Chế độ quân điền là gì sử 10 năm 2024
- Lý Uyên dẹp tan được phe đối lập, đàn áp khởi nghĩa nông dân, lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Đường (618 - 907). Bản đồ Trung Quốc thời nhà Đường
- Phát triển tương đối toàn diện. - Nông nghiệp: Thực hiện chế độ quân điền. Nông dân nhận ruộng đất công và phải thực hiện nghĩa vụ với nhà nước theo chế độ tô, dung, điệu. Áp dụng những kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất như chọn giống, xác định thời vụ. Nhờ vậy, sản lượng tăng nhiều hơn trước. - Thủ công nghiệp: Xưởng thủ công (gọi là tác phường) luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc. - Thương nghiệp: hai “con đường tơ lụa" trên đất liền và trên biển cũng được thiết lập, mở rộng. Con đường tơ lụa Quảng cáo Mục b
- Bộ máy cai trị phong kiến hoàn chỉnh: cử người thân tín cai quản địa phương; cử người trong họ hay công thần giữ chức Tiết độ sứ, trấn ải biên cương mở khoa thi chọn người ra làm quan. \=> Chế độ phong kiến tạo điều kiện cho quý tộc, địa chủ được tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương đồng thời nâng cao quyền lực tuyệt đối của hoàng đế. - Các hoàng đế nhà Đường tiếp tục chính sách xâm lược mở rộng lãnh thổ: lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam (lãnh thổ Việt Nam hồi đó), ép Tây Tạng phải thần phục. \=> Nhờ vậy, Trung Quốc dưới thời Đường trở thành một đế quốc phong kiến phát triển nhất. Mục c
- Mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân sống trong cảnh cùng cực do tô thuế quá nặng nề, sưu dịch liên miên. Nạn đói thường xuyên diễn ra. - Nông dân lại nổi dậy chống chính quyền, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Hoàng Sào lãnh đạo nổ ra vào năm 874. - Nhà Đường bị lật đổ, Trung Quốc rơi vào thời kì Ngũ đại - Thập quốc nhưng Triệu Khuông Dẫn lại tiêu diệt được các thế lực phong kiến khác, lập ra nhà Tống vào năm 960. Sau đó, miền Bắc Tống lại bị nước Kim đánh chiếm. Đến cuối thế kỉ XIII, cả hai nước Kim và Nam Tống lần lượt bị Mông Cổ tiêu diệt. Sách bộ đề minh họa môn toán ôn thi THPT quốc gia bản 2024 Moonbook, luyện đề thi đại học toán lớp 12 200.000đ 159.000đ Bộ đề minh họa 2024 môn Tiếng Anh cô Trang Anh, Sách ID luyện đề thi trắc nghiệm thpt quốc gia moonbook Stock Trading Strategy 3-Book Bundle – Stock Market Investing for Beginners + Day Trading for Beginners + Penny Stocks + Bonus Content Trading Psychology of Millionaire Investors ( PDFDrive )
Preview text2. Tình hình kinh tế- xã hội 2. Tình hình kinh tế và chế độ ruộng đất. a. Chế độ ruộng đất thời phong kiến Trong thời cổ đại, ruộng đất chủ yếu là thuộc quyền sở hữu công. Đến thời Xuân Thu- Chiến Quốc, chế độ ruộng đất công bị suy yếu, ruộng đất tư ra đời và ngày càng phát triển. Hiện tượng mua bán ruộng đất nảy sinh. Lúc này cả hai hình thức sở hữu đó cùng song song tồn tại. Đến thời kỳ phong kiến vẫn tiếp tục duy trì hai hình thức sở hữu đó: ruộng đất công của nhà nước và ruộng đất tư của các địa chủ phong kiến, nông dân tự canh. Đây là đặc trưng nổi bật của chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến Trung Quốc. _ Ruộng đất công của nhà nước_*
