Bộ luật thành văn được ban hành dưới thời trần năm 2024

Câu 1

- Vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị, một số quan lại, hoàng tử, công chúa được phong đất và một số dân thường có nhiều ruộng trở thành địa chủ. - Thành phần chủ yếu trong xã hội là nông dân — lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, gắn bó với làng, xã ; họ phải làm các nghĩa vụ cho nhà nước và nộp tô cho địa chủ ; một số đi khai hoang lập nghiệp ờ nơi khác. - Những người làm nghề thủ công sống rải rác ở các làng xã phải nộp thuế và làm nghĩa vụ với nhà vua. - Nô tì phục vụ trong cung điện, các nhà quan.

Câu 2

* Giáo dục và văn hoá - Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long. Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Nhà nước quan tâm đến giáo dục, khoa cử. Năm 1076, mở Quốc tử giám - trường đại học đầu tiên của nước ta. Chế độ thi cử chưa đi vào nền nếp và quy củ. Việc xây dựng Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt. - Văn học chữ Hán bước đầu phát triển. -Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc chuông... - Hoạt động ca hát. nhảy múa, trò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc... đều phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng thời Lý. - Kiến trúc rất phát triển, tiêu biểu là tháp Báo Thiên, chùa Một Cột... - Nghệ thuật tinh xảo, thanh thoát, tiêu biểu là rồng thời Lý... Những thành tựu về văn hoá, nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc — Vân hoá Thăng Long.

Câu 4 — Quân đội thời Lý bao gồm quân bộ và quân thuỷ, có kỉ luật nghiêm minh, được huấn luyện chu đáo. + Vũ khí có giáo mác, dao, kiếm, cung, nỏ, máy bắn đá. + Trong quân đội còn chia làm hai loại : cấm quân và quân địa phương. + Thực hiện chính sách ”ngụ binh ư nông”. - Quân đội được tổ chức quy củ, chặt chẽ. - Nhà Lý thực hiện nhiều chính sách để củng cố và phát triển quân đội Câu 6 Thực hiện chủ trương "tránh thế giặc mạnh khi chúng kéo đến" -Cho quân rút lui để bảo toàn lực lượng -Thực hiện "vườn không nhà trống" -Sơ tán nhân dân khỏi kinh thành để dồn giặc vào thế bị động -Phản công khi giặc suNhà Trần đã chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống quân Mông Cổ. -Ban hành lệnh sắm sửa vũ khí. -Thành lập đội dân binh. -Ngày đêm tập luyện võ nghệ. Câu 7 * Nguyên nhân thắng lợi - Tất cả các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vô quê hương, đất nước, tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó các quý tộc, vương hầu là hạt nhân. - Sự chuẩn bị-chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến. Đặc biệt nhà Trần rất chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó giữa triều đình và nhân dân. - Tinh thần hi sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân, mà nòng cốt là quân đội. - Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của Vương triều Trần, đặc biệt của vua Trần Nhân Tông, các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi.

Câu 8 Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha. Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để [gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận], chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.

LSVNO - “San định Luật lệ cho thích dụng với thời thế” biến thành điều khoản, làm thành chính sách hình thư của một triều đại để cho mọi người dễ hiểu mà về cơ bản không khác gì với ngôn ngữ ngày na...

LSVNO - “San định Luật lệ cho thích dụng với thời thế” biến thành điều khoản, làm thành chính sách hình thư của một triều đại để cho mọi người dễ hiểu mà về cơ bản không khác gì với ngôn ngữ ngày nay thường dùng là pháp điển hóa, hệ thống hóa pháp luật, đã ra đời ở nước ta cách đây 1000 năm dưới triều đại Vua Lý Thái Tông [1000-1054] với Hình thư – Bộ luật thành văn đầu tiên ở nước ta.

Quốc triều hình luật được xem một trong những thành tựu đặc sắc nhất của nền văn hóa pháp lý Việt Nam trong thời kỳ phong kiến.

Tiếp theo sau nhà Lý là các triều đại nhà Trần gần 200 năm [1226-1400] với Hình Luật thư do Vua Trần Dụ Tông đời vua thứ 7 ra chỉ dụ soạn thảo. Kế tiếp là nhà Lê với 300 năm, trong đó thời Lê Sơ 100 năm [1428-1527] được xem là thời kỳ toàn thịnh với sự ra đời Quốc triều hình Luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức gắn liền với tên tuổi của Vua Lê Thánh Tông [1470-1497]. Rồi đến nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử dân tộc về danh nghĩa kéo dài 150 năm [1802-1945] có Hoàng việt Luật lệ hay gọi là Bộ luật Gia Long.

