai[Lendemains] để đấu tranh chống âm mưu xânl lược của bọn thực dân.

Ngay số l ra ngày 20- 10-1946, tờ báo này đã vạch trần âm mưu của Pháp chia cắt Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam, lập nước “Nam Kỳ tự do” do Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng. Bài báo mang đẩu đề lớn: “Bác sĩ Thinh cút đi”.

Cùng với việc chuẩn bị cho báoNhững ngày maixuất bản, ta còn vận động các nhà báo yêu nước ở Sài Gòn lập một mặt trận thống nhất hành động lấy tên là Báo chí thống nhất. Mặt trận này quy tụ được 8 tờ báo tiếng Việt và tiếng Pháp đang xuất bản:Kiến thiết, Tân Việt, Việt bút, Tin điện, Nam Kỳ, Justice [Công lý], Sud [miền Nam], Lendemains [Những ngày mai].

Sau khi có Tạm ước 14-9, Báo chí thống nhất công khai kêu gọi thi hành Tạm ước, đòi thả tù chính trị, phổ biến một số thơ ca và tài liệu kháng chiến. Ngày 20- 10- 1946 Báo chí thống nhất đăng ba bức điện văn gửi đến Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Pháp và Quốc hội Pháp, tỏ thái độ ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu cầu Chính phủ Pháp tôn trọng thoả hiệp đã ký và thi hành nghiêm chỉnh lệnh ngừng bắn để lập lại hoà bình. Những tờ báo nói trên được nhân dân hoan nghênh và tìm đọc, các tờ báo tiếng Việt được phát hành với số lượng lớn ở Sài Gòn và cả một số thị xã khác ở Nam Bộ.

Trò hề chính phủ bù nhìn “Nam Kỳ quốc” bị nhân dân phản đối. Cuối cùng, thấy mình bị thực dân Pháp lừa, nhục nhã, Nguyễn Văn Thinh tự tử [tháng 11- 1946].

Trên mặt trận văn hóa, Đảng ta đoàn kết chặt chẽ các văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá yêu nước trong Hội Văn hóa cứu quốc, khuyến khích sự sáng tạo phục vụ sản xuất và chiến đấu. Nhiều nhà văn đã đi theo các đoàn quân Nam tiến để sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến.

Ngày 24- 1- 1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất họp ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc chỉ rõ: Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.

Cuối năm 1946, thực dân phản động Pháp đẩy mạnh những hành động lấn chiếm, liên tiếp tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, gây ra các vụ khiêu khích ở miền Bắc.

Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng ngày 19- 10-1946 nhận định: “Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.

Đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu ra những phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của kháng chiến, vạch rõ ta sẽ kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, cuộc kháng chiến sẽ rất gay go, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi.

Ngày 20- 11- 1946, thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đồng thời đổ bộ hàng ngàn quân lên Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ nước ta.

Ngày 4- 12- 1946, đồng chí Trường - Chinh viết bài “Đánh và sẵn sàng đánh” đăng trên tờ Sự thật số 64. Bài báo nhận định: quân Pháp đã xâm phạm vào lãnh thổ của ta ở khắp Trung - Nam - Bắc. Chúng đã xâm phạm Hiệp định sơ bộ ngày 6-3- 1946 và Tạm ước 14-9- 1946. Cuộc kháng chiến của dân ta đã có ở ba kỳ. Bất cứ lúc nào, nó cũng có thể lan tới toàn quốc, và biến thành toàn diện. Thực dân Pháp hăm doạ ta, định bắt ta hàng phục, nhưng chúng lầm. Dân ta nín nhịn đã nhiều rồi. Giờ đây toàn dân đã sẵn sàng tử chiến, phá tan mưu mô xâm lược bất cứ lúc nào và ở đâu…

Ngày 17 và 18- 12- 1946, quân đội Pháp gây khiêu khích, tàn sát dân ta ở hai phố Yên Ninh, Hàng Bún, Hà Nội. Chúng gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, đòi chiếm sở công an và giữ trị an ở thủ đô. Thực tế, thực dân Pháp đã xé bỏ các hiệp định, Đảng và Chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến cả nước để bảo vệ Tổ quốc.

2. ĐỘNG VIÊN TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN, TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

Ngày 19- 12- 1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và nêu ra những phương hướng cơ bản của cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “…Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không ! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”[12]

Ngày 21- 12- 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước đồng minh, vạch trần đã tâm xâm lược của thực dân Pháp và hành động bội ước của chúng, nói rõ mục đích cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta.

Ngày 22- 12- 1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Chỉ thị vạch rõ mục đích của kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.

Những khẩu hiệu tuyên truyền chung là:

- Toàn dân đoàn kết, kháng chiến ìâu dài,

- Liên hiệp dân Pháp, đánh thực dân Pháp,

- Bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền!

- Đánh đổ chính quyền bù nhìn, củng cố Cộng hoà dân chủ! Việt Nam nhất định độc lập! Trung Nam Bắc nhất định thống nhất!

Đường lối kháng chiến của Đảng được đồng chí Trường Chinh giải thích và phát triển trong các bài đăng trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8- 1947 và in thành sách tháng 9- 1947 lấy tên là “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong tác phẩm này, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất cho đất nước. Nó tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cho nên nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính sách ruộng đất vẫn phải đi liền với nhiệm vụ chống đế quốc, nhưng vì nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nóng bỏng và cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độe lập dân tộc, chính sách ruộng đất phải được thực hiện từng bước để phân hóa hàng ngũ phong kiến và cô lập thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến này, nhân dân Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hoà bình thế giới. “Cho nên cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh tiến bộ, vì tự do, độc lập, dân chủ và hoà bình”. Tác phẩm phân tích một cách khoa học những chỗ mạnh và chỗ yếu của ta so với những chỗ mạnh và chỗ yếu của địch, chỗ mạnh của ta đều là gốc, chỗ mạnh của địch đều là ngọn”. Do đó, ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng yếu. Ta từ chỗ yếu hơn địch sẽ tiến tới cân sức và mạnh hơn địch. Vì vậy phải đánh lâu dài. Muốn đánh lâu dài phải tự lực cánh sinh, tự ta giúp ta rồi người mới giúp ta. Cho nên phương châm chiến lược là kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Sau khi phân tích cuộc kháng chiến lâu dài phải qua ba giai đoạn, tác phẩm giải thích rõ đường lối kháng chiến về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá.

Tác phẩm chỉ rõ: mọi hoạt động văn hóa lúc này phải nhằm vào khẩu hiệu “Yêu nước và căm thù giặc”. Nhiệm vụ của mặt trận văn hóa kháng chiến là bằng mọi hình thức động viên toàn dân tham gia chiến đấu, “làm cho nhân dân hiểu vì sao phải đánh, đánh để làm gì, làm thế nào để thắng, đánh nhất định khổ, nhưng nhất định thắng lợi”.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh là đường lối, hướng dẫn, động viên và tổ chức nhân dân ta đấu tranh trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp.

Những quan điểm về chiến tranh cách mạng trong các văn kiện ấy đã góp phần xây dựng lý luận về chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Đáp lại lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu với tinh thần bất khuất. Quân và dân thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã Hải Phòng, Huế, Nam Định, Đà Nẵng, Vinh đã tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, bảo vệ an toàn cho các cơ quan và nhân dân rút ra khỏi đô thị, vận chuyển một khối lượng lớn máy móc, vật tư ra vùng tự do để xây dựng hậu phương. Ở miền Nam, quân ta cũng mở nhiều trận đột kích vào Sài Gòn- Chợ Lớn, sân bay Tân Sơn Nhất, phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng sông Cửu Long, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Ở những vùng có chiến sự, nhân dân ta đã phá hoại đường sá, cầu cống, nhà cửa, triệt để thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”. Hàng triệu người đã hy sinh nhà cửa, tài sản, không chịu hợp tác với giặc, tản cư ra khỏi vùng địch chiếm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tản cư cũng là kháng chiến”. Nhân dân vùng tự do sẵn sàng đón tiếp, giúp đỡ đồng bào tản cư nơi ăn, chốn ở, việc làm. Trong những ngày đầu kháng chiến, công tác thông tin tuyên truyền đã được triển khai mạnh mẽ. Mạng lưới báo chí ở Trung ương đã khắc phục nhiều khó khăn để phục vụ kháng chiến. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Đài Tiếng nói Nam Bộ, hệ thống các báo của Đảng, đoàn thể, quân đội ở Trung ương vẫn bảo đảm được hoạt động trong khi di chuyển; các khu và thành phố cũng ra báo, các tỉnh đều có bản tin. Những khẩu hiệu phổ biến được viết lên ở khắp nơi là: “Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài”, “Mỗi phố là một mặt trận”, “Mỗi làng là một pháo đài”, “Cướp súng giặc bắn giặc”, “Mỗi viên đạn là một quân thù”, “Không đi lính cho Pháp”, “Không bán lương thực cho Pháp”, “Đánh giặc, trừ gian”, “Giữ bí mật quân sự là yêu nước”. Nhiều làng, xã, thị trấn có các bảng thông tin, chòi phát thanh để kịp thời phổ biến tin tức chiến đấu, sản xuất. Tài liệu “Mười điều tâm niệm” do Hồ Chủ tịch viết theo hình thức hỏi và trả lời để giải thích về đường lối kháng chiến đã được phổ biến rộng rãi trong các đoàn thể cứu quốc và Hội Liên Việt.

Từ ngày 03 đến 06-4-1947, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương để rút kinh nghiệm những tháng đầu kháng chiến và cụ thể hoá thêm đường lối kháng chiến trong tình hình trước mắt. Hội nghị nhận định: “Đời sống nhân dân khó khăn, nhưng ai nấy đều hăng hái tham gia ủng hộ kháng chiến, tinh thần vẫn vững và một lòng ủng hộ Chính phủ”.

Hội nghị nhấn mạnh vấn đề củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, mở rộng hơn nữa Hội Liên Việt, đẩy mạnh vận động nhân dân tham gia kháng chiến chống âm mưu chia rẽ dân tộc, tôn giáo, khắc phục khuynh hướng hẹp hòi, đề phòng hữu khuynh…

Về công tác tuyên truyền cổ động, cần “Gây một phong trào sôi nổi tham gia kháng chiến về mọi mặt làm cho ai nấy sẵn sàng hy sinh tất cả để “cứu nước, cứu nòi…”. Hội nghị đã đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả của các lực lượng và hình thức tuyên truyền cổ động, nâng cao chất lượng báoCứu Quốc, báoSự thậtvà Đài Phát thanh Trung ương. Về huấn luyện, “mặc dầu bận rộn kháng chiến cũng không được ngừng việc huấn luyện vì càng kháng chiến lâu dài càng cần nhiều cán bộ mới và nâng cao trình độ cán bộ cũ”. Các đảng bộ cần khuyến khích việc học tập trong Đảng; sửa chữa các khuyết điểm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bức thư ngày 01-3- 1947.

Thực hiện nghị quyết của Hội nghị, về mặt tư tưởng, Đảng đả mở cuộc vận động học tập và phê bình, tự phê bình theo thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các đồng chí Bắc Bộ và Trung Bộ. Trong bức thư trên Người đã biểu dương những ưu điểm của cán bộ, đảng viên như: nhẫn nại, chịu khó, tháo vát nhiều sáng kiến, căn dặn cẩn phải đem căn bản tốt đó để kiên quyết khắc phục các khuyết điểm. Các khuyết điểm đó là: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, quân phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hoá. Bức thư đã phân tích các khuyết điểm, chỉ ra tác hại cụ thể của nó, động viên mọi người kiểm điểm lại mình để sửa chữa.

Cuộc vận động đã thu được kết quả tốt, giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và cải thiện mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng ở nhiều đảng bộ. Tháng 6- 1947, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở Trường Đảng đào tạo huấn luyện viên chính trị, ra nội san của Trung ương và giao trách nhiệm cho các đồng chí phụ trách các ngành, các địa phương viết bài cho báoSự thật. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị tờSinh hoạt nội bộ: tạp chí lý luận và chính trị của Trung ương Đảng được xuất bản tháng 8- 1947. Để đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng các đảng bộ cơ sở, các Ban Tuyên huấn Khu ủy, Tỉnh uỷ đã giúp cấp ủy tăng cường chỉ đạo việc mở lớp huấn luyện ngắn ngày cho đảng viên mới, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cơ sở và cán bộ huyện. Các lớp đào tạo huấn luyện viên chính trị do Trung ương mở đã tăng cường cán bộ cho Ban Tuyên huấn các Tỉnh uỷ, Khu ủy làm nhiệm vụ mở lớp và làm nòng cốt cho việc xây dựng hệ thống trường đảng sau này.

Tháng 10- 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh [với bút danh X.Y.Z] viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”[13]nhằm tiếp tục giáo dục cán bộ, đảng viên, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp kháng chiến. Đây là một văn kiện có tính lý luận và thực tiễn về quan điểm tư tưởng, đạo đức, tác phong của người cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền, cho đến nay vẫn có giá trị thực tiễn lớn.

Về công tác huấn luyện cán bộ, Người viết: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người nêu một số khuyết điểm của các cấp trong công tác huấn luyện cán bộ: không coi trọng huấn luyện nghề nghiệp; chưa tìm cách nâng cao trình độ văn hoá; dạy chính trị thì mênh mông, không thiết thực; dạy lý luận thì lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau, dạy theo cách học thuộc lòng. Những khuyết điểm đó Đảng nên sửa chữa ngay theo cách:

a- Huấn luyện nghề nghiệp: “làm việc gì học việc ấy”

b- Huấn luyện chính trị: "có hai thứ: thời sự và chính sách.

Cách huấn luyện thời sự là khuyên gắng và đốc thúc các cán bộ xem báo, thảo luận và giải thích những vấn đề quan trọng và định kỳ khai hội cán bộ, báo cáo thời sự…

Cách huấn luyện chính sách là đốc thúc các cán bộ nghiên cứu và thảo luận những Nghị quyết, những chương trình, những tuyên ngôn của Đảng và Chính phủ”.

c- Huấn luyện văn hoá: Với những cán bộ còn kém văn hoá, “trước hết phải dạy cho họ những thường thức lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội, chính trị, cách viết báo cáo, nghĩa vụ và quyền lợi người công dân”.

d- Huấn luyện lý luận: “trong bài học lý luận phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế”, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng với nhau”.

Các cơ quan “phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách công tác huấn luyện. Những người lãnh đạo phải tham gia việc dạy. Không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”.

Ngày 07-10- 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công đại quy mô lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, phá căn cứ kháng chiến, chiếm đóng biên giới, ngăn cách cách mạng ta với cách mạng Trung Quốc, chuẩn bị thành lập chính phủ bù nhìn. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”. Bản chỉ thị đề ra nhiệm vụ cho quân dân cả nước là “giáng cho địch thiệt hại nặng nề để không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này”. Về tuyên truyền cổ động, chủ yếu lúc này là làm cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ chung quanh Chính phủ, tích cực tham gia kháng chiến, phá kế hoạch tấn công của địch, chống những khuynh hướng bi quan, dao động, thoả hiệp cũng như những khuynh hướng sợ địch hay khinh địch, mất cảnh giác. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, quân dân ta đã giành thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc, phát triển chiến tranh du kích, phá tề, trừ gian ở vùng sau lưng địch. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, không những tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch mà còn đập tan chiến lược đánh mau, thắng mau của địch. Nó đã làm cho nhân dân càng phấn khởi, tin tưởng vào sức chiến đấu của quân dân ta có thể đánh bại những cuộc tấn công lớn có vũ khí hiện đại của địch.

Trong lời kêu gọi ngày 19- 12-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết những thắng lợi của ta và thất bại của địch trong một năm kháng chiến toàn quốc - Người nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ:

“… Tuy vậy, bọn thực dân phản động không cướp được, thì chúng sẽ phá, không thắng được thì chúng sẽ cắn mấy miếng cho đã nư. Chúng sẽ tấn công vùng này rồi đến vùng khác. Lực lượng của chúng cũng như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ.

Cho nên dân và quân ta phải luôn gắng sức cẩn thận chuẩn bị đề phòng, luôn luôn tấn công địch và phá hoại địch, tuyệt đối chớ tự kiêu, chớ khinh địch, dù lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái”[14]

3. ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC: DIỆT GIẶC ĐÓI, DIỆT GIẶC DỐT, DIỆT GIẶC NGOẠI XÂM, CHỐNG CHÍNH SÁCH “DÙNG NGƯỜI VIỆT ĐÁNH NGƯỜI VIỆT, LẤY CHIẾN TRANH NUÔI CHIẾN TRANH” CỦA ĐỊCH.

Ngày 15-01-1948, sau chiến thắng Việt Bắc, Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng để nhận định tình hình và bổ sung thêm các biện pháp đẩy mạnh cuộc kháng chiến, chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, lập chính phủ bù nhìn toàn quốc của thực dân Pháp. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27-3- 1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Trong bài “Thơ chúc Tết” Xuân Kỷ Sửu [1949], Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:

“Người người thi đua

Ngành ngành thi đua

Ngày ngày thi đua

Ta nhất định thắng

Địch nhất định thua”[15].

Công tác tuyên truyền cổ động trong thời gian này tập trung nêu cao ý nghĩa chiến thắng Việt Bắc, phổ biến lời kêu gọi ngày 19- 12 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống tư tưởng chủ quan, khinh địch, vạch âm mưu lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại của thực dân pháp, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực kháng chiến kiến quốc.

Tháng 7- 1948, nhân Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng các đại biểu. Trong thư, Người viết: "Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng… Chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, tôi thiết tưởng, các nhà văn hoá ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng.

… Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”[16]

Trong hội nghị này, đồng chí Trường Chinh đọc bản báo cáo“Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”nêu rõ lập trường văn hoá mácxít, tính chất và nhiệm vụ văn hoá dân tộc, dân chủ, phê phán và đấu tranh chống những khuynh hướng và quan điểm văn hoá thực dân, phong kiến, tư sản phản động. Bản báo cáo cũng xác định thái độ của những người làm công tác văn hoá là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với kháng chiến, không trung lập, bàng quan, không thoả hiệp với tư tưởng và văn hoá phản động; đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp lý luận và thực tiễn, có quan điểm quần chúng đúng đắn.

Đây là một công trình lý luận văn hóa mácxít có giá trị lớn, nội dung chính xác, phong phú, lời văn chặt chẽ, sinh động đầy tính chiến đấu. Đồng chí Trường Chinh lý giải nhiều vấn đề lý luận văn hóa quan trọng trong đó có vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền là một vấn đề thời sự đang có tranh luận trong giới văn nghệ sĩ. Đồng chí phê phán lập luận của một số người: cho rằng con người của họ… “chia làm hai, con người công dân có khuynh hướng rõ rệt và con người nghệ sĩ tuyệt đối tự do”. Đồng chí chỉ rõ văn hóa không thể trung lập, đứng trên chính trị.

Cuối tháng 7, Đại hội văn nghệ toàn quốc quyết định thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam nhằm tập hợp các lực lượng văn nghệ sĩ yêu nước góp phần vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Trực thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam còn có Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Đoàn Sân khấu Việt Nam, các chi hội văn nghệ khu III, khu IV, khu V, Nam Trung Bộ, Nam Bộ…

Tháng 3- 1948, Hội văn nghệ Việt Nam xuất bản Tạp chí Văn nghệ, tháng 6- 1949 Phòng văn nghệ quân đội cũng xuất bảnTạp chí văn nghệ quân đội.

Tháng 02- 1949, Hội nghị cán bộ văn hoá lần thứ nhất quyết định thành lập Ban Văn hoá Trung ương của Đảng do đồng chí Trần Huy Liệu làm Trưởng ban. Hội Văn hoá Việt Nam cũng được thành lập, tập hơp các nhà hoạt động văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục thành một Mặt trận văn hoá kháng chiến thống nhất.

Báo chí ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; song đội ngũ cán bộ làm báo còn quá ít. Tháng 5- 1949 Ban Bí thư chủ trương mở lớp học viết báo đầu tiên, với danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh mở, lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng. Không có điều kiện đến thăm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến lớp. Trong thư, Người thân mật góp ý kiến với “các bạn viết báo” về nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của báo chí ta và càn dặn muốn viết báo tốt thì cần:

1- “Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực.

2- Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước ngoài, và học kinh nghiệm của người.

3- Khi viết xong một bài tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cẩn thận. Tốt hơn nữa, là đưa nhờ một vài người ít văn hoá xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu.

4- Luôn luôn cố gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ”[17]

Sau khi được phát động, phong trào thi đua yêu nước đã có tác dụng động viên to lớn, phát huy tính tích cực và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta trên mọi mặt trận kháng chiến, kiến quốc, cả ở vùng tự do và vùng du kích, vùng địch tạm chiếm. Các phong trào tòng quân của thanh niên, quyên góp lặp 'lhũ gạo nuôi quân", đỡ đầu bộ đội, du kích diễn ra sôi nổi. Việc tăng gia sản xuất để tự cấp, tự túc đã khắc phục được nhiều khó khăn để bảo đảm các nhu cầu tối thiểu của kháng chiến và đời sống nhân dân. Phong trào xoá nạn mù chữ, bổ túc văn hoá, thực hiện đời sống mới, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cũng đạt nhiều kết quả. Các hủ tục, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan được giảm hẳn. Trong thời gian này chúng ta cũng đã đấu tranh thắng lợi với những khuynh hướng tư tưởng không đúng trong Mặt trận thống nhất như đòi quyền tự do dân chủ tư sản trong ngành tư pháp, tư tưởng phục Mỹ, sợ Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Để chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, thực hiện chủ trương “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”, khi địch mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng Bắc Bộ, các đảng bộ địa phương đã đưa hàng loạt cán bộ vào vùng địch tạm chiếm, tổ chức các đại đội độc lập, các đội vũ trang tuyên truyền để phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, diệt tề, trừ gian, phát triển chiến tranh du kích, xây dựng các vùng căn cứ sau lưng địch. ở các đô thị bị địch tạm chiếm, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân cũng bùng lên mạnh mẽ chống việc thành lập chính phủ bù nhìn kết hợp với các cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang vào các căn cứ, kho tàng của địch. ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân, bãi khoá của học sinh, bãi thị của tiểu thương. Tháng 4- 1949, các nhân sĩ trí thức ở Sài Gòn đã ra bản tuyên ngôn “chống giải pháp Bảo Đại” có 900 chữ ký. Hơn 3.000 tờ báo “Tổ quốc trên hết” của Thành hội Liên Việt thành phố được phát hành cùng với truyền đơn rải trắng đường phố, khẩu hiệu viết trên các tường nhà phản đối việc thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại.

Để đáp ứng yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, năm 1949 Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập trường Đảng miền Nam mang tên “Trường Trường Chinh”. Nhiệm vụ của Trường là trang bị những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng… cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt của khu ủy, tỉnh ủy, quân đội, đoàn thể. Từ 1949 đến 1954 Trường đảng miền Nam đã mở lớp đào tạo bồi dưỡng gần 2000 cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, trong đó nhiều đồng chí được tăng cường cho hệ thống Tuyên huấn và Trường đảng”[18].

Công tác vận động quần chúng có ý nghĩa rất quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Ngày 15- 10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật. Bài báo tuy ngắn gọn nhưng nội dung rất súc tích. Người phát triển những quan điểm về quan hệ giữa Đảng với nhân dân đã trình bày trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, nêu ra một cách sáng tỏ những quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận. Điểm xuất phát của công tác dân vận là ở chỗ: nước ta là một nước dân chủ do Đảng lãnh đạo “mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “công việc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm của dân”, “chính quyền, đoàn thể các cấp đều do dân tổ chức nên”. Người định nghĩa một cách đầy đủ về công tác dân vận “dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng của toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”. Tất cả mọi lực lượng trong hệ thống chính trị đều phải làm công tác dân vận, làm cho dân biết, dân hiểu, học hỏi nhân dân, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện, miệng nói tay làm.

Trong lúc cuộc kháng chiến của ta tiến triển thuận lợi thì cách mạng Trung Quốc giành được thắng lợi to lớn.

Ngày 01- 10- 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Đầu năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với ta. Nước ta bắt đầu nhận được sự viện trợ về vật chất của phe xã hội chủ nghĩa và trực tiếp liên hệ được với thế giới bên ngoài. Trước thất bại của Pháp, Mỹ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, thúc ép Pháp “trao trả độc lập” cho bù nhìn Bảo Đại, và đưa đoàn cố vấn quân sự Mỹ sang Việt Nam. Ngày 18-10- 1950, Trung ương Đảng ra chỉ thị về tuyên truyền thắng lợi ngoại giao của ta, đồng thời ngăn ngừa tâm lý chủ quan, ỷ lại; vạch âm mưu của Mỹ can thiệp vào chiến tranh Đông Dương.

Ngày 27-01- 1950, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, chủ trương tích cực đẩy mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới “hoàn thành nhiệm vụ chuyển sang tổng phản công”. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị, công tác tuyên truyền cổ động đã được triển khai mạnh mẽ, cổ vũ cho việc tổng động viên nhân tài, vật lực cho kháng chiến theo khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Hàng chục vạn thanh niên nô nức xung phong tòng quân. Ở vùng tự do, nhân dân ta đã hăng hái đóng góp lương thực, tiền bạc, vật tư cho kháng chiến. Hàng vạn nhân dân cùng với các chiến sĩ công binh tham gia các chiến dịch làm đường để phục vụ các cuộc chiến đấu lớn sắp tới ở Việt Bắc.

Ở vùng địch tạm chiếm, phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển có thời gian rất quyết liệt. Ngày 09-01-1950, hơn 3.000 học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình đòi trả tự do cho 5 học sinh bị băt. Cuộc biểu tình bị đàn áp dã man. Hàng chục vạn học sinh và nhân dân Sài Gòn đã đi đưa tang học sinh Trần Văn ơn bị địch bắn chết. Ngày 13-01- 1950, hầu hết học sinh, sinh viên Hà Nội bãi khoá để hưởng ứng cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Từ đó, ngày 9- 1 hằng năm trở thành Ngày học sinh, sinh viên Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, chống đế quốc xâm lược.

Ngày 19-3- 1950, khi Mỹ đưa hai tàu chiến đến Sài Gòn, hàng chục vạn nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn rầm rộ xuống đường biểu tình bất chấp sự đàn áp của địch, giương cao cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đế quốc Mỹ cút đi”. Kết quả là Mỹ phải rút hai tàu chiến ngay đêm ấy, bãi bỏ cuộc biểu dương lực lượng của chúng. Ngày 19-3-1950 vẻ vang trở thành Ngày toàn quốc chống Mỹ của nhân dân ta.

Trước tình hình thuận lợi trong nước và ngoài nước, trong nội bộ Đảng đã có tư tưởng chủ quan, nóng vội dẫn đến một số lệch lạc như: có nơi động viên nhân tài, vật lực quá mức ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân, tập trung bộ đội chủ lực quá sớm làm yếu phong trào du kích, đấu tranh trong các thành phố bị tạm chiếm không chú ý đầy đủ đến việc bảo vệ cơ sở. Mùa hè năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào, cán bộ Liên khu 4 phê bình sai lầm trong việc thực hiện chính sách động viên. Đồng chí Trường Chinh viết bài “Nhận định đúng, hành động đúng” và một số bài khác đăng trên Tạp chí Cộng sản phê phán tư tưởng nóng vội, chủ quan như muốn tổng phản công ngay khi quân giải phóng Trung Quốc tiến đến biên giới nước ta, phê phán tư tưởng bi quan khi ta gặp những khó khăn mới hoặc khi địch có những cố gắng mới, nêu ra những phương châm hành động đúng đắn về tổng động viên, về xây dựng lực lượng vũ trang và về công tác vùng sau lưng địch.

Trung ương Đảng ra chỉ thị cho đảng bộ Liên khu 4 và các Liên khu khác căn cứ vào thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tự kiểm điểm và tự phê bình trước quần chúng. Nhờ đó những lệch lạc đã được uốn nắn, sủa chữa bước đầu, ý thức kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh được quán triệt hơn.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng huấn luyện, tháng 5-1950 Ban Bí thư triệu tập Hội nghị huấn luyện toàn qụốc lần thứ nhất. Đến thăm và nói chuyện với hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba vấn đề lớn: Phải thiết thực, chu đáo trong công việc huấn luyện; phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học; khuyết điểm cần sửa chữa ngay trong việc huấn luyện. Người nói, lớp huấn luyện mở không ít nhưng các địa phương và các ngành vàn kêu thiếu cán bộ, “vì việc huấn luyện còn hữu danh vô thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực". Để việc huấn luyện được thiết thực, chu đáo thì người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiêu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, và phải học thêm mãi. Học lý luận là để áp dụng vào việc làm, hiểu lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Ngoài lý luạn phải dạy công tác, dạy văn hoá, dạy chuyên môn cho cán bộ. Người nêu ra 6 điểm về cách huấn luyện cần chú ý: Cốt thiết thực, chu đáo, hơn tham nhiều; huấn luyện từ dưới lên trên; gắn liền lý luận với công tác thực tế, phải nhằm đúng nhu cầu; chú trọng việc cải tạo tư tưởng; lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc, đồng thời phải học những nghị quyết, chỉ thị, luật, lệnh của doàn thể và Chính phủ, tổ chức trao đổi kinh nghiệm qua thực tế công tác của học viên. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tự động học tập. Học để sửa chữa tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao tin tưởng, học để hành. Người yêu cầu sửa chừa ngay khuyết điểm: lớp quá đông, chương trình không tốt; mở lớp lung tung, thiếu người giảng, chỉ tốn gạo mà học thì táp nham. Phải hợp lý hoá, nghĩa là: mở lớp nào cho ra lớp ấy, lựa chọn người dạy và người đến học cho cẩn thận.

Bài nói của Bác rất thiết thực, cụ thể, chỉ đạo các cấp, các ngành quán triệt phương châm coi trọng chất lượng trong công tác huấn luyện và nâng cao ý thức tự giác học tập của cán bộ, đảng viên.

Ngày 14-9- 1950, Trung ương có quyết định thành lập Ban Tuyên truyền và Ban Giáo dục Trung ương. Ban Tuyên truyền do đồng chí Trường Chinh phụ trách và đồng chí Tố Hữu làm Trưởng ban, Ban Giáo dục do đồng chí Hà Huy Giáp làm Trưởng ban.

Tháng 6- 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi sát mặt trận, gửi thư cho các chiến sĩ căn dặn phải dũng cảm, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt địch “chỉ cho đánh thắng, không cho đánh bại". Người ra trận địa, đi thăm bộ đội, dân công, thể hiện ý chí quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đã gây xúc động và cổ vũ mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ.

Chiến dịch Biên giới đã giành thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta với Pháp, từ đó quân ta liên tiếp giành quyền chủ động tiến công đẩy lùi đỉch vào thế bị động đối phó.

Lòng tin của nhân dân ta vào thắng lợi cuối cùng được củng cố và nâng cao. Tuy nhiên trong một số người lại nảy sinh tư tưởng chủ quan, nóng vội cho là có thể đánh nhanh, thắng nhanh.

Trong cán bộ lúc này có một số biểu hiện tư tưởng sai lầm quan liêu, ham cấp bậc, địa vị; Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bài báo đăng trên báo Sự thật “Phải chữa cái bệnh cấp bậc” [ngày 15-7- 1950] “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu” [ngày 2-9- 1950] nhắc nhở cán bộ gột sạch óc quan liêu, ngôi thứ quan cách mạng"[19], chỉ ra những biểu hiện, nguyên nhân và cách sửa chữa. Người viết: “Nếu không lo chừa, thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ hoàn toàn bị đào thải.

Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:

- Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết

- Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân

Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.

- Phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[20]

4. QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG, ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TỚI THẮNG LỢI QUYẾT ĐỊNH

Tình hình trong nước và thế giới đã có những chuyển biến quan trọng vào đầu năm 1950. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải họp Đại hội để hoàn chỉnh và bổ sung đường lối cách mạng, tổ chức lại Đảng cho phù hợp, đồng thời phải xác định những chính sách, biện pháp để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Đại hội lần thứ II của Đảng được tiến hành trong tháng 2- 1951.

Đồng chí Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị khái quát cuộc vận động cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trong 2l năm, nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này làTiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới[21]. Để hoàn thành sự nghiệp lãnh đạo cách mạng và đưa kháng chiến đến thắng lợi, Đảng phải ra hoạt động công khai và tổ chức lại cho thích hợp với tình hình mỗi nước ở Đông Dương

Báo cáo nêu cao thắng lợi của cách mạng tháng 8- 1945: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảngmới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[22].

Về nhiệm vụ cách mạng trước mắt, báo cáo viết: "Nhiệm vụ thứ nhất, nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó"[23].

Để đưa kháng chiến đến thấng lợi, về mặt công tác tư tưởng, báo cáo nhấn mạnh đến việc phát triển tinh thần yêu nước. " Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm làng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiêm khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. . .

Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[24].

Đồng chí Trường Chinh trình bày báo cáo "Bàn về cách mảng Việt Nam". Bản báo cáo xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược [thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ] và bè lũ bù nhìn bán nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xoá bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo cũng xác định nhiệm vụ chống phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ chống đế quốc, nhưng phải có kế hoạch làm từng bước để vừa bồi dưỡng và phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững được khối đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến.

Về triển vọng của cách mạng Việt Nam, báo cáo kháng định: "Vì giai cấp công nhân và Đang ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cho nên cách mạng đó không thể không tiến lên chủ nghĩa xã hội. . . Từ nay đến chủ nghĩa xã hội, nước ta phải trải qua một thời gian dài. Thời gian dài đó, tuỳ theo sự thay đổi về nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, tuỳ theo những biến hóa trong hàng ngũ kẻ thù và hàng ngũ bạn đồng minh của giai cấp công nhân mà chia ra nhiều giai đoạn. . . Vì nước ta bị xâm lược, chùa thoát hẳn được ách đế quốc; lại là một nước nông nghiệp và nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển. Muốn có độc lập, dân chủ và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chủ yếu trước mắt là phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thực hiện khẩu hiệu người cầy có ruộng"[25]

Báo cáo "Bàn về cách mạng Việt Nam" là một văn kiện lịeh sử quan trọng. Nó đã bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất khuất chống xâm lược, trong thời đại mới quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Đồng chí Tố Hữu trình bày báo cáo bổ sung về "Xây dựng văn nghệ nhân dân Việt Nam".

Sau khi nhận xét văn nghệ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và những bước đầu của văn nghệ Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, báo cáo xác định những nhiệm vụ cụ thể của việc xây dựng văn nghệ nhân dân:

- Đoàn kết rộng rãi những người công tác văn nghệ phụng sự kháng chiến kiến quốc, bảo vệ hòa bình thế giới. . . "sự đoàn kết phải đứng trên lập trường phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến, không thể đoàn kết một cách vô nguyên tắc theo đuôi những người văn nghệ lạc hậu".

- Đẩy mạnh sáng tác và biểu diễn, nâng cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Chống tư tưởng mất tự tin, tự ty muốn "thoát ly công tác văn nghệ gác bút. . . để cầm súng, cầm bừa" "không thể có triển vọng sáng tác bằng tài năng trẻ thì nên thôi sáng tác". Chống khuynh hướng "muốn làm to, cầu toàn trách bị" muốn xây dựng "tác phẩm to lớn” không thực tế, không hợp thời.

Bồi dưỡng hướng dẫn phong trào văn nghệ quần chúng, chống thái độ khinh rẻ khả năng sáng tạo nghệ thuật của quần chúng, không chú ý nâng đỡ, phát triển những tài năng mới". Chú ý đặc biệt văn nghệ miền núi, giữ gìn bản sắc của mỗi dân tộc, tránh khuynh hướng “Kinh hóa”.

- Tích cực đấu tranh chống văn nghệ phản động của Pháp, Mỹ. Chống lại những nọc độc văn nghệ của địch reo rắc "tâm lý cầu an, sợ chết, thích khoái lạc", "dùng văn nghệ mà mở mang ánh sáng tự do và lửa chiến đấu vào vùng địch tạm chiếm".

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ về văn nghệ - cán bộ chính trị đặc biệt là cán bộ tuyên truyền, giáo dục phải học lý luận văn nghệ để lãnh đạo phong trào văn học nghệ thuật, bồi dưỡng trình độ chính trị, lý luận cho những người làm công tác văn ngbệ.

Đại hội đã thảo luận và thông qua Chính cương, Điều lệ mới của Đảng, quyết định Đảng ra công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, quyết định xuất bản báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng thay thế cho tờ Sự thật.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội II, Hội nghị lần thứ nhất [tháng 3- 195 1], thứ hai [tháng 10- 195 l] và thứ ba [tháng 4- 1952] [khoá II] của Trung ương Đảng đã vạch ra nhũng chủ trương và biện pháp về đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch, về xây dựng nền kinh tế, tài chính trong kháng chiến, về xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng Đảng để bảo đảm các yêu cầu của cuộc kháng chiến. Mở đầu cho việc tuyên truyền quán triệt nghị quyết của Đại hội II, ngày 03-3- 195 l, Ban Chấp hành Trung ương đã tổ chức lễ ra mắt của Đảng trước Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Sau khi đồng chí Trường Chinh báo cáo về việc thành lập Đảng, về Chính cương và chính sách Mặt trận của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tóm tắt mục đích, nhiệm vụ, các chính sách lớn của Đảng. Người nhấn mạnh về tính chất của Đảng: "Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.. .

Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân.

Tuy vậy, Đảng Lao động Việt Nam cũng do nhiều người tổ chức lại mà thành. Mà người thì ai cũng có ít nhiều khuyết điểm. Vì vậy Đảng Lao động Việt Nam mong mỏi và hoan nghênh sự phê bình thật thà của các đảng phái và đoàn thể bạn, của các nhân sĩ và của toàn thể đồng bào để cho Đảng tiến bộ mãi. . . "[26]

Ngày 02-4- 195 l, Ban Bí thư ra chỉ thị về vấn đề Đảng ra công khai. Ngày 16-4-195l, Trung ương có quyết định thành lập Ban Tuyên huấn Trung ương do đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban.

Thi hành nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương và chỉ thị của Ban Bí thư, các cấp đảng bộ đã tổ chức việc nghiên cứu Chính cương, Điều lệ của Đảng, nghị quyết Đại hội và dựa vào bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Đại hội Mặt trận để làm công tác tuyên truyền cổ động trong nhân dân. Các đảng bộ ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích trong khắp cả nước đều tổ chức được các buổi lễ ra mắt, với đại biểu các đoàn thể, Mặt trận, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, yêu cầu phê bình chính sách, chủ trương, phê bình cán bộ, đảng viên. Những nơi tiến hành tốt đã thu được nhiều ý kiến đóng góp của cán bộ và nhân dân về công tác của địa phương, thiết thực giáo dục cho cán bộ, đảng viên về ý thức tiên phong gương mẫu, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, tăng thêm lòng tin tưởng của nhân dân đối với Đảng, đẩy mạnh công tác kháng chiến của địa phương.

Ngày 08-12-195l, Ban Bí thư ra chỉ thị về việc học tập và phổ biến lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp kỷ niệm 5 năm toàn quốc kháng chiến.

Đợt tuyên truyền giáo dục này đã được tiến hành rộng rãi cả ở vùng tự do và vùng sau lưng địch, làm cho cán bộ và nhân dân thấm nhuần hơn ý thức kháng chiến lâu dài, nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, lòng tin vào thắng lợi cuối cùng, quyết tâm thi đua hoàn thành các nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, công tác, chống các khuynh hướng bi quan, dao động sợ hy sinh gian khổ, nôn nóng, ỷ lại viện trợ bên ngoài.

Nhân dịp triển lãm hội họa năm 195 l, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thân ái hỏi thăm anh chị em hoạ sĩ và các văn nghệ sĩ nói chung. Trong thư, Người viết:

“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận.

Anh chị em là chiến sĩ trên mật trận ấy. . .

…..Chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ. . . phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. . .

…. Chiến sĩ nghệ thuật cẩn có lập trường vững, tư tưởng đúng. . .

Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. . . Muốn tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi, thì anh chị em nghệ thuật cần phải dùng phương pháp tự phê bình và phê bình.

Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị.

Đúng lắm. Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"[27].

Từ khi cuộc kháng chiến của ta chuyển sang thời kỳ mới yêu cầu của tiền tuyến cao hơn trước, địch lại mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng, chúng ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế tài chính. Đời sống nhân dân vùng tự do ở nhiều nơi cũng khó khăn hơn, có người đã tản cư lại chạy vào vùng tạm Chiếm. Để khắc phục những khó khăn ấy, Đảng và Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất và tiết kiệm, ban hành chính sách thuế mới để huy động sự đóng góp của nhân dân được ổn định và công bằng hơn. Các địa phương đã phát triển sản xuất nông nghiệp thành một phong trào quần chúng mạnh mẽ và rộng khắp ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích theo khẩu hiệu “ăn no, đánh thắng”, “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương" [Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh]. Không những nông dân thi đua sản xuất mà bộ đội, công nhân, viên chức đều tranh thủ trồng trọt, chăn nuôi để tự túc một phần. Công nhân thi đua sản xuất nông cụ và vũ khí, đạn dược.

Công tác tuyên truyền về thuế nông nghiệp, nguồn thu chính của Nhà nước được tiến hành sâu rộng để làm rõ nghĩa của chính sách thuế mới, tính chất công bằng của nó để vừa thu đủ thuế, vừa thực hiện đúng đường lối giai cấp trong chính sách thuế: huy động sự đóng góp nhiều hơn của địa chủ, phú nông, giảm nhẹ cho bần cố nông, khuyến khích người trực tiếp lao động. Qua công tác này, cán bộ cũng được giáo dục thêm về ý thức giai cấp, về đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn.

Từ năm 195l, thực hiện kế hoạch chiến tranh Tátsinhi, địch tàn phá hàng trăm làng mạc, dồn dân vào vùng kiểm soát, xây dựng phòng tuyến "boong ke”, lập "vành đai trắng”. Chúng đẩy mạnh việc càn quét, bình định, phát triển nguỵ quyền, ra sức bắt lính. Công tác tuyên truyền ở vùng sau lưng địch đã vạch rõ mục đích của kế hoạch Tátsinhi, thế yếu và bị động của nó, những chủ trương và phương châm đấu tranh trong vùng sau lưng địch, khắc phục thái độ chủ quan, mất cảnh giác, đấu tranh không đúng phương pháp để tổn thất cơ sở chính trị. Trong điều kiện đầy gian khổ khó khăn, cán bộ ta đã “bám đất, bám dân” dùng tuyên truyền miệng là chính kết hợp với việc lập các đội vũ trang tuyên truyền đi sâu vào vùng địch kiểm soát phát động quần chúng đấu tranh. Các tỉnh đều xuất bản các bản tin, tài liệu ngắn, truyền đơn để tố cáo tội ác của địch, đưa tin chiến thắng quân sự và các cuộc đấu tranh trong vùng địch kiểm soát, phổ biến kinh nghiệm và gương đấu tranh anh dũng của nhân dân. Hà Nội, Sài Gòn đều có báo bí mật, đồng thời lợi dụng khả năng hợp pháp để vận động trí thức tiến bộ xuất bản báo công khai hoặc phân công cán bộ viết báo công khai.

Tháng 11- 195l, địch mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình. Phối hợp với việc tấn công của quân chủ lực, các đảng bộ địa phương chỉ rõ thời cơ thuận lợi, phát động quần chúng nổi dậy phá vỡ hệ thống nguỵ quân, nguỵ quyền ở nhiều nơi, mở rộng khu du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong năm 1952, chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch trên toàn quốc, làm thất bại các cuộc càn quét của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng. Phong trào chống giặc bắt lính trở thành phong trào quần chúng. Nhân dân và các gia đình có con em đi lính được tuyên truyền vận động kéo lên đồn, bốt đòi chồng con về nhà làm ăn. Hàng vạn lính nguỵ, dân vệ đã bỏ ngũ hoặc ra hàng.

Phong trào thi đua yêu nước sau bốn năm phát động đã đạt nhiều kết quả. Từ 30-4-1952 đến 06-5-1952, Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu đã họp tại Việt Bắc. Có những anh hùng tiêu biểu như: La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên [quân đội, dân quân du kích], Ngô Gia Khảm [công nhân], Hoàng Hanh [nông dân] , Trần Đại Nghĩa [trí thúc] . Sau Đại hội, việc tuyên truyền cho các gương anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển hình sản xuất, chiến đấu giỏi bằng nhiều hìnb thức [sách, báo, phát thanh, nói chuyện, ca kích. . .] đã cổ vũ mạnh mẽ cán bộ và nhân dân đưa phong trào thi đua yêu nước lên một bước lới. Cán bộ cũng được rèn luyện thêm về tinh thần tiên phong, gương mẫu để xứng đáng là người lãnh đạo phong trào.

Trong các năm 195 l, 1952, thi hành nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ II và nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, để tăng cường chất lượng công tác tư tưởng, các Ban Tuyên huấn từ Trung ương tới các Liên khu và tỉnh đã được bổ sung và kiện toàn ở mức độ khac nhau. Ban Tuyên huấn Trung ương đã lập ra các Tiểu ban biên tập, Tiểu ban huấn học, Tiểu ban văn nghệ, Tiểu ban giáo dục. Theo hướng dẫn của Ban Tuyên huấn Trung ương, một số tỉnh ở vùng tự do đã bước đầu xây dựng chế độ báo cáo viên, làm thí điêm xây dựng "lưới tuyên truyền" ở cơ sở, chấn chỉnh việc giảng dạy trong các trường Đảng, quy định chế độ học tập cho cán bộ. Các Ban Tuyên huấn ở các tỉnh trong vùng sau lưng địch đã mở được nhiều lớp huấn luyện đào tạo bồi dưỡng cán bộ về công tác vùng sau lưng địch.

Về báo chí, đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng, tăng số lượng phát hành. Báo Nhân dân phát hành 20.000 bản/ngày; báo Cứu quốc: 25.000 - 30.000 bản/ngày.

Cùng với báo Nhân dân ở Trung ương còn có báo Nhân dân liên khu - là cơ quan của Ban Chấp hành đảng bộ khu 5, báo Nhân dân miền Nam là cơ quan của Trung ương cục miền Nam. Cùng với báo Cứu quốc ở Trung ương, còn có báo Cứu quốc khu III, Cứu quốc khu IV, Cứu quốc Thủ đô, Cứu quốc Nam Bộ… Tờ báo Vệ quốc quân và Quân du kích hợp nhất lại thành tờ Quân đội nhân dân xuất bản hàng tuần [10-1950]. Các tỉnh đều có bản tin, một số tỉnh có báo địa phương hoặc ra số báo đặc biệt trong các đợt tuyên truyền lớnn. Cùng với Đài Tiếng nói Việt Nam. Đài Tiếng nói Nam, Đài Tiếng nói Sài Gòn - Chợ lớn tự do cũng khắc phục nhiều khó khăn, chống lại sự phá hoại của địch, duy trì hoạt động có hiệu quả.

Về văn nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương đã tổ chức việc bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ, lập các đoàn công tác, các đội vân công đi sát quần chúng phục vụ việc tuyên truyền kháng chiến, mở rộng phong trào văn nghệ quần chúng, phát triển ngành điện ảnh, mở trường Mỹ thuật, cử người đi học các môn nghệ thuật ở nước ngoài. Ngành giáo dục phồ thông được tiếp tục tổ chức lại theo phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân và phục vụ sản xuất. Một số trường phổ thông lao động ở Trung ương và các tỉnh được thành lập để bồi dưỡng văn hoá cho các chiến sĩ thi đua, cán bộ công nông, binh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm việc cải tiến, nâng cao chất lượng các hoạt động tư tưởng. Ngoài các bài phát biểu đối với công tác huấn luyện, công tác báo chí, công tác văn nghệ, năm l950, với bút danh X.Y.Z. Bác viết bài "Người tuyên truyền và cách tuyên truyền". Với lối văn giản dị, dễ hiểu. Người viết: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Muốn thành công, phải biết cách tuyên truyền, có nội dung tốt còn phải biết cách nói giản đơn, rõ ràng, thiết thực, phải có lễ độ. Người tuyên truyền phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm. Dân sinh hoạt thế nào ta phải sinh hoạt như họ. Thấy dân làm việc gì cũng ra tay làm giúp. Thái độ phải mềm mỏng. Làm đúng như thế thì sẽ thành công to. Ngày 17-8- 1952 Bác phát biểu về "Cách viết", đặc biệt là viết ngắn.

Năm 1952, trong một cuộc họp với cán bộ ở khu căn cứ Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về vấn đề thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người đã giải thích lợi ích, ý nghĩa của việc thực hành tiết kiệm, những biểu hiện của bệnh quan liêu và nạn tham ô, lãng phí, coi việc chống lại nó cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. .

Người viết: " . . . Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm . . . phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta.

Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn tham ô. Mà có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu

…. Bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. . . Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quantrọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. . . Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ “giặc ở trong lòng". Nếu chiến sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. . ."[28]

Trong bài nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển toàn diện và sâu sắc những quan điểm về chống quan liêu, tham ô, lãng phí ở các bài viết trước về vấn đề này. Cho đến nay bài nói chuyện vẫn có ý nghĩa thực tiễn trong việc xây dựng đất nước.

Trong hai năm 1952, 1953 thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, cuộc vận động chỉnh huấn trong Đảng, trong quân đội, chính quyền, đoàn thể đã được tiến hành. Đây là cuộc vận động giáo dục rộng lớn nhằm chấn chỉnh Đảng, sửa chữa những khuyết điểm chính của cán bộ, đảng viên, nângcao trình độ tư tưởng, ý thức công tác của cán bộ, đảng viên, đồng thời chỉnh đốn tổ chức ở các chi bộ nông thôn. Cách làm chỉnh huấn là tiến hành một đợt học tập ngắn ngày kết hợp với phê bình, tự phê bình, làm từ Trung ương tới khu, tỉnh, huyện.

Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương Chủ tịch Hồ Chí Minh [11-5- 1952] chỉ rõ vì sao phải tiến hành chỉnh huấn: "Đảng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin, là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất. Có đường lối, chính sách đúng nhất. Có cơ sở khắp cả nước. Có những cán bộ, đảng viên tận tuỵ hy sinh vô cùng oanh liệt.

Nhưng vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng bạn và địch; bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hoá khá nặng, v.v. .

Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch kiểu mẫu Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm tròn nhiệm vụ của Đảng. . ."[29]. Người căn dặn các đồng chí học viên học tập tốt, thật thà tự phê bình và phê bình, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, vì “Cán bộ quyết định mọi việc” Công việc thành hay bại phân lớn là do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của cán bộ.

Các đợt chỉnh huấn được hầu hết cán bộ tham gia và được các cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ. Chỉnh huấn đã làm cho cán bộ thấu suốt hơn đường lối cách mạng, quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, quan điểm quần chúng, nâng cao ý chí quyết tâm chống đế quốc, phong kiến, chống những khuynh hướng bi quan, dao động, nóng vội, ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài, thiếu tin tưởng vào quần chúng, những biểu hiện mơ hồ, hữu khuynh trong việc thực hiện chính sách ruộng đất. Tuy nhiên, những kết quả trên có phần bị hạn chế do có một số khuyết điểm: chỉnh huấn chưa dựa trên cơ sở tổng kết công tác, cách làm còn máy móc, rập khuôn, phê bình thiếu khách quan thường phủ nhận ưu điểm, có trường hợp đả kích cá nhân, truy ép, chụp mũ gây không khí nặng nề sau chỉnh huấn và ảnh hưởng xấu tới việc chỉnh đốn tổ chức.

Tháng 7-1953, sau các thất bại ở Tây Bắc, Thượng Lào, được Mỹ tăng cường viện trợ, Chính phủ Pháp thông qua kế hoạch quân sự Nava. Pháp và Mỹ đều hy vọng kế hoạch này sẽ tạo ra thế mạnh về quân sự, chuyển bại thành thắng trong vòng 18 tháng. Tháng 9- 1953, Bộ chính trị có quyết định lịch sử về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 - 1954, giữ vững quyền chủ động đánh địch ở chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên chiến trường cả nước và toàn Đông Dương.

Tháng 11- 1953, ta tiến quân lên Tây Bắc và giải phóng Lai Châu, chuẩn bị tiến công Trung Lào và Tây Nguyên. Trước nguy cơ bị uy hiếp, địch nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm quân sự. Đồng thời địch phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc tiến công thắng lợi của ta ở Trung Lào, Thượng Lào, Tây Nguyên và đồng bằng Bắc Bộ. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ để tiêu diệt quân địch, đập tan kế hoạch Nava.

Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9- 1953, công tác tư tưởng đã được triển khai mạnh mẽ để làm rõ tình hình và chủ trương của Trung ương, phục vụ cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân. Hàng ngàn cán bộ được học tập và huy động ra phục vụ chiến trường hoặc vào công tác ở vùng sau lưng địch, hàng chục vạn dân công được động viên ra phục vụ tiền tuyến. Khi có quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, công tác tư tưởng đã tập trung làm rõ quyết tâm chiến lược của Trung ương, khắc phục tư tưởng hoài nghi, do dự, thiếu tin tưởng vào thắng lợi. Yêu cầu của cuộc chiến đấu càng to lớn, nặng nề hơn, công tác tuyên truyền động viên cho việc chuẩn bị chiến trường càng khẩn trương, sôi nổi. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng" đã biến thành hành động thực tế của hàng triệu nhân dân ta ở hậu phương cả vùng tự do và các vùng căn cứ du kích. Nhân dân đã nhiệt tình cống hiến sức người, sức của cho tiền tuyến. Các lực lượng thông tin, tuyên truyền, văn nghệ của Trung ương, địa phương đã bám theo các đơn vị chiến đấu, các đoàn thanh niên xung phong, đoàn dân công để tiến hành công tác. Việc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ trở thành một cao trào cách mạng hào hùng lập nên những kỳ tích mà kẻ địch không thể ngờ tới.

Trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với cuộc chiến đấu oanh liệt của bộ đội ngoài mặt trận, hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh đã anh dũng mở hàng ngàn kilômét đường, phá bom nổ chậm trên các tuyến giao thông. Hàng chục vạn dân công vượt qua đèo dốc, thác ghềnh, bom đạn, vận tải hàng vạn tấn lương thực, vật tư cho mặt trận chỉ bằng đôi vai hoặc các phương tiện thô sơ: xe đạp, thuyền bè.

Từ đầu năm 1953, thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất. Mục đích của chính sách cải cách ruộng đất là xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, địa chủ, phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, giải phóng sức sản xuất, cải thiện đời sống cho nông dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi làm thí điểm ở một số tỉnh Việt Bắc, tháng 1- 1953, Đảng vạch ra Cương lĩnh ruộng đất, xác định đường lối chung của Đảng ở nông thôn và phương châm cải cách ruộng đất. Tháng 12- 1953, Quốc hội ban hành Luật cải cách ruộng đất. Công tác tư tưởng đã làm rõ mục đích của chính sách ruộng đất, sự cần thiết phải tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến, làm rõ đường lối giai cấp của Đảng, khắc phục tư tưởng sợ vỡ đoàn kết, sợ địa chủ phá hoại, thái độ lo lắng hoang mang, thiếu tin vào chính sách mặt trận dân tộc của Đảng. Việc tuyên truyền phát động quần chúng thực hiện chính sách ở cơ sở do các đội công tác trực tiếp tiến hành dưới sự chỉ đạo của các đoàn uỷ. Việc tuyên truyền rộng rãi chính sách thông qua các hội nghị, các phương tiện thông tin đại chúng do các cấp uỷ địa phương chỉ đạo.

Công tác tuyên truyền phát động quần chúng đã giáo dục ý thức giai cấp cho nông dân lao động, nâng cao khí thế cách mạng của nông dân vùng tự do, có ảnh hưởng tới nông dân vùng sau lưng địch. Nó động viên cao độ tinh thần cách mạng của nông dân hăng hái sản xuất, hăng hái đóng góp, đi dân công phục vụ tiền tuyến. Nó cũng động viên các chiến sĩ quân đội con em nông dân ngoài mặt trận hăng hái giết giặc. Từ tháng 4- 1953 đến tháng 7-1954 ta tiến hành 5 đợt giảm tô và một đợt cải cách ruộng đất trong kháng chiến, tuy có một số khuyết điểm, nhưng đã góp phần đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến, và vào thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.

Ngày 13-3- 1954, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cuộc chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trong thời gian chiến dịch dài chưa từng có trong cuộc kháng chiến nên đã có nhiều khó khăn, gian khổ. Đảng đã tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ và chiến sĩ ngoài mặt trận, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tích cực tiến công, ý chí quyết thắng, quyết tâm chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, khắc phục tư tưởng tiêu cực ngại gian khổ hy sinh, uốn nắn tư tưởng chủ quan, khinh địch khi có thắng lợi. Các gương chiến đấu quật cường, hy sinh oanh liệt được biểu dương trong toàn quân, toàn dân.

Dự đoán các khả năng phát triển, để tăng cường công tác tuyên huấn trước những diễn biến mới của tình hình, ngày 29-3-1954 Ban Bí thư ra chỉ thị số 71-CT/TƯ về việc chỉnh đốn sự lãnh đạo công tác tuyên truyền của các cấp uỷ đảng. Bản chỉ thị nhận xét: Trong năm vừa qua, các cấp uỷ đảng chưa thực sự chú trọng lãnh đạo công tác tuyên huấn, biểu hiện cụ thể là tình trạng “khoán trắng" cho cán bộ chuyên môn; không chăm lo kiện toàn tổ chức, cán bộ các ban tuyên huấn điều động, thuyên chuyển nhiều cán bộ tuyên huấn, nhiều cấp uỷ không cử cấp uỷ viên thực sự chuyên trách công tác tuyên huấn. Ban Bí thư yêu cầu các cấp chấm dứt tình trạng đó, nhất là năm nay cuộc đấu tranh chính trị giữa ta và địch sẽ ngày một phức tạp, nhiệm vụ tuyên huấn trong cuộc đấu tranh ấy rất nặng nề. Nội dung chấn chmh gồm 5 điểm: cấp uỷ cử l cấp uỷ viên chuyên trách công tác tuyên huấn; các cuộc họp của cấp uỷ phải đề ra những nét lớn về công tác tuyên huấn; không tuỳ tiện điều động cán bộ tuyên huấn, nhất là trưởng, phó ban, cấp tỉnh và cấp khu khi thay đổi cán bộ phụ trách tuyên huấn phải hỏi ý kiến Ban Tuyên huấn Trung ương; khi cần thiết huy động cán bộ tuyên huấn đi tham gia việc gì thì chú ý sử dụng đúng khả năng chuyên môn của họ; cấp uỷ thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tuyên huấn, kiểm tra, phê bình công tác tuyên huấn.

Việc thực hiện Chỉ thị 7l của Ban Bí thư đã kịp thời tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ - trước hết là cấp khu, cấp tỉnh đối với công tác tuyên huấn, đáp ứng nhiệm vụ công tác tư tưởng trong chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, trong phát huy chiến thắng Điện Biên Phủ.

Ngày 07-5-1954, ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trận chiến đấu lớn nhất trong lịch sử kháng chiến đã thàng lợi hoàn toàn. Chiến thắng Điện Biên Phủ được liên tục thông báo, tường thuật, bình luận trên đài phát thanh, báo chí, cổ vũ mạnh mẽ các chiến trường cả nước. Một cao trào tiến công và nổi dậy đã diễn ra ở các tỉnh Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Liên khu 5. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công, băi khoá, bãi thị nổ ra ở các đô thị. Hàng vạn nhân dân ở Hà Nôi, Hải Phòng, Huế đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng con, đòi chấm dứt chiến tranh. Hơn 300 trí thức Sài Gòn ký tuyên ngôn đòi Pháp ngừng chiến tranh xâm lược. Nguỵ quyền nhiều nơi tê liệt, hàng vạn ngụy quân bỏ ngũ trở về với nhân dân.

Song song với cuộc đấu tranh quân sự là cuộc đấu tranh ngoại giao. Tháng 11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên Thuỵ Điển về việc Chính phủ Pháp muốn giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Việt Nam, nói rõ lập trường thương lượng hoà bình của ta: ". . . Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của Việt Nam"[30]. Tháng 12- 1953, Bộ Chính trị ra nghị quyết về chủ trương của Đảng trong đàm phán, thương lượng. Căn cứ vào nghị quyết này, Ban Bí thư Trung ương đã ra thông tri giải thích rõ nghị quyết trên. Thông tri chỉ rõ tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuất phát từ nguyện vọng hoà bình của nhân dân ta, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai rêu rao hoà bình chỉ là lừa bịp, tuyệt đối không nên có ảo tưởng hoà bình, hoà bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được. Bọn đế quốc "chỉ chịu thương lượng khi nào chúng bị ta tiêu diệt thật nhiều sinh lực và tự nhận thấy không thương lượng hoà bình không được".

Công tác tư tưởng đã dựa vào thông tri của Ban Bí thư giải thích cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thấy rõ muốn có hoà bình và độc lập thật sự thì phải ra sức chiến đấu giành nhiều thắng lợi hơn, làm tan rã tinh thần quân đội Pháp và bù nhìn, đòi Pháp phải thương lượng với Chính phủ ta, khắc phục tư tưởng mệt mỏi, ngại gian khổ, hy sinh, ảo tưởng hoà bình sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Trong thời gian này, chúng ta cũng đã đẩy mạnh việc tuyên truyền cho đường lối đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, Campuchia, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới. Chúng ta đã tổ chức "Tháng đoàn kết hữu nghị Việt - Trung - Xô" có kết quả ở các vùng tự do và căn cứ du kích, cổ vũ nhân dân ta thêm phấn khởi, tin tưởng đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Tháng 5-1954, với bút danh CB, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Tuyên truyền" đăng trên Báo Nhân dân ngày 25-5-1954 về vấn đề chống lại "Chiến tranh bằng tuyên truyền của địch". Người viết. . . "nhiều cán bộ ta xem khinh việc tuyên truyền của địch. . .

Nghĩ như vậy là lầm to, là chủ quan, khinh địch rất nguy hiểm.. .

Giọt nước rỏ lâu đá cũng mềm...

Chúng ta phải đánh thắng địch về tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đánh thắng địch về mặt quân sự"[31]

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953- 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo thế mạnh cho phái đoàn ta ở Hội nghị Giơnevơ. Trong suốt quá trình hội nghị, ta đã tiến hành tuyên truyền lập trưởng chính nghĩa và những đề nghị cụ thể của ta để lập lại hoà bình ở Đông Dương, vạch rõ thái độ ngoan cố của Mỹ, Pháp, cổ vũ nhân dân ta đẩy mạnh kháng chiến giành nhiều thắng lợi hơn, cổ vũ nhân dân Pháp và nhân dân thế giới đấu tranh ủng hộ lập trường của ta đấu tranh đòi lập lại hoà bình.

Ngày 20-7- 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương, thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Nhân dân ta bước sang một thời kỳ lịch sử mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

*

* *

Sau hơn 3.000 ngày tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ [23-9- 1945 - 20-7- 1954], nhân dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi của kháng chiến là do nhiều nguyên nhân tạo nên, nhưng nhân tố có tính quyết định là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đẳn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo, chỉ đạo ấy có mục đích chính nghĩa, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo đã phát huy được sức mạnh của cả dân tộc, kết hợp được sức mạnh dân tộc và quốc tế để giành chiến thắng.

Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng đường lối và biến đường lối ấy thành phong trào kháng chiến của cả dân tộc, cả nước với tinh thần quyết chiến quyết thắng vì độc lập tự do.

Bước vào chiến tranh, ngay từ khi cuộc kháng chiến cục bộ nổ ra ở miền Nam, Đảng đã bắt đầu tiến hành việc tổng hợp kinh nghiệm lịch sử các cuộc kháng chiến của dân tộc, của nước ngoài, kinh nghiệm đấu tranh giành chính quyền, kinh nghiệm kháng chiến ở miền Nam. Đồng chí Trường Chinh viết: “Dựa vào sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc, một cuộc tổng hợp những kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm nước ngoài đang được thực hiện. . .[32]

Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi " đã khái quát kinh nghiệm lịch sử, trình bày chiến lược vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa đánh vừa xây dựng chế độ mới, phát triển những quan điểm đã được tổng kết trong chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương, dự đoán khả năng phát triển, khẳng định kháng chiến nhất định thắng lợi. Trong quá trình kháng chiến, Đảng đã xem xét đánh giá tình hình từng thời gian, vận dụng lý luận để tổng kết kinh nghiệm, từng bước nắm vững quy luật chiến tranh cách mạng, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối. Chính trong quá trình vừa làm, vừa học, phê bình, tự phê bình mà đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh được cụ thể hoá trong các thời kỳ phát triển.

Để biến đường lối ấy thành phong trào kháng chiến, công tác tư tưởng đã kiên trì, bền bỉ làm cho cán bộ và nhân dân ngày càng thông suốt đường lối, phát huy cao độ lòng yêu nước, khí phách kiên cường của dân tộc "quyết không chịa mất nước", "quyết không làm nô lệ". Mọi người đều hiểu được mục đích kháng chiến là cứu nước, cứu nhà nên toàn dân phải đánh giặc, đánh giặc phải lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Công tác tư tưởng đã thường xuyên tố cáo những tội ác dã man của địch để nâng cao lòng căm thù, ý chí quyết tâm kháng chiến, không ngại hy sinh gian khổ, vạch những thủ đoạn xảo quyệt của địch để đề cao cảnh giác. Đã kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần đoàn kết quốc tế, làm cho mọi người phân biệt được bọn thực dân xâm lược pháp với nhân dân lao động Pháp.

Công tác tư tưởng đã phê phán, đẩy lùi những khuynh hướng lệch lạc, phổ biến là bi quan, ngại đánh lâu dài, ngại hy sinh gian khổ, chủ quan khinh địch, thiếu cảnh giác, nôn nóng muốn đánh nhanh, thắng nhanh, ỷ lại viện trợ bên ngoài.

Để nâng cao tính tiên phong gương mẫu của đảng viên, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, Đảng đã rất coi trọng việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, tác phong cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chỉ đạo chặt chẽ các đợt giáo dục quan trọng như học tập thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp phê bình, tự phê bình năm 1947, học tập Chính cương, Điều lệ Đảng năm 195l, chỉnh huấn 1952 - 1953. Trong hoàn cảnh kháng chiến, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn được chú ý tiến hành thường xuyên.

Công tác tuyên truyền cổ động đã đi vào từng nhà, từng người, gắn việc tuyên truyền đường lối kháng chiến với cổ động kịp thời, sắc bén cho việc hoàn thành những nhiệm vụ kháng chiến từng thời kỳ. Nó đã thường xuyên biểu dương những điển hình tiên tiến, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy những điều tốt đẹp nhất trong con người và cộng đồng Việt Nam: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm, kiên cường, trí thông minh, tài năng sáng tạo, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết trong đấu tranh, v.v. . Mọi hoạt động văn học, nghệ thuật, giáo dục đều hướng vào phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Trong hoàn cảnh khó khăn, ngoài các báo chí ở Trung ương, các khu, tỉnh, thành phố đều xuất bản được báo hoặc bản tin phát hành tới các đơn vị cơ sở. Công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ quần chúng nhất là ca hát được phát triển rộng rãi làm cho cuộc kháng chiến tuy gian khổ nhưng không khí thôn xóm vẫn vui tươi lành mạnh.

Ở vùng sau lưng địch, ta đã lợi dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tiến hành công tác tuyên truyền như vận động các nhân sĩ, trí thức tiêu biểu ra tuyên bố có lợi cho kháng chiến, cử người viết bài trên các báo công khai. Khuyết điểm chính trong công tác tư tưởng thời kỳ này là có thời gian chưa quán triệt quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh thể hiện trong việc tuyên truyền nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công năm 1949, áp dụng máy móc, rập khuôn kinh nghiệm của nước ngoài trong việc chỉnh huấn cán bộ và trong công tác tuyên truyền phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất. . .

Nhìn chung trong kháng chiến, chỉ trừ một số rất ít kẻ phản động, người lầm đường, toàn thể dân tộc ta đã tham gia đánh giặc bằng nhiều hình thức. Đó là do sự lãnh đạo đúng đắn nhiều mặt của Đảng, trong đó có kết quả của công tác tư tưởng sâu rộng, sắc bén, có hiệu quả lớn. .

[1]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr4

[2]Hồ Chí Minh:Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.27

[3]Sđd, tr. 114

[4]Sđd, tr. 31

[5]Sđd, tr. 36-37

[6]Sđd, tr. 33

[7]Sđd, tr. 145

[8]Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương:Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1978, tr 42

[9]Theo Võ Nguyên Giáp:Những chặng đường lịch sử,Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr.374

[10]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.246

[11]Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương:Văn kiện Đảng 1945-1954,Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, xuất bản, Hà Nội, 1978, tr252

[12]Hồ Chí Minh:Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.480

[13]Xem: Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.229 -306

[14]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.314

[15]Sđd, tr. 557

[16]Sđd, tr. 464

[17]Sđd, tr. 626

[18]Xem:50 năm trường Đảng miền Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999

[19]Sđd, t.6, tr.68

[20]Sđd, t.6, tr.90

[21]Sđd, st.170-171

[22]Sđd, t.6, tr.159

[23]Sđd, t.6, tr.175

[24]Sđd, t.6, tr.171-172

[25]Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng: Văn kiện đại hội II, 1965, tr.110…[T.G]

[26]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, 1995, t.6, tr.184-185

[27]Sđd, tr. 368-369.

[28]Sđd, t.6, tr. 488, 489, 490, 495.

[29]Sđd, t.6, tr.479 - 480

[30]Sđd, 1996, t.7, tr. 168

[31]Sđd, t.7, tr. 284

[32]Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1948, tr. 7.

Theo Sơ thảo Lược sử Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Video liên quan

Chủ Đề