thuế, lao dịch cho nhà nước. Mặc dù vậy, chế độ quân điền không được thiu hành triệt để ở các triều đại. Đến cuối thời Đường, chế độ quân điền suy yếu. Địa chủ, quan lại ra sức chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, biến ruộng đất công nhà nước thành ruộng đất tư. Sau loạn An Sử, nhà Đường suy yếu trầm trọng, do đó chế độ quân điền cũng bị phá sản. Năm 780, nhà Đường phải thay đổi chế độ thuế khóa, căn cứ vào số ruộng đất và tài sản thực tế để thu thuế chứ không thu quân bình như trước. Bỏ chế độ Tô-Dung-Điệu, thay bằng chế độ “Nhị kỳ” Từ thời Tống trở đi, chế độ ruộng đất công tuy vẫn còn nhưng ngày càng bị thu hẹp dàn, nhà nước chỉ còn đất ban cấp cho quan lại, quý tộc để lập nên các trang viên mà không có chính sách gì mới về ruộng đất công. Ý nghĩa - Chế độ quân điền một mặt đã làm cho những nông dân không có hoặc có ít ruộng đất, những người đi lưu tán trở về quê hương được cấp ruộng đất, do đó, họ đã trở thành nông dân cày cấy ruộng đất công, thoát khỏi sự lệ thuộc vào địa chủ. - Một mặt khác, do việc giao ruộng đất cho nông dân nên toàn bộ ruộng đất bị bỏ hoang vì chiến tranh đều được canh tác trở lại, do đó, nông nghiệp được phát triển, nhà nước và nông dân dều có lợi. _ Ruộng đất của tư nhân_* - Hình thức ruộng đất tư xuất hiện vào cuối thời Đông Chu do hiện tượng mua bán và chuyển nhượng ruộng đất làm cho chế độ Tỉnh điền bị phá sản. Bọn quý tộc ra sức chiếm ruộng đất công của nhà nước. Đến cuối thời Tần- Hán, ruộng đất trong nhà nước phần lớn đều tập trung trong tay địa chủ do chế độ ban cấp và chiếm đoạt của nông dân. Từ thời Đường trở về sau, ruộng đất nhà nước ban cấp cho quan lại ngày càng rộng rãi hơn. Bọn địa chủ cũng chiếm đoạt nhiều ruộng đất của nông dân nên ruộng đất tư ngày càng phát triển. Đến đời Nguyên, ruộng đất của Trung Quốc bị bọn địa chủ người Mông Cổ chiếm đoạt. Đời Minh- Thanh, chế độ ruộng đất tư càng phát triển mạnh mẽ và phổ biến trong xã hội Trung Quốc. nước sẽ bị suy yếu. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự hưng vong của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Các triều đại mới thiết lập luôn thực hiện chính sách cải cách chế độ ruộng đất công. Hạn chế ruộng đất của địa chủ, ban cấp đất cho nông dân. Nhưng đến cuối triều đại, chính sách đó lại bị phá hủy. Ruộng đất tư lại phát triển, ruộng đất công lại bị thu hẹp, nhà nước lại rơi vào khủng hoảng suy vong. 2. Giai cấp và quan hệ giai cấp 2.2.1ết cấu giai cấp a. Giai cấp địa chủ phong kiến Chia thành 2 tầng lớp chủ yếu là: địa chủ quan lại và địa chủ bình dân. ***** Địa chủ quan lại
