Cảnh sông Bạch Đằng được miêu tả như thế nào

Có rất nhiều tác phẩm viết về thiên nhiên, sông nước, mây trời đẹp đẽ, nhưng ít bài thơ nào đặc sắc như Phú Sông Bạch Đằng. Bài thơ viết về tình yêu thiên nhiên, khung cảnh núi sông của tác giả với đất nước. Trương Hán Siêu đã bày tỏ lòng tự hào, cảm mến trước thiên nhiên hùng vĩ, xinh đẹp. Tác giả thân thương trước khung cảnh sông Bạch Đằng kéo dài, thật thơ mộng, hữu tình, của Việt Nam ta. Cùng phân tích bài phú sông Bạch Đằngđể thấy được tình yêu của tác giả dành cho quê hương, khung cảnh nơi ông chiêm ngưỡng như thế nào. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được những giá trị thực mà ông đã gửi gắm quá lời thơ mộc mạc mà đầy ý nghĩa sâu sắc.

Phân tích chi tiết bài Phú Sông Bạch Đằng

Khi tình hình đất nước đang bị bỏ bê, quan chức triều đình không lo đến việc chính sự. Thời điểm bấy giờ, vua thời Trần lơ làng việc nước, chỉ ham vui chơi xa đọa, việc dân không ai lo tới. Chứng kiến những điều bất thường trên, Trương Hán Siêu thật thất vọng, và quyết định ngao du 4 phương, bỏ sự đời.

Sông Bạch Đằng rộng bao la, hùng vĩ và đẹp đẽ

Thông qua việcPhân tích bài Phú Sông Bạch Đằng , ta càng thêm trân trọng, giữ gìn đất nước, thiên nhiên nơi đây. Bài thơ Phú Sông Bạch đằng được viết trong hoàn cảnh tác giả đang du ngoạn trên sông, đây cũng là chứng nhân lịch sử cho cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của nhà Trần. Chính dòng sông Bạch Đằng đã chứng kiến biết bao khó khăn, đổ máu của người dân Đại Việt ta. Tác giả tự hào về những thành tích, tình đoàn kết của dân tộc, và viết nên bài Phú Sông Bạch Đằng.

“Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.”

Trương Hán Siêu miêu tả sông Bạch Đằng như một người anh hùng, mang vẻ đẹp vô cùng tinh tế. Tác giả là một nhà thơ, biết thưởng thức cái đẹp bình dị, lôi cuốn, hấp dẫn bởi thiên nhiên. Giữa sự mênh mông của dòng sông Bạch Đằng, tác giả nhớ đến chuyện cũ, khi “Giương buồm giong gió chơi vơi”. Cuộc sống của khách thời đó chỉ biết hưởng thụ “Lướt bể chơi trăng mải miết”, không quan tâm đến chuyện đời. Cuộc sống chỉ lặp đi lặp lại nhưng không hề nhàm chán “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương”.

Các địa danh của Trung Quốc được tác giả nhắc đến như địa điểm du lịch mà họ từng đi qua. Đây đều là những người thích du ngoạn, phiêu lưu, khám phá thế giới. Những địa danh kể đến rất quen thuộc, nhất định người mê thiên nhiên phải đặt chân tới. Không chỉ thiên nhiên, Trương Hán Siêu còn tỏ lòng yêu nước tha thiết, luôn hãnh diện những gì mà đất nước đang có.

“Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Qua cửa Đại Than,

Ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng,

Thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc,

Phong cảnh ba thu.

Bờ lau san sát,

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy,

Gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”

Tác giả là một người yêu thiên nhiên

Chỉ khiPhân tích bài Phú Sông Bạch Đằngchúng ta mới cảm nhận hết nét đẹp huyền bí của con sông này. Sông Bạch Đằng qua cây bút của Trương Hán Siêu hiện lên đẹp như một bức tranh. Tác giả kể đến chi tiết quãng đường di chuyển đến sông Bạch Đằng là “Qua cửa Đại Than”, “Ngược bến Đông Triều” là đến nơi. Đại Than và Đông Triều thuộc địa phận Quảng Ninh hiện nay. Khi chèo thuyền trên sông, chỉ nên đi xuôi dòng nước để được dòng nước đẩy, từ từ tản ngộ khung cảnh nơi đây. Dọc bờ sông, từng ngọn sóng kình gợn vô số, nối tiếp nhau chưa bao giờ ngừng nghỉ. Dưới khung cảnh trời trong xanh, chiếu xuống dòng sông thêm sinh động, rực rỡ.

“Bên sông bô lão hỏi,

Hỏi ý ta sở cầu.

Có kẻ gậy lê chống trước,

Có người thuyền nhẹ bơi sau.