Như vậy, trong thời kỳ phong kiến ở nước ta có 4 bộ luật thành văn, Hình thư của nhà Lý, Hình luật của nhà Trần, Quốc triều hình luật của nhà Lê và Hoàng việt Luật lệ của nhà Nguyễn. Mặc dù ở mỗi triều đại, việc thực thi Vương quyền trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau nhưng ở các triều đại này theo cách của mình đều đã tiến hành “San định Luật lệ cho thích dụng với thời thế” [hay nói như ngày nay là pháp điển hóa] để cho mọi người dễ hiểu “dân đều lấy làm tiện”.

Đánh giá nội dung cũng như kỹ thuật “San định Luật lệ” [của các Bộ luật thời kỳ phong kiến] là công việc không đơn giản. Bởi các bộ luật này ra đời trong những điều kiện chính trị xã hội khác nhau, nên tính chất, đặc trưng của chúng cũng khác nhau.

Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng tất cả các bộ luật trên đều là kết quả của một quá trình pháp điển hóa công phu và về mặt lập pháp đều đạt trình độ cao. Trong đó Quốc triều hình Luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức là công trình pháp điển hóa nổi tiếng nhất, mẫu mực nhất gắn liền với công lao của Vua Lê Thánh Tông; được người xưa cũng như thế giới đương đại đánh giá cao. Đây được xem là niềm tự hào về một trong những thành tựu đặc sắc nhất của nền văn hóa pháp lý Việt Nam trong thời kỳ phong kiến.

Phan Huy Chú [sinh năm 1782 vào những năm cuối triều Lê] với một tầm hiểu biết sâu rộng, uyên bác về mọi mặt đời sống xã hội đã viết nên Bộ Bách Khoa toàn thư đầu tiên ở Việt Nam: Lịch triều Hiến chương loại chí. Trong Bộ Bách Khoa thư đó đã đưa ra một nhận xét rất đáng tin cậy rằng: “Nước Việt ta các triều dựng nước đều định hình Chương: Nhà Lý có ban hành Hình thư, nhà Trần có định Hình luật đều đã tham chước xưa nay để nêu thành phép tắc lâu dài. Nhưng hình của nhà Lý thì lỗi ở khoan rộng; hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc, nhẹ nặng không đúng mức đều chưa gọi là phép nước được.

Đến khi nhà Lê dựng nghiệp mới sửa định lại. Hình luật đời Hồng Đức tham dụng các đời Tùy, Đường, xử lý có những điều nhất định, nặng nhẹ có những mức cao thấp, các đời tuân theo, dùng làm phép sẵn, dù các điều mục lặt vặt có thêm bớt, nhưng đại cương chế độ bao giờ cũng vẫn theo đó, thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân... hình pháp thì có 5 bậc, Luật văn thì có hơn 700 điều”.

Một ví dụ khác, ông vua đầu tiên của triều Nguyễn - Gia Long [cùng với thời Phan Huy Chú] với gần 20 năm trị vì ngôi vua đã ra lệnh đình thần biên soạn một bộ luật với chỉ lệnh “giờ xem hình Luật mà các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều đại thành lập từ Lý, Trần, Lê đều có pháp chế riêng cho mỗi triều đại mà đầy đủ hơn cả là Bộ luật Hồng Đức [đời Lê]...

Mỗi triều đại các sách về Luật đều có sửa đổi mà đầy đủ nhất là Luật triều đại Thanh. Thế nên, ta ra lệnh cho triều thần lấy luật lệ của các triều đại nước ta làm căn cứ, tham chiếu Luật Hồng Đức và Luật Thanh Triều, rút lấy, thêm bớt, cân nhắc, biên tập thành bộ luật tiện dụng”. Rõ ràng, Vua Gia Long không còn chỉ dụ chung chung mà chỉ đích danh Bộ luật Hồng Đức và xem là bộ luật đầy đủ nhất.

Nguyễn Văn Thành, Tổng tài nhóm biên soạn Hoàng Việt Luật lệ, trong Sớ tấu Gia Long về Dự án Luật này đã viết: “Nước ta trong các triều đại trị vì từ xưa đến nay thì triều đại nào cũng có đầy đủ pháp luật. Các bộ luật ấy vẫn tham chiếu trong Bộ luật Hồng Đức vì những điều luật trong Bộ luật ấy gọn rõ, văn lại giản lược, phân minh dễ hiểu”.

Như vậy, từ các tư liệu lịch sử, có thể khẳng định rằng Quốc triều hình luật là công trình pháp điển hóa đầy đủ nhất, mẫu mực nhất trong chế độ phong kiến Việt Nam mà các Bộ luật sau đó đã có sự tham chiếu kế thừa.

Chủ Đề