có nhiều ruộng đất, nô dịch nhiều nông dân nhưng không giữ vai trò quan trọng trong xã hội. * Một số đặc điểm của giai cấp địa chủ phong kiến Trung Quốc: - Giai cấp địa chủ phong kiến trong suốt chiều dài lịch sử không ngừng lớn mạnh và có nhiều chuyển biến tùy thuộc vào từng thời kì lịch sử. Họ sử dụng mọi công cụ bạo lực – tư tưởng để duy trì địa vị thống trị: Chế độ tông pháp kết hợp với sự thù địch về chủng tộc, dân tộc, đẳng cấp...; Kết hợp với các biện pháp: Pháp gia – Nho gia. Xem dân tộc mình là trung tâm, các dân tộc khác là man di mọi rợ, gây mất đoàn kết để dễ bề thống trị. - Sử dụng học thuyết Nho gia làm hệ tư tưởng chính thống: tạo ra một hệ thống xã hội mang tính đẳng cấp rõ rệt. Học thuyết Nho gia được bổ sung để phù hợp với yêu cầu cai trị qua mỗi thời kì lịch sử. - Sử dụng mọi hình thức bóc lột tàn bạo giai cấp nông dân: Tô thuế, lao dịch, binh dịch... làm cho mâu thuẫn xã hội gay gắt. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân. - Trong nội bộ giai cấp thống trị luôn tồn tại những mâu thuẫn không thể dung hòa. Điều đó làm cho tình hình xã hội luôn trong tình trạng bất ổn cả trong nội bộ giai cấp thống trị và giữa giai cấp thống trị với quần chúng nhân dân. - Luôn phô trương thanh thế, gây chiến với bên ngoài với tư tưởng bành trướng, “thiên triều thượng quốc”. Nhưng khi đất nước bị ngoại xâm thì họ lại tỏ ra yếu ớt và dẫn đến hậu quả là Trung Quốc không ít lần rơi vào ách thống trị của ngoại bang. b. Giai cấp nông dân Trong xã hội phong kiến trung quốc, giai cấp nông dân phân hoá thành 2 loại: nông dân tự canh và nông dân lĩnh canh. * Nông dân tự canh - Nông dân tự canh là những người cày cấy ruộng đất của mình hoặc của nhà nước cấp cho theo chính sách quân điền. Họ có nghĩa vụ phải nộp thuế thường là bằng 1/10 thu hoạch, đồng thời họ phải làm nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước. Về địa vị chính trị, họ được coi là dân tự do, nếu có điều kiện học hành và thi cử đỗ đạt thì có thể trở thành quan lại.
Tóm lại, thời trung đại, cơ cấu giai cấp ở Trung Quốc tương đối phức tạp. Hơn nữa, đối với từng cá nhân, thân phận giai cấp, đẳng cấp không cố định, có thể thay đổi, nhưng các giai cấp, tầng lớp nói trên thì tồn tại lâu dài trong lịch sử. 2.2. Quan hệ giai cấp ở Trung Quốc thời trung đại a. Quan hệ bóc lột Quan hệ bóc lột trong xã hội phong kiến TQ là quan hệ giữa địa chủ với nông dân; hình thức bóc lột là bóc lột tô thuế. Chính sách bóc lột tô thuế có thể có sự thay đổi tùy vào từng triều đại. Tuy nhiên điểm chung của chính sách bóc lột được thể hiện:
phương cầu thực, đặc biệt là do vụ loạn An Sử (755 – 763) đã gây nên sự xáo trộn lớn về nhân khẩu, nên chế độ quân điền bị phá hoại dần dần. Do vây, năm 780, nhà Đường phải đặt ra một chính sách thuế khoá mới gọi là phép thuế hai kì. Chính sách thuế mới này quy định: nhà nước chỉ căn cứ theo số ruộng đất và tài sản thực có để đánh thuế, đồng thời thuế được thu làm hai lần vào hai vụ thu hoạch trong năm. Bỏ tô dung điệu, chỉ căn cứ theo tài sản thực có để đánh thuế, điều đó chứng tỏ rằng, đến đây nhà nước đã công khai thừa nhận chế độ quân điền không tồn tại nữa. Từ đó cho đến cuối thời trung đại, bộ phận ruộng đất của nhà nước vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng nhìn chung ngày càng thu hẹp. Với số ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí, các triều đại từ Tống về sau chỉ đem ban cấp cho quan lại, lập đồn điền, điền trang gọi là hoàng trang, quan trang, tỉnh trang... mà thôi chứ không có chính sách gì mới. |