Vái ta mà thưa rằng:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”

Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Tái tạo công lao,

Nghìn xưa ca ngợi.”

Đoạn tiếp theo tác giả hồi tưởng về thời điểm nhân dân ta chống giặc oai hùng. Ông miêu tả chi tiết một cách chân thực, biết bao thuyền bè chiến đấu trên sông. Trên mỗi buồm thuyền, đều được gắn lá cờ tổ quốc Đại Việt oai hùng, bay phấp phới. Chiến sĩ chúng ta với tinh thần mạnh mẽ “Hùng hổ sáu quân”, “giáo gươm sáng chói”. Trương Hán Siêu dùng tiếng cảm thán nhấn mạnh điều mà ông sắp nói ra, “kìa”, chế nhạo bọn giặc ác độc. Đặc biệt là hai nhân vật “Tất Liệt thế cường”, “Lưu Cung chước dối” vô cùng thông minh, mạnh mẽ áp đặt cả thiên nhiên.

“Tuy nhiên:

Từ có vũ trụ,

Đã có giang san.

Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!

Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.

Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi,

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sông chừ ủ mặt,

Nhớ người xưa chừ lệ chan.

Rồi vừa đi vừa ca rằng:

“Sông Đằng một dải dài ghê,

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”

Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Đoạn cuối, tác giả thốt lên “Từ có vũ trụ”, “Đã có giang san” đất nước Đại Việt được độc lập. “Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng” dòng sông này trở nên oai hùng, mãnh liệt và cũng rất đẹp đẽ. Từ đó, “tiếng thơm còn mãi”, kéo dài đến tận mãi mai sau. Hình ảnh sông Bạch Đằng thật nguy nga, tráng lệ, đẹp nhất trong mắt người thi sĩ. Tác giả cất lên, cho dù có hiểm hóc, khó khăn, chỉ cần dòng lòng, lương thiện, đoàn kết nhất định sẽ chiếm ưu thế.

Từ những lời thơ đơn giản, tác giả như muốn gửi gắm nhiều thông điệp để mọi người cùng suy ngẫm. Lòng yêu nước, sự tự hào về dân tộc chính là điều mà Trương Hán Siêu muốn gửi gắm.

Kết bài

Phân tích bài Phú Sông Bạch Đằngđể thấm ngẫm lòng yêu nước, tự hào về dân tộc của tác giả. Chính vì những chiến công hiển hách, ý chí đấu tranh đến cùng, không sợ giặc mạnh của dân Đại Việt. Tác giả ca ngợi nhân dân ta với tinh thần oanh liệt, được chứng nhân với dòng sông Bạch Đằng hùng vĩ. Qua tác phẩm, chúng ta thêm hiểu rằng, chính nghĩa luôn thắng hung tàn, bọn cướp nước rồi cũng sẽ thất bại.

Cùng đón đọc những bài phân tích hay khác tại website của chúng tôi mỗi ngày quý vị nhé! Chúng tôi liên tục cập nhật những bài phân tích hay, ý nghĩa để đọc giả, các em học sinh thân mến có thêm nhiều kiến thức phân tích hay để nắm rõ.

Soạn bài Phú trên sông Bạch Đằng trang 3 SGK Ngữ văn 10. Câu 4. Vai trò của hình tượng các bô lão trong bài phú? Chiến tích trên sông Bạch Đằng đã được gợi lên như thế nào qua lời kể của các bô lão? Thái độ, giọng điệu của họ khi kể chuyện?

Câu 1

Câu 1[trang 7 SGK Ngữ văn 10 tập 2]

Đọc tiểu dẫn để nắm được bố cục bài phú, vị trí của chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử và đề tài sông Bạch Đằng trong văn học. Đọc kỹ các chú thích để hiểu được các từ khó, các điển tích, điển cố.

Lời giải chi tiết:

- Sông Bạch Đằng là một nhánh của sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng. Nơi đây, Ngô Quyền đã đánh tan quân xâm lược Nam Hán, bắt sống Hoằng Tháo, năm 1288 nhà Trần tiêu diệt giặc Mông Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi.

- Sông Bạch Đằng là nguồn cảm hứng bất tận cho các tác giả viết nên những áng văn thơ tuyệt tác như Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông;

- Bạch Đằng giang của Nguyễn Sưởng, Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi, Hậu Bạch Đằng giang phú của Nguyễn Mộng Tuân...

- Bố cục mỗi bài phú thường có bốn đoạn: mở đầu, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết. Bố cục bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu cũng giống bố cục của một bài phú nói chung:

+ Đoạn 1. “Khách có kẻ... luống còn lưu”: Giới thiệu nhân vật khách và tráng trí của ông, cảm xúc

+ Đoạn 2. “Bên sông các bô lão... chừ lệ chan”: Cuộc gặp gỡ bên sông và câu chuyện của các bô lão

+ Đoạn 3. “Rồi vừa đi... lưu danh”: Lời bình luận của các bô lão

+ Đoạn 4. Còn lại: Lời kết, bình luận của nhân vật khách.

- Đọc kỹ chú thích để hiểu nghĩa của những từ khó, các điển tích, điển cố như: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Đầm Vân Mộng, Tử Trường, Hợp Phì, Xích Bích...

Câu 2

Câu 2 [trang 7 SGK Ngữ văn 10 tập 2]

Mở đầu bài phú, nổi bật lên là hình tượng nhân vật "khách". Anh [chị] hãy tìm hiểu:

- Mục đích dạo chơi thiên nhiên, chiến địa của "khách"?

- "Khách" là người có tráng chí [chí lớn], có tâm hồn như thế nào qua việc nhắc đến những địa danh lịch sử của Trung Quốc và miêu tả những địa danh lịch sử của đất Việt?

Lời giải chi tiết:

- Nhân vật khách có thể là chính tác giả. Ông là một nhà Nho, một viên tướng của triều đình, một nhà thơ. Tuy tuổi đã già nhưng “tráng trí vẫn còn tha thiết” nên ông đã học người xưa đi khắp nơi thưởng ngoạn phong cảnh, mở rộng hiểu biết, di dưỡng tinh thần, sống cuộc đời tự to tự tại. Qua phân tích các hình ảnh liệt kê về không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn và ngữ điệu trang trọng qua các từ “chừ" nhấn mạnh ngắt nhịp trong các câu từ “Giương buồm giong gió chơi vơi” đến “Tam Ngô, Bách Việt”, ta có thể nhận xét về nhân vật khách:

- Khách” là người mang tính chất tráng sĩ phóng khoáng, mạnh mẽ, đồng thời cũng là một “tao nhân mặc khách” ham thích du ngoạn, đi nhiều, biết rộng, làm bạn với gió trăng, qua nhiều miền sông bể.

- “Khách” tìm đến những địa danh lịch sử [đặc biệt là Bạch Đằng] để ngợi ca và suy ngẫm.

- Nhân vật “khách” tuy có tính chất công thức của thể phú song với ngòi bút tài hoa, Trương Hán Siêu đã thổi hồn vào thành một nhân vật sinh động. “Khách" chính là cái tôi tác giả - một con người mang tính cách tráng sĩ với tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng ưu ái đối với lịch sử đất nước.

- Cái tráng chí bốn phương của nhân vật “khách” [cũng là của tác giả] được gợi lên qua những địa danh, “khách” đã “đi qua” hai loại địa danh, loại địa danh lấy trong điển cố Trung Quốc [Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt...] và loại địa danh của Đất Việt [cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng...]. Loại địa danh thứ hai thể hiện tráng chí bốn phương, loại địa danh thứ hai mang tính cụ thể, đương đại, thể hiện tình yêu đất nước, tâm hồn ưu ái đối với cảnh trí non sông.

Câu 3

Câu 3 [trang 7 SGK Ngữ văn 10 tập 2]

Cảm xúc của “khách” trước khung cnh thiên nhiên sông Bạch Đằng: Phấn khởi, tự hào? Buồn thương, nuối tiếc vì những giá trị đang lùi vào quá khứ? Lý giải cách lựa chọn của anh [chị]. [Lưu ý đặc điểm hình ảnh thiên nhiên và giọng văn trong đoạn " Qua cửa Đại Than... dấu vết luống còn lưu".]

Lời giải chi tiết:

Cảm xúc của “khách”:

- Khách vừa có cảm giác vui, buồn, vừa tự hào, nuối tiếc → Có tráng chí bốn phương, yêu nước, tự hào

+ Vui trước cảnh hùng vĩ, thơ mộng núi sông, tự hào vì dòng sông ghi nhiều chiến công hiển hách

+ Khách buồn, nuối tiếc: dấu tích oanh liệt ngày xưa trở nên trơ trọi, hoang vu. Dòng thời gian làm lãng quên đi những giá trị lịch sử

- Đoạn thơ chủ yếu ngắt nhịp chẵn, thể hiện điệu nhịp nhàng, trầm lắng, khơi gợi nhiều nỗi suy tư

Câu 4

Câu 4 [trang 7 SGK Ngữ văn 10 tập 2]

Vai trò của hình tượng các bô lão trong bài phú? Chiến tích trên sông Bạch Đằng đã được gợi lên như thế nào qua lời kể của các bô lão? Thái độ, giọng điệu của họ khi kể chuyện?

Qua lời bình luận của các bô lão [đoạn "Tuy nhiên: Từ có vũ trụ... Nhớ người xưa chừ lệ chan"], trong các yếu tố: địa thế sông núi, con người, theo anh [chị], yếu tố nào giữ vai trò quan trọng nhất làm nên chiến thắng Bạch Đằng?

Lời giải chi tiết:

- Nếu ở đoạn 1, nhân vật “khách” là cái tôi của nhà văn thì đến đoạn 2 nhân vật các bô lão là hình ảnh của tập thể vừa đại diện cho nhân vật địa phương, vừa là chứng nhân của lịch sử đồng thời cũng có sự phân thân của tác giả. Nhà văn tạo ra nhân vật các bô lão nhằm tạo nên những nhân vật chính có tính lịch đại để có được sự đối lập tự nhiên, từ đó dựng lên những trận thuỷ chiến Bạch Đằng [qua lời kể của các bô lão]

- Các bô lão kể chuyện xưa với ngôn từ sống động, lời lẽ trang trọng gợi nên cảm hứng lịch sử với âm điệu hào hùng. Những kỳ tích trên sông được tái hiện qua cách liệt kê sự kiện trùng điệp, các hình ảnh đối nhau bừng bừng không khí chiến trận với thế giằng co quyết liệt. Đây là chiến trận từ thời Ngô Quyền đến Trần Hưng Đạo nhưng trọng tâm là chiến thắng “buổi trùng hưng”... với trận thuỷ chiến ác liệt, dòng sông nổi sóng “Muôn đội thuyền bè tinh kỳ phấp phới”, khí thế “hùng hổ”, “sáng chói”, khói lửa mù trời, tiếng gươm khuya, tiếng quân reo khiến “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Trận đánh “kinh thiên động địa” được tái hiện bằng những nét vẽ khoa trương thần tình. Âm thanh, màu sắc, trực cảm, tưởng tượng được tác giả vận dụng phối hợp góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi của dân tộc.

- Những hình ảnh điển tích được sử dụng một cách chọn lọc, phù hợp với sự thật lịch sử [Xích Bích, Hợp Phì, gieo roi,...] Điều đó đã góp phán diễn tả tài đức của vua, tôi nhà Trần và chiến thắng Bạch Đằng như một bài thơ tự sự đậm chất hùng ca.

- Kết thúc đoạn 1, tác giả viết “Đến sông đây chừ hổ mặt/Nhớ người chừ lệ chan”. Đây vẫn là lời các bô lão nhưng nghe trong đó có giọng: u “khách” [Tác giả]. Niềm cảm hoài của các bô lão gặp niềm sững sờ buồn - tiếc của khách tạo nên sự cộng hưởng của cái tôi tác giả.

Câu 5

Câu 5 [trang 7 SGK Ngữ văn 10 tập 2]

Li ca của các vị bô lão và lời ca ni tiếp của "khách" nhằm khẳng định điều gì?

Lời giải chi tiết:

- Đoạn 3 của bài phú chứa nhiều suy ngẫm, có tính triết lý

+ Lời ca của các bô lão mang âm hưởng của dòng sông sử thi, dòng sông cuộc đời, tất cả cứ tha thiết chảy qua đêm. Một chân lý vĩnh cửu cũng chảy mãi như dòng sông: bất nghĩa thì tiêu vong, anh hùng thì lưu danh thiên cổ.

+ Lời nối tiếp của "khách" có ý nghĩa tổng kết, vừa ca ngợi công đức hai vị vua anh minh, vừa bày tỏ khát vọng hoà bình muôn thuở, yếu tố được nhấn mạnh, nêu cao là “Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Đó là tư tưởng nhân văn hết sức cao đẹp của dân tộc ta.

Câu 6

Câu 6 [trang 7 SGK Ngữ văn 10 tập 2]

Phát biểu v giá trị nội dung và nghệ thuật của bài phú.

Lời giải chi tiết:

- Giá trị nội dung: Bài Phú sông Bạch Đằng thông qua việc tái hiện lại không khí chiến thắng hùng tráng của những trận đánh trên sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, đồng thời cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc tác giả đề cao vai trò, vị trí con người.

- Giá trị nghệ thuật: Bài phú sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích có chọn lọc, kết hợp trữ tình là sự sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” và nhân vật “các bô lão”, một nhân vật đại diện cho hiện tại và một nhân vật là chứng nhân lịch sử, đồng thời trong mỗi nhân vật đều có sự phân thân của cái tôi tác giả, một cái tôi tráng sĩ có tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng ưu ái đối với lịch sử, với đất nước.

=> Bài Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong nền văn học Việt Nam thời trung đại.

Video liên quan

Chủ Đề