Bảng xếp hạng copa america 2023

x

Chờ kết quả:
BD COP   »  8785

Bảng xếp hạng:
BD BXH COP  »  8385

Lịch thi đấu :
BD LTD COP  »  8385

BẢNG XẾP HẠNG COPA AMERICA 2021

Tr: Trận, T: Thắng, H: Hòa, B: Bại, BT: Bàn thắng, BB: Bàn bại, HS: Hiệu số, Đ: Điểm.

THÔNG TIN GIẢI COPA AMERICA 2021

- Copa America là giải đấu bóng đá quốc tế giành cho các đội tuyển quốc gia thuộc khu vực nam mỹ [CONMEBOL]. Giải đấu được thành lập năm 1916 và tổ chứ 4 năm 1 lần. Khi mới thành lập giải đấu cso tên là South American Championship và đến năm 1975 giải đấu được đổi tên thành Copa America
- Giải đấu năm nay bao gồm 10 đội bóng chia thành 2 bảng, đá vòng tròn tính điểm và lấy 8 đội có thành tích tốt nhất vào tứ kết, 4 đội chiến thắng sẽ vào đá Bán Kết -> Chung Kết. Trường hợp có 2 hay nhiều đội bằng điểm thì tiêu chí để chọn đội đi tiếp như sau: Hiệu số bàn thắng bại, ghi được nhiều bàn thắng hơn…
- Giải đấu thường được diễn ra trong tháng 7.
- Danh sách các đội vô địch gần đây:
2001: Colombia
2004: Brazil
2007: Brazil
2011: Uruguay
2015: Chile
2016: Chile
2019: Brazil

Cúp bóng đá Nam Mỹ

Thành lậpKhu vựcSố độiĐội vô địch
hiện tạiĐội bóng
thành công nhất
Trang web
1916; 106 năm trước
Lục địa châu Mỹ [CONMEBOL]
12 hoặc 16
 
Argentina
[lần thứ 15]
 
Argentina

 
Uruguay
[cùng 15 lần]
Website chính thức
Cúp bóng đá Nam Mỹ 2021
Các giải đấu
  • 1916
  • 1917
  • 1919
  • 1920
  • 1921
  • 1922
  • 1923
  • 1924
  • 1925
  • 1926
  • 1927
  • 1929
  • 1935
  • 1937
  • 1939
  • 1941
  • 1942
  • 1945
  • 1946
  • 1947
  • 1949
  • 1953
  • 1955
  • 1956
  • 1957
  • 1959A
  • 1959E
  • 1963
  • 1967
  • 1975
  • 1979
  • 1983
  • 1987
  • 1989
  • 1991
  • 1993
  • 1995
  • 1997
  • 1999
  • 2001
  • 2004
  • 2007
  • 2011
  • 2015
  • 2016
  • 2019
  • 2021
  • 2024

Chiếc cúp kỷ niệm 100 năm ra đời của Copa América 2016.

Copa América [từ tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha, nghĩa đen "Cúp Châu Mỹ"] hay Cúp bóng đá Nam Mỹ trong tiếng Việt [trước năm 1975 có tên là Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ, tiếng Tây Ban Nha: Campeonato Sudamericano de Fútbol, tiếng Bồ Đào Nha: Campeonato Sul-Americana de Futebol] là giải bóng đá vô địch các đội tuyển quốc gia của lục địa Nam Mỹ do Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ [CONMEBOL] tổ chức. Đây là giải đấu cấp độ lục địa vì trong bóng đá, Nam Mỹ và Bắc Mỹ được quy ước là 2 lục địa riêng biệt. Cúp bóng đá Nam Mỹ là giải quốc tế lâu đời nhất trên thế giới, được tổ chức lần đầu vào năm 1916. Ngoài 10 thành viên của CONMEBOL, từ năm 1993, mỗi giải có thêm 2 đội tuyển từ các liên đoàn bóng đá khác [thường là CONCACAF] được mời tham dự. Do Nam Mỹ chỉ có 10 đội tuyển nên giải đấu này không có vòng loại. Argentina và Uruguay là hai đội đoạt chức vô địch nhiều lần nhất [cùng 15 lần]. Vì CONMEBOL là một trong sáu thành viên cấp châu lục của FIFA nên Copa América do CONMEBOL tổ chức tương đương với các giải cấp châu lục khác như Euro [UEFