Có mấy cách đeo gùi

Trong cộng đồng các dân tộc Mông, Dao, Tày… gùi thường có hai quai để đeo trên vai.

Tuy nhiên, một số nhóm dân cư trong các dân tộc Mường, Thái, Hà Nhì… lại dùng gùi chỉ có một quai. Thay vì dùng vai, đồng bào đeo quai gùi trên trán.

Đây là những bức ảnh chụp một nhóm phụ nữ Mường ở xã Phú Cường, H.Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình khi đang gùi phân lên bón cho một nương mía trên sườn núi.

Công việc của họ thật nặng nhọc nhưng cũng rất khéo léo khi di chuyển trên mọi địa hình với một gùi phân nặng trĩu đeo trên trán.

Phạm Quỳnh Anh - L.Q.P

>> Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
>> Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc
>> Tặng quà cho đồng bào dân tộc  

Cư dân các dân tộc thiểu số Kon Tum khi ra khỏi nhà là mang theo cái gùi, đó là vật bất ly thân. Trong mỗi gia đình, từng người có chiếc gùi riêng của mình, gùi là vật dụng đã được “cá thể hóa”của mỗi người.

Cư dân Kon Tum có hàng chục loại gùi với những kiểu dáng, kích cỡ, công dụng khác nhau. Có loại gùi được đan khá công phu và rất đẹp, có nắp, được đan 2 hoặc 3 lớp  dùng đựng đồ [có tác dụng như chiếc rương] trong gia đình; Có loại gùi nhỏ đan hoàn toàn bằng mây, rất đẹp, khi mang ôm gọn sau lưng như những chiếc ba lô [klet, chui], đó là những gùi đi rẫy, đi săn của đàn ông để khi chui, luồn trong rừng già rất tiện; Có loại gùi một lớp được đan dầy dùng đựng hoặc cõng lúa gạo; Có gùi đan thưa để đi lấy củi, rau, măng, lấy nước; Có loại gùi nhỏ [teo] dùng khi trỉa lúa, tuốt lúa; Có gùi cho người lớn, gùi cho trẻ em….

Gùi không chỉ là phương tiện vận chuyển, còn là “tác phẩm mỹ thuật’, trên đó trang trí nhiều hoa văn, thể hiện đôi bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ, gởi gắm bao tâm tư tình cảm của người làm ra nó. Tùy theo từng tộc người mà hình dáng, trang trí hoa văn, cách đan đế gùi, nắp gùi có cấu tạo khác nhau. Song nét chung gùi của cư dân Kon Tum cũng như Tây Nguyên là có quai đeo qua vai chứ không tì vào trán như một số dân tộc ở miền núi phía bắc.

Nguyên liệu dùng để đan gùi là tre và các loài cây thuộc họ tre, nứa và mây. Dây mây được dùng để cạp miệng và đế gùi, đan quai gùi. Đế gùi thường được làm bằng song, mây và các loại gỗ mềm. Để nguyên liệu không bị mối mọt, đồng bào thường chặt tre nứa vào cuối tháng âm lịch, những ngày không có trăng và thường vào mùa khô. Họ thường chọn tre nứa bánh tẻ, không già quá, cũng không non quá. Thường chỉ khi nào cần đan họ mới vào rừng khai thác nguyên liệu. Riêng mây là loại vật liệu khó kiếm nên lúc đi rừng nếu gặp đồng bào thường lấy về để trên gác bếp để dùng khi cần. Cũng có khi lúc rỗi rãi họ chẻ, vót nan để sẵn trên gác bếp, khi cần dùng mới đem ngâm nước, để ráo cho mềm rồi mới đan. Nan đan gùi phần lớn dùng nan cật, rất ít khi dùng nan mặt lòng.

Dụng cụ dùng để chẻ, pha nan của đồng bào là cây rựa. Dụng cụ chính dùng để vót nan là con dao nhỏ, có mũi nhọn. Dao do đồng bào tự rèn hoặc trao đổi trong làng. Dao rất sắc. Lưỡi dao ngắn, nhỏ, hơi bầu, phần mũi nhọn hơi cong lên, thuận lợi khi vót nan cũng như khi khoét lỗ trên đế gùi để sỏ lỗ buộc quai. Cán dao là một đoạn le nhỏ, dài khoảng 30-40cm. Khi vót nan, người thợ tỳ cán dao vào dưới nách để làm điểm tựa. Khi đan, người thợ còn dùng một dụng cụ hỗ trợ [để dồn nan cho chặt], đó là một “con dao” nhỏ, dài khoảng 20-30cm bằng sừng, hoặc mảnh xương sườn trâu, bò. “Lưỡi dao” tày để khi dồn nan, dao không làm đứt sợi nan.

Bên cạnh đó, để đan mỗi loại gùi khác nhau đồng bào còn dùng những chiếc khuôn [khung] được làm sẵn bằng tre/le giúp cho việc đan được thuận tiện.

Có nhiều loại hình và kiểu dáng gùi khác nhau, nhưng về cơ bản có thể chia các loại:

- Gùi thân tròn hai lớp đan dầy, có nắp [nan nhỏ]: Dùng đựng váy áo, tấm đắp, tấm choàng, đồ quý… [tác dụng như chiếc rương] trong gia đình. Đây là loại gùi khó đan, đòi hỏi kỹ thuật cao.

- Gùi thân tròn, một lớp, đan dầy [nan nhỏ]: Dùng đựng [hoặc cõng] lúa gạo, bắp....

- Gùi thân tròn, một lớp, đan thưa [nan to]: Dùng lấy củi, rau, măng, hoặc đựng bầu khi đi lấy nước…

- Gùi thân tròn nhỏ đan dầy một lớp dùng khi trỉa lúa, suốt lúa [Teo].

- Gùi thân dẹt một hoặc ba ngăn đan dầy [thường đan bằng mây - nan nhỏ] dùng cho đàn ông khi đi rẫy, đi săn để đựng cơm, thuốc hút, ống tên…, khi đeo áp chặt vào lưng, rất thuận tiện khi luồn lách trong rừng.    

- Gùi đi săn của đàn ông đan dầy, một lớp, khi đeo bám chặt vào lưng như chiếc ba lô, rất thuận tiện cho việc đi rừng.

Gùi dùng để cõng củi, bắp, mì… của dân tộc Giẻ - Triêng. Gùi được đan bằng cật lồ ô, dây đeo đan bằng mây.

Gùi dùng đựng đồ trong nhà của dân tộc Giẻ - Triêng. Toàn thân gùi được đan bằng mây và lồ ô với 3 lớp để chống thấm nước.

Gùi có nắp: của dân tộc Xê Đăng dùng để đựng đồ [váy, áo, khố tấm choàng, tấm đắp] trong gia đình. 

Một chiếc gùi gồm có 3 bộ phận chính là thân, đế và quai gùi. Khi chế tác, đầu tiên người ta đan thân gùi, rồi làm đế gùi và sau cùng là quai gùi. Quai gùi được xỏ, buộc vào thân gùi.

Nhìn chung gùi thường có chiều cao 50-70cm tùy chức năng, nhu cầu của người sử dụng. Thân gùi thường có dáng hình trụ, tròn, thuôn dần về đáy. Đáy nhỏ hơn miệng thường có hình chữ nhật, đôi khi hình vuông. Miệng gùi hình tròn. Gùi được đan theo một số kiểu: Đan nan ngang với các nan được chia thành nan dọc và nan ngang [nan ngang nhỏ hơn nan dọc] với các dạng lóng mốt, lóng đôi; lóng mốt lóng ba…; Kiểu đan nan chéo và kiểu đan mắt cáo… tùy loại hình và công dụng.

Trong quá trình đan thân gùi, người ta tạo hoa văn trang trí bằng cách đan cải hoa văn mầu đen, mầu đỏ bởi các sợi nan đã được nhuộm mầu bằng nhựa cây rừng, hoặc các nan cùng mầu bằng cách lật mặt cật hoặc mặt lòng để có hai mầu khác nhau. Các dải hoa văn thường nằm gần miệng, gần đáy hoặc giữa thân gùi. Thân gùi có thể nẹp tre hoặc mây. Nẹp thân được ốp vào thân gùi bằng dây mây. Sau khi đan xong thân, bắt đầu đan miệng gùi. Với các loại gùi không có nắp, phần miệng thường đan mở rộng ra. Với các loại gùi 2 lớp có nắp, miệng gùi thường được đan, cạp thu hẹp dần lại.

Loại gùi 2 lớp có nắp dùng để đựng đồ, thì lớp trong được đan trước, lớp ngoài đan sau. Lớp trong được đan cao hơn lớp ngoài và tạo thành miệng. Miệng lớp ngoài đan thấp hơn lớp trong khoảng 15-20cm và tạo thành gờ, được cạp bằng dây mây để đỡ nắp. Nắp gùi hình chóp, đỉnh chóp là đầu mấu của một đoạn tre/ le mà phần dưới đã được chẻ và tõe ra thành các nan dọc của nắp. Nắp thường được đan cải nan mầu đen để tạo hoa văn trang trí.         

Đế gùi có chiều cao khoảng 10-15cm, thường hình chữ nhật hoặc vuông, thẳng hoặc phía dưới hơi choãi ra ngoài tạo thế vững chắc khi đặt đứng xuống đất/ sàn nhà. Đế có thể được làm từ một khúc gỗ liền khối được đục trong lòng thành hình chữ nhật hoặc từ 4 mảnh gỗ rời ghép lại bằng dây mây. Đế thường được làm bằng các loại gỗ mềm và được buộc chặt vào đáy bằng dây mây.         

Quai gùi được đan bằng tre nứa hoặc bằng sợi mây, và được đan rời. Cũng có khi đồng bào dùng luôn một sợi vỏ cây hoặc một dây mây tròn làm quai gùi.

Sinh sống trong điều kiện địa hình rừng núi, không thể gánh gồng, đội, thì gùi là phương thức vận chuyển phù hợp với cư dân Kon Tum. Đi trong rừng già, lối mòn rất nhỏ, với chiếc gùi đeo trên lưng, con dao trên tay tay rảnh rang, họ có thể vạch lá nâng cành trên lối đi, thậm chí có thể còn thu nhặt rau măng một cách thuận lợi. Với 2 quai gùi đeo trên 2 vai, gùi nằm phía sau lưng, chiếc gùi rất thuận tiện cho việc di dời, vận chuyển của đồng bào. Gùi theo họ lên rừng, đi rẫy, vận chuyển lúa bắp, rau măng; Ra suối lấy nước; Đi chợ, đi chơi, đi thăm hỏi người thân… gùi luôn là vật bất li thân đặc biệt đối với người phụ nữ, đã trở thành biểu trưng cho tính chịu thương chịu khó của người phụ nữ các dân tộc bản địa Kon Tum.  

Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, đời sống của đồng bào đã khác trước, nhiều người đã có xe đạp xe máy, nhưng chiếc gùi vẫn đang là phương tiện vận chuyển khó có thể thay thế của họ. Chiếc gùi đã, đang và sẽ còn gắn bó thân thiết với cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số Kon Tum.

Vũ Thị Mai

Bức tranh đan gùi đầy màu sắc ở làng Mrông Ngó 4, xã Ia Ka [huyện Chư Păh].

Đồng bàoTây Nguyênkhông biết gùi có tự bao giờ. Họ chỉ biết nó đã có từ rất lâu đời, được cha ông truyền lại cho những người đàn ông trong gia đình. Theo thời gian, nó gắn liền với phụ nữ DTTS ở nơi đây. Về các buôn làng ở Tây Nguyên, không khó để bắt gặp hình ảnh những cô sơn nữ hay những phụ nữ tóc đã nhuốm màu thời gian mang gùi trên vai đi khắp các nẻo đường đất đỏ bazan.

Chúng tôi tìm về xã Ia Ka, huyện Chư Păh [Gia Lai], một trong những xã lưu giữ được nghề đan gùi truyền thống của đồng bào DTTS. Tiếp chuyện chúng tôi là nghệ nhân Rơ Châm H’Mút, làng Mrông Yố 2, xã Ia Ka, ông H’Mút cho biết: Ở đây nghề đan gùi là của đàn ông, dệt vải là của phụ nữ. Thời xưa, con trai lớn lên muốn cưới vợ thì phải vượt qua thử thách của nhà vợ bằng cách đan được những chiếc gùi đẹp. Thanh niên ở làng, ai đan gùi càng đẹp thì càng được con gái trong làng để ý. Điều đó thể hiện trên đôi tay người đàn ông, khi họ biết đan gùi thì trên tay họ sẽ có nhiều vết chai sạn, đôi bàn tay càng nhiều vết chai thì càng được nhà vợ yêu quý.

Gùi của đồng bào DTTS có nhiều kích cỡ và tác dụng khác nhau. Loại dùng để đựng gạo, loại dùng để đựng đồ ăn, nước uống hằng ngày. Gùi chủ yếu được làm từ tre và có thêm 2 quai để đeo lên vai. Bằng đôi bàn tay khéo léo của mình, người đàn ông ở trong các làng dân tộc Gia Rai, Ba Na… đã làm ra nhiều chiếc gùi đẹp dành cho con gái, phụ nữ trong gia đình đeo lên nương, lên rẫy hoặc đi chợ. Ngoài ra, họ cũng đan thêm gùi để kiếm thêm thu nhập.

Nghệ nhân Ưu tú Ksor Ksôh, làng Mrông Ngó 4, xã Ia Ka chia sẻ: Để làm được một chiếc gùi, yêu cầu người đàn ông phải kiên trì, tỉ mỉ và khéo tay. Nguyên liệu làm gùi chủ yếu từ tre, nứa không được quá non hoặc không quá già. Công đoạn mất nhiều thời gian nhất là chẻ và vót thanh nan. Còn loại gùi khó đan nhất là gùi có hoa văn, bởi yêu cầu kỹ thuật và độ tinh tế cao. Hiện nay, các làng ở xã Ia Ka vẫn gìn giữ được nghề đan gùi truyền thống.

Nghề đan gùi được truyền lại cho thanh niên và đàn ông trong làng vì họ có đôi tay rắn chắc.

Chị Rơ Châm Bye, làng Mrông Ngó 4, xã Ia Ka cho biết: Từ ngày biết lao động là mình đã đeo gùi trên lưng. Đi lên rẫy, lên nương, đi lấy nước hay ra chợ mình đều mang theo nó. Gùi này là do cha và chồng mình đan. Nó bền lắm, đeo mấy năm nay rồi chưa bị hư hỏng. Ở đây phụ nữ không quen dùng làn nhựa đâu, ai cũng đeo gùi cả vì rất tiện lợi.

Ở làng Hăng Rinh, thị trấn Chư Sê [huyện Chư Sê], già làng Rơ Lan Hào, cũng là một trong những người đan và gìn giữ được nghề truyền thống. Nói về sự quan trọng của gùi trong đời sống của đồng bào DTTS, già làng Rơ Lan Hào cho biết: Đan gùi là nghề truyền thống của đồng bào DTTS ở Tây Nguyên. Gùi có mặt trên gác bếp, trên nương, trên rẫy, trên đôi vai của người phụ nữ trong làng. Trong những năm tháng chiến tranh, đồng bào cũng dùng gùi để tiếp tế lương thực cho bộ đội. Hiện nay, ở một số làng đồng bào DTTS đã mai một đi nghề đan gùi truyền thống, nhưng còn nhiều làng vẫn gìn giữ nghề bằng cách truyền lại cho các thế hệ sau.

Dù cuộc sống đang dần phát triển nhưng chiếc gùi trong đời sống tinh thần của đồng bào DTTS vẫn giữ nguyên được giá trị văn hóa. Đặc biệt, người phụ nữ DTTS khi đi chợ đều sử dụng gùi thay cho giỏ và làn nhựa không chỉ giữ gìn văn hóa mà còn góp phần giảm rác thải nhựa ra môi trường.

Gùi - một sản phẩm văn hoá đặc sắc, thân thiện với môi trường của đồng bào Jrai

Video liên quan

Chủ Đề