Dàn ý bài văn nghị luận văn học tự tình năm 2024

Đối với việc phân tích bài Tự tình 2, hãy làm nổi bật cô đơn và buồn tủi trước tình duyên dang dở, khao khát hạnh phúc của người phụ nữ cùng với nghệ thuật xuất sắc trong bài. Các bạn có thể tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ Tự tình 2 dưới đây để hiểu thêm về cách viết.

Đề bài: Phân tích bài thơ Tự tình của nhà thơ Hồ Xuân Hương

Mục Lục bài viết: 1. Dàn ý 2. Bài mẫu số 1 3. Bài mẫu số 2 4. Bài mẫu số 3 5. Bài mẫu số 4 6. Bài mẫu số 5

Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương, tuyển chọn

I. Tóm tắt phân tích Tự tình của Hồ Xuân Hương

1. Khám phá

Hồ Xuân Hương, tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam, để lại ấn tượng mạnh mẽ qua tác phẩm Tự Tình. Bài thơ là một tuyển chọn hay, gây nhiều cảm xúc sâu sắc cho độc giả.

2. Thân bài

Tác giả khai mạc bài thơ bằng một bức tranh tĩnh lặng của đêm khuya, nơi mọi vật đều chìm trong giấc mộng và con người say sưa trong cơn say. Không gian được mô tả bởi tiếng trống canh đều dồn, tạo nên bầu không khí lúc nửa đêm, nơi mọi thứ bỗng chìm vào bóng tối, với tiếng trống vọng vang làm sống động thêm âm thanh của bài thơ. Trong không gian ấy, nhân vật hiện lên với những tâm trạng lẻ loi, trơ trọi, bẽ bàng, và khuôn mặt hồng nhan trở nên lạc lõng...

\>> Chi tiết Dàn ý phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương tại đây.

II. Bài văn mẫu phân tích Tự tình của Hồ Xuân Hương

1. Bài mẫu Phân tích bài thơ Tự tình số 1

Trong những tác phẩm của Hồ Xuân Hương, 'Tự tình' nổi bật với tâm sự sâu sắc về nỗi cô đơn và khát khao hạnh phúc của người phụ nữ. Bài thơ thể hiện một cuộc đời tràn đầy sức sống nhưng lại đối mặt với bi kịch của tình yêu dang dở, đau đớn. Xuân Hương, người sống trong thời kỳ nhiều biến động lịch sử, truyền cảm hứng cho độc giả qua từng câu thơ.

Văn mẫu Phân tích Tự tình của Hồ Xuân Hương

Bài mẫu này đưa đọc giả đến với không gian và thời điểm nghệ thuật, tạo bối cảnh cho tâm trạng của tác giả. 'Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn' - từ 'văng vẳng' không chỉ mang âm thanh mà còn làm nổi bật tâm trạng buồn vắng, hình ảnh của người thao thức giữa đêm khuya tĩnh lặng. Câu thứ hai nhấn mạnh một tâm sự đau đớn:

“Nhan sắc trơ trọi giữa non xanh”

Câu thơ thứ hai chứa đựng từ 'trơ', tượng trưng cho sự cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ trải nghiệm nỗi buồn đau từ vẻ đẹp hồng nhan. Một nỗi đau 'đặc biệt' khi đối mặt với thế giới bên ngoài, với cuộc sống: 'non xanh'. Nỗi buồn đè nặng lên tâm hồn bà, thấu hiểu về số phận của người phụ nữ. Bức tranh buồn này muốn chống lại, thoát khỏi, và 'Chén rượu hương đưa' trở thành lựa chọn cuối cùng, mặc dù đó chỉ là giải pháp tạm thời. Tuy nhiên, bi kịch vẫn là bi kịch:

“Chén rượu hương đưa say tỉnh lại”

Câu thơ này là hình ảnh của một trạng thái đau đớn, bi kịch, gợi nhớ đến câu thơ sâu lắng của Lí Bạch:

“Gươm chém nước, nước chẳng dứt Rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”

Bất lực, câu thơ chuyển sang một tâm trạng uất hận. Hồ Xuân Hương nói:

“Vầng trăng bóng xế chưa tròn”

Trong quan niệm thẩm mỹ cổ điển, vầng trăng thường tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu 'Vầng trăng bóng xế chưa tròn' là hình ảnh của sự đẹp đẽ nhưng với chút uất hận. Đây là hình ảnh của một “vầng trăng khuyết”, tình cảm đắng ngắt về cuộc sống. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu” bà đã ẩn chứa suy tư như vậy.

Chuyển sang câu 5, 6, tức thì cảnh vật bỗng trở nên sống động. Miêu tả chi tiết làm cho cảnh trở nên thuần khiết. Hình ảnh thực tế, hồn nhiên:

'Nghiêng ngả mặt đất, rêu phủ từng bước chân, Đâm thẳng vào mây đá bao linh hồn”

Nghệ thuật đảo ngược và đối chiếu tạo nên sự sống động và cảnh đầy năng lượng. Một sức sống được hình thành từ sự quan sát tinh tế của bà, như là việc quật mình và tự giác. Cảnh này chỉ thuộc về 'Bà chúa thơ nôm' mà thôi, không phải của ai khác. Rõ ràng, mặc dù đang trải qua những thời điểm buồn bã, cô đơn, nhưng điều đó không làm giảm đi phẩm chất riêng biệt của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, năng lượng mãnh mẽ, sự hồi hương với cuộc đời khiến cho ngay cả khi lòng đầy cảm giác đau buồn, bà vẫn nhìn thấy cảnh vật bằng con mắt yêu đời, hồn nhiên và đầy năng lượng. Đó chính là cách giải thích về những sự phản kháng và đối lập trong bản chất của bà, tạo ra những đoạn thơ châm biếm độc đáo. Vũ khí này mạnh mẽ hơn chén rượu 'say rồi tỉnh'. Đó là công cụ kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như vậy mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu thơ kết:

'Chán chường với sự xuân đi, xuân lại, Mảnh tình chia sẻ nhỏ bé!”,

Yêu đời là như vậy, sức sống mãnh mẽ là như vậy nhưng cuộc sống riêng của bà vẫn là: “Xuân đi xuân lại”, một chu kỳ quay cuồng đáng ghét và nhàm chán của thời gian, của cuộc đời. Điều này khiến bà không thể tránh khỏi một tiếng thở dài đầy chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa chuỗi ngày tháng lặp lại ấy là một “mảnh tình” đang bị xé toạc, chia sẻ... bị phơi bày. Với trái tim chung thủy với đời sống, điều này giống như một vết thương, một tình trạng đau đớn.

Mọi người thường nói rằng thơ là tâm trạng, là một thông điệp nghệ thuật. Đọc “Tự tình”, là như thấu hiểu được tâm sự bi kịch của Hồ Xuân Hương. Đó là tâm sự của một con người luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn đầy sức sống và yêu đời, nhưng lại phải đối mặt với những thất bại, nỗi đau. Điều này tạo nên trong thơ bà một tiếng thở dài. Một tiếng thở dài đáng quý của một người có ước mơ nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm nằm ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc cá nhân đã đối lập mạnh mẽ với cấu trúc xã hội chung. Trong ngữ cảnh đó, “Tự tình' trở thành một bài thơ đòi hỏi quyền lợi hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo đồng thời chứa đựng giọng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn.

"""- KẾT THÚC ĐOẠN 1 """"-

Trong khóa học Ngữ Văn 11, chúng ta sẽ được tìm hiểu nhiều tác phẩm thơ và văn học tuyệt vời như Thương Vợ, Bài ca ngất ngưởng, Vào phủ chúa Trịnh,... để hiểu và viết tốt các bài văn liên quan. Các em có thể tham khảo các bài văn mẫu như Phân tích bài thơ Thương Vợ, Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Soạn bài Bài ca ngất ngưởng, Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu,...

2. Bài mẫu Phân tích Tự tình số 2

Thân phận lẻ loi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là đề tài phổ biến trong văn học dân gian và văn học hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình luôn là mối quan tâm lớn của văn học, thể hiện tinh thần nhân đạo. Bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương là một ví dụ điển hình về người phụ nữ trong văn học Việt Nam. Người phụ nữ cô đơn giữa đêm khuya, lắng nghe tiếng trống canh báo thời điểm trôi qua. Canh khuya, thời gian từ nửa đêm đến sáng, nàng cảm nhận tiếng trống như một cảnh báo về thời điểm đau lòng mong đợi điều gì đó. Nhưng niềm mong đợi càng lớn, thất vọng càng sâu. Tiếng trống canh báo là thông điệp về tâm trạng đau buồn, cô đơn, và nỗi trông chờ không đền đáp của người vợ.

Hồ Xuân Hương mô tả sự thất vọng của người phụ nữ khi chờ đợi chồng.

Câu thơ ẩn chứa ý từ, chỉ thấy hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa biểu hiện việc uống rượu để quên đi những gì đau buồn trong cuộc sống, nhưng ngay cả khi say, nỗi buồn vẫn tỉnh giấc, nghĩa là uống rượu không thể xóa đi nỗi đau!

Vầng trăng bóng xế trong câu thứ tư mang ý nghĩa đêm đã gần kết thúc, nhưng trăng vẫn chưa tròn, thể hiện niềm hạnh phúc chưa trọn vẹn. Vầng trăng bóng xế cũng có thể ám chỉ tuổi già và hạnh phúc chưa đầy đủ.

Những bài Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất - Tìm hiểu chi tiết

Trái ngược với bốn câu đầu thể hiện sự chờ đợi mệt mỏi, buông bỏ, hai câu năm và sáu của Hồ Xuân Hương đưa ra một hình ảnh trừu tượng. Đám rêu được ánh trăng xế xiên ngang mặt đất soi sáng. Có thể tưởng tượng: những viên đá bị ánh trăng đâm toạc chân mây để chiếu sáng. Rốt cuộc, thân phận cô đơn của tôi không bằng những thứ vô tri vô giác đó! Cảnh này không nhất thiết phải là thực tế, có thể chỉ là tưởng tượng trong tâm trí. Xiên ngang, đâm toạc mang ý nghĩa của sự rối bời trong bản chất, bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Các dòng thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn nổi lên đâm toạc chân mây. Điều này không phải là hình ảnh của thế giới bên ngoài, mà là hình ảnh của tâm trạng, sự dồn nén và khao khát phá vỡ, muốn phá hủy, muốn giải thoát khỏi sự cô đơn, sự chán chường. Đây là cách thể hiện tính cách mạnh mẽ, táo bạo của Hồ Xuân Hương.

Những biểu hiện của tâm trạng dồn nén, bức bối và sự phá hủy bất ngờ bùng nổ, rồi cũng bất ngờ trở nên êm dịu, nhường chỗ cho sự quay lại của tình trạng chán nản và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Dòng thơ 'Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại' chứa đựng biết bao thời gian và sự chán ngán kéo dài. Thời gian trôi đi, cuộc sống trôi đi, tình yêu và hạnh phúc chỉ được thưởng thức một cách thoáng qua. Tác giả đã ra đi, tình yêu và hạnh phúc cũng chỉ thoáng qua. Tác giả sử dụng từ 'mảnh tinh' để mô tả một tình yêu nhỏ như mảnh vỡ. Lại nói về việc chia sẻ - có lẽ là chia sẻ với chồng, chia sẻ với vợ có phải không? Hai dòng cuối cùng làm kết thúc bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở tĩnh lặng của người phụ nữ với số phận lẻ loi về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội ngày xưa.

Bài thơ là lời than thở cho số phận đau buồn của người phụ nữ chịu cảnh cô đơn, mệt mỏi, mà họ phải chịu đựng, giữ chặt. Nó thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả và số phận đau đớn của con người.

Điều nghệ thuật nổi bật nhất trong bài thơ là cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh để tạo ra ấn tượng mạnh mẽ. Tác giả chủ yếu sử dụng ngôn từ thuần Việt phong phú với hình ảnh, màu sắc và đường nét sắc thái mạnh mẽ, thông qua những động từ mô tả tình trạng: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, quay lại, chia sẻ, ... và tính từ miêu tả trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn... để mô tả cảm nhận về cuộc sống và số phận.

Hình ảnh trong bài thơ tạo ra ấn tượng mạnh mẽ bởi nghệ thuật mô tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả đến cực điểm của tình trạng, tạo ra hình ảnh nổi bật về hình thức. Nói về sự cô đơn, trơ trọi và vô duyên của người phụ nữ, có thể hiểu qua dòng thơ: Trơ cái hồng nhan giữa nước non. Những chữ xiên ngang, đâm toạc là những hành động mạnh mẽ, như muốn phá vỡ, đầy sức sống thể hiện cảm xúc trẻ trung.

Tác phẩm thể hiện mâu thuẫn giữa khao khát hạnh phúc trọn vẹn của người phụ nữ trong bối cảnh lẽ mọn với sự thực tế khắc nghiệt là sống trong cô đơn, mệt mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa ước mơ chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng và việc chấp nhận số phận thiệt thòi mà cuộc sống mang lại.

Bài thơ thể hiện sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ, chỉ trích mạnh mẽ chế độ đa thê trong xã hội xưa, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và sự cam chịu của con người trước cuộc sống ngày nay.

Bài thơ tả một câu chuyện đau lòng, một số phận đáng thương, một ước mơ đáng quý, một tâm trạng cần được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những giấc mơ hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện trong điều kiện xã hội lúc đó, đó là bi kịch không thể giải phóng. Vì thế, giọng điệu của bài thơ vừa buồn bã vừa tràn đầy thanh âm bi ai. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm thấy lời giải trên cơ sở của một thế giới mới, của một xã hội mới.

3. Bài mẫu Phân tích Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương số 3 - Đánh giá chi tiết

Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ tài ba thời kỳ cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, để lại dấu ấn đặc sắc qua tập 'Lưu Hương kí' và khoảng 50 bài thơ Nôm, đa dạng về nghệ thuật và ý nghĩa. 'Tự tình' là chuỗi thơ phản ánh tâm hồn của Hồ Xuân Hương, của một người phụ nữ trải qua những thăng trầm đời sống, với khao khát hạnh phúc tình duyên. Bài thơ này là phần thứ hai trong chuỗi 'Tự tình' gồm ba bài. Thi sĩ Xuân Diệu mô tả Hồ Xuân Hương trong bài 'Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm' như là người tạo ra một khúc biệt thú vị cùng với bài 'Khóc vua Quang Trung' của công chúa Ngọc Hân. Đây là tiếng nói chân thật về tình cảm và cuộc sống của phụ nữ trong văn học cổ điển Việt Nam...' Ông còn nhận xét về âm điệu và ngôn ngữ thơ: '...trong bộ ba bài thơ tâm tình này, ngoài bài thơ vẫn 'ênh hẻ nênh và bài thơ vẫn 'om' oán hận, thì bài thơ vẫn 'on' này đưa ra kỳ vọng, hấp dẫn'.

'Giữa đêm, tiếng trống canh vang lên, Gương mặt trắng bệch, đối diện với đại dương. Chén rượu thơm nồng lại cạn chén yên bình, Vầng trăng bóng xế nửa khuyết chưa tròn. Xiên ngang mặt đất, rêu phủ đầy từng bước, Đâm toạc chân mây, đá nhỏ nằm vuốt tóc mây. Chán ngấy với sự trở lại của mùa xuân không ngừng, Tình cảm nhỏ bé được chia sẻ như mảnh tình nhỏ bé!'.

Trong ba bài thơ, Hồ Xuân Hương chọn khám phá đêm khuya, canh khuya. 'Tự tình' bà viết về 'Tiếng gà vang vẳng trên núi - Oán trách trải rộng mọi nẻo đường'. Cũng như bài thơ trước, bà tỉnh giấc giữa đêm khuya, hay mất ngủ suốt đêm, tâm hồn rối bời và đầy lo lắng. Âm thanh 'vang vẳng' của tiếng trống từ xa như một lời nhắc nhở về thời gian không ngừng trôi, cuộc sống của người phụ nữ như dòng sông nhanh chóng trôi đi: 'Giữa đêm, tiếng trống canh vang lên'. 'Gương mặt trắng bệch': đây là hình ảnh về khuôn mặt trắng nhợt, chỉ phụ nữ. 'Trơ' nghĩa là mất hết cảm giác, trở nên lạnh lẽo. 'Đại dương': tượng trưng cho thế giới tự nhiên và xã hội.

Bài văn Phân tích Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương - Sâu sắc và ấn tượng nhất

Câu thơ: 'Lạc lõng hồng nhan trước bóng nước non' thể hiện một tâm trạng sâu sắc: con người chịu nhiều đau buồn, khuôn mặt trở nên lạnh lùng trước bức tranh tự nhiên, trước cuộc sống, như cây cỏ khô héo, mất đi sự sống. Nỗi đau buồn đã đạt đến đỉnh điểm. Chữ 'lạc lõng' liên kết với 'hồng nhan' tạo ra giọng thơ nặng nề, làm nổi bật thêm thân phận, số phận, và duyên số quá hẩm hiu. Có vẻ như tiếng trống vang dồn vào canh khuya, thời gian như là cơn gió thoáng qua cuộc đời, trôi qua số phận và cơ thể của nhà thơ. Con người đang rơi vào trạng thái chán ngấy, khô héo vì xã hội phong kiến đã làm xơ xác và làm héo úa phận hồng nhan. Phía sau đề là những tiếng thở dài đầy bi thương. Cố gắng đấu tranh để thoát khỏi, đẩy lùi cái hoàn cảnh khó khăn nhưng không dễ dàng! Phần tiếp theo là hai câu thực tế:

'Chén rượu thơm lừng, say mê lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế mờ nhòe chưa tròn'.

Nghệ thuật đối chiếu rất tinh tế: 'Chén rượu' và 'vầng trăng', ở trên là 'hương thơm', ở dưới là 'bóng xế', đặc biệt chữ 'say mê lại tỉnh' kết hợp với 'chưa tròn' tạo ra sự đối lập, tương phản, làm nổi bật bi kịch của thân phận phụ nữ dang dở, cô đơn. Muốn sử dụng chén rượu để an ủi lòng, nhưng khi đưa chén lên môi, hương thơm lan tỏa, phát ra mũi. Nghĩ rằng uống rượu để quên đi những nỗi buồn, nhưng càng uống càng tỉnh. 'Say mê lại tỉnh' chỉ để rồi tỉnh lại và muốn say nữa, một chuỗi lặp lại vô tận, là bi kịch của số phận nhiều phụ nữ cùng thời, trong đó có Hồ Xuân Hương. Đau lòng cho thân phận, qua những đêm dài đau khổ đợi chờ, nhưng cuộc sống ngày càng 'mờ nhòe'. Bao hy vọng đều trôi vào quên lãng. Bao lâu nữa vầng trăng mới 'tròn'? Bao lâu nữa hạnh phúc mới đến đầy đủ, trọn vẹn? Sự chờ đợi liên quan chặt với niềm khao khát. Càng cô đơn, càng hy vọng, càng hy vọng, càng đau buồn, đó là cảnh bi kịch của những phụ nữ lỡ thì, số phận trái ngang, trong đó có Hồ Xuân Hương.

Hai câu thơ trong bài phê bình, tác giả sử dụng cảnh để tượng trưng. Đây là hai câu thơ tả cảnh buổi tối lạ lùng được sáng tác giữa đêm khuya trong tâm trạng buồn rầu:

'Kéo dài ngang mặt đất, rêu che phủ mọi góc, Đâm thẳng chân mây, đá nổi bật giữa trời'.

Ý thơ xây dựng sự đối lập để làm nổi bật tính dữ dội, quyết liệt của sự phản kháng. Mỗi đám rêu, mềm mại và yếu đuối, lại có thể 'kéo dài ngang mặt đất'! Chỉ có vài 'đá nổi bật' nhưng lại có thể 'đâm thẳng chân mây' là điều kỳ lạ! Hai câu thơ ban đầu giúp chúng ta nhận thức về một năng lượng bị kìm nén, bắt đầu bộc phát mạnh mẽ. Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ là màu sắc, đường nét, hình khối mà còn có sự sống động, có gương mặt, có thái độ, có hành động, cũng như 'kéo dài ngang...', cũng 'đâm thẳng'... vượt qua mọi trở ngại, mọi thách thức. Xuân Hương, với lòng tự tin và tình yêu đời, vẫn kiên trì đối mặt với những bi kịch. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội, nhưng thực tế vẫn đau lòng. Đêm đến, trong cái bóng tối rộng lớn của thiên nhiên, người phụ nữ hẩm hiu cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Không ngạc nhiên khi trong 'Tự tình', nữ sĩ than thở:

'Đêm buông kìa, đất lạnh bóng rêu kìa, Loa pháo buồn không vang vọng mấy cơn?'.

Toàn bộ nỗi đau của cuộc sống như nén lại trong lòng một người phụ nữ cô đơn. Khát khao được sống trong hạnh phúc, làm vợ, làm mẹ như mọi người phụ nữ khác. Nhưng 'hồng nhan bạc mệnh'! Khi đêm buông xuống, người phụ nữ không thể nào ngủ, trắng đêm, buồn bã, thân đơn côi, thiếu thốn tình thương, xuân trôi qua và xuân lại về, nhưng tình yêu chỉ được 'san sẻ mảnh vụn', phải chấp nhận số phận bi đát:

'Chán nản với xuân đi, xuân lại lặp đi lặp lại, Mảnh tình chỉ còn lại tí ti con con'.

Xuân qua, xuân lại, nhưng với người phụ nữ, mỗi năm chỉ là một tuổi nặng thêm, như cơn gió cuốn đi xuân. Chữ 'ngán' nói lên nỗi đau và buồn phiền của người phụ nữ lỡ thì quá tuổi, đang trải qua sự mòn mỏi và đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị vỡ tan thành nhiều 'mảnh', và chỉ có thể 'san sẻ tí con con'. Câu thơ là lời than thở về số phận. Liệu đây có phải là lần thứ hai Hồ Xuân Hương chấp nhận làm lẽ? Tình đã vỡ ra thành 'mảnh' và lại bị 'san sẻ', đã 'tí' thì cũng chỉ là 'con con'. Mỗi từ như những giọt nước mắt rơi. Câu thơ này, tâm trạng này được nữ sĩ thể hiện rõ trong bài 'Lấy chồng chung':

'Ai đắp chăn bông, ai lạnh lùng, Chém cha cái kiếp, lấy chồng chung, Mười năm mỗi tội lỗi như chớ, Một tháng đôi lần có cũng không!'.

Tóm lại, 'Tự tình' là tiếng thở dài, tự thương xót và buồn thảm cho số phận bi đát của mình. Càng cô đơn, càng buồn bã. Càng buồn bã, càng khát khao hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tế nặng nề, cay đắng bủa vây, khiến cho khuôn mặt tươi tắn 'trơ' ra, 'trơ' hóa với thế giới, với cuộc sống. Người đọc không thể không đồng cảm với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và của phụ nữ xưa trong xã hội. Ngôn từ sắc bén, độc đáo, làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương: 'chán nản', 'mảnh tình', 'san sẻ tí con con',... Cụm từ mạnh mẽ, hình ảnh tả, thể hiện mọi đau khổ và bi kịch của số phận. Qua bài thơ, ta thấy Hồ Xuân Hương đã đưa ngôn ngữ dân gian, tiếng thổ nhưỡng vào trong lời thơ, làm cho nó giản dị và đồng thời Việt hóa thể thơ truyền thống thất ngôn bát cú. Bà xứng đáng được coi là 'Bà chúa thơ Nôm' của văn hóa thi ca dân tộc.

4. Đánh giá mẫu phân tích Tự tình số 4

Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, một tên tuổi sáng trong làng thơ Việt Nam, thường chủ đạo sáng tác bằng cách miêu tả cảnh ngụ tình. Bài thơ Tự tình là một ví dụ điển hình cho phong cách này, nói về vẻ đẹp đức hạnh, sự hi sinh và thân phận nhạy cảm của người phụ nữ trong xã hội khắc nghiệt. Tác phẩm không chỉ phản ánh cảm xúc của người phụ nữ mà còn thể hiện tâm trạng của tác giả.

Hai câu đầu tiên của bài thơ tả cảnh một người phụ nữ trống vắng giữa đêm tĩnh lặng: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non”

Từ 'văng vẳng' miêu tả âm thanh rõ ràng nhưng cũng mơ hồ, tạo cảm giác không hướng nhưng vẫn cảm nhận được. Bối cảnh thời gian là vào 'đêm khuya' - thời điểm cảm xúc phức tạp nhất. Trong 'đêm khuya' đó, một người phụ nữ vẫn thức giấc, suy ngẫm về cuộc sống giữa tiếng trống vọng vẳng từ xa.

Người phụ nữ được mô tả là 'hồng nhan', mang đẹp đẽ, nhưng lại 'trơ với nước non'. Cảm nhận được sự cô đơn, lẻ loi và nỗi buồn trong trái tim người phụ nữ 'hồng nhan'. Để giải tỏa nỗi lòng, bà ta chọn ly rượu nồng:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”

Phân tích Tự tình 2 lớp 11 để hiểu rõ hơn về thế giới tâm hồn của người phụ nữ xưa

Dưới ánh trăng, hình ảnh mượn rượu giải sầu, quen thuộc trong thi ca, đẹp đầy thi vị. Tiếc rằng, hương rượu nồng không thể xua đi bầu tâm sự. Muốn say để quên, nhưng mùi rượu lại làm tâm trạng tỉnh táo. Nỗi lòng của người phụ nữ càng rõ ràng dưới vầng trăng khuyết, làm tăng sự cô đơn, tịch liêu.

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Loại rêu trong bài thơ là biểu tượng cho phụ nữ, mỏng manh nhưng sức sống mạnh mẽ. 'Xiên ngang mặt đất' thể hiện sự phản kháng của chủ thể với những thứ lớn mạnh. Viên đá nhỏ chứa đựng sức mạnh lớn, có thể 'đâm toạc chân mây'. Dù phản kháng mạnh mẽ, phụ nữ vẫn bị ràng buộc bởi số mệnh làm vợ.

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con”

Mùa xuân thiên nhiên qua đi, nhưng 'xuân' của con người không trở lại. Tuổi trẻ chỉ đến một lần, qua đi sẽ không bao giờ quay lại. Người phụ nữ buồn, đáng thương khi tuổi xuân qua trong chờ đợi mỏi mòn, sống chung chồng mà không có sự sản sẻ tình cảm. Từ 'ngán' thể hiện sự chán nản, là lời khóc của tác giả cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ làm vợ lẽ dưới chế độ cũ.

5. Phân tích Tự tình II của Hồ Xuân Hương số 5

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bao la, mờ mịt của bom thuyền, dòng sông, chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức trong đêm dài. Tiếng gà gáy “văng vẳng” trên bom thuyền như tiếng oán hận vang xa. Nghệ thuật sử dụng âm thanh để diễn đạt sự tĩnh lặng vắng vẻ của đêm làng. Người phụ nữ nghe tiếng gà gáy, “trông ra' màn đêm mịt mùng, như bị bao quanh bởi nỗi buồn cô đơn và oán hận.

“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom, Oán hận trông xa khắp mọi chòm”

Trong phần thực, tác giả sáng tạo hai hình ảnh 'mõ thảm' và 'chuông sầu', tương đối và hoàn hảo, thể hiện nỗi đau khổ, sầu tủi trong tình duyên quá lứa lỡ. 'Mõ thảm' và 'chuông sầu' hô ứng nhau, ám ảnh với tiếng 'cốc' và 'om'. Nữ sĩ thấu hiểu nỗi đau cô đơn, thao thức trong những đêm dài, như 'mõ thảm' chẳng ai khua 'còn chuông sầu' lại không đánh 'cớ sao om'. Nỗi oán hận, đau buồn thấm vào đáy lòng, như đang lan tỏa khắp 'mọi chòm', kéo dài qua những đêm dài. 'Om' là tiếng chuông sầu, là hình ảnh của nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ.

“Mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”

Trong thời con gái, Hồ Xuân Hương sáng tác những vần thơ tươi xinh như 'Thân em vừa trắng lại vừa tròn' [Bánh trôi nước], “Hai hàng chân ngọc duỗi song song” [Đánh đu],… Nhưng qua 'Mõ thảm' và 'chuông sầu', ta cảm nhận rõ nỗi thảm sầu cô đơn của nữ sĩ.

Hướng dẫn Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương

Lời than tự tình trong cô đơn nổi sâu, 'rầu rĩ', giận hờn cho duyên phận hẩm hiu. 'Trước nghe' đối với 'sau giận', 'tiếng' hô ứng với 'duyên', 'rầu rĩ' tâm trạng đối với 'mõm mòm' trạng thái. 'Trước nghe' nhưng tiếng gì? - Tiếng của miệng thế? Hay tiếng gà gáy văng vẳng, tiếng “chuông sầu', tiếng 'mõ thảm' chất chứa 'cốc', đang “om' trong lòng? Trong cảnh khuya thao thức, nghe càng thêm 'rầu rĩ', buồn tủi. Lúc tàn canh, càng nghe càng “giận”, hờn tình duyên bẽ bàng. Tình duyên như trái cây, không còn 'má hây hây gió' nữa mà đã chín 'mõm mòm', là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì. Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương, thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ lẻ bóng.

“Tài tử văn nhân ai đó tá! Thân này đâu đã chịu già tom!'

Nghi vấn và cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lý. Nữ sĩ vẫn tin vào tài năng của mình có thể thay đổi duyên số, hy vọng tìm được bạn đời trong đám 'tài tử văn nhân'. Câu 6 nữ sĩ nghi vấn: “Sau giận vì duyên để mõm mòm', câu 8 lại thể hiện sự bướng bỉnh và mạnh mẽ trước cuộc sống.

“Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung, Mượn ai tới đấy gửi cho cùng. Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, Phấn son cùng tủi phận long đong. Biết còn mảy chút sương siu mấy, Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong '

Bài thơ “Tự tình' văn bút tinh tế, gieo vần “om”, với 5 vần thơ hóc hiểm như 'bom-chòm-tìm-mòm-tom'. Bút pháp điêu luyện tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái “oán', cái “hận”, cái “ngang bướng” của một tâm trạng; cá tính rất Xuân Hương. Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ đầy ám ảnh. “Tự tình' là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, bi kịch tình yêu, niềm khao khát hạnh phúc.

""""- HẾT""""

Tự tình là những tâm sự thầm kín của nữ sĩ Hồ Xuân Hương về số phận đầy ám ảnh. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn, tình duyên dang dở, éo le. Đọc hiểu chi tiết về bài thơ qua Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Bài thơ đầy giá trị nhân bản, là góc nhìn sâu sắc vào cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]

Chủ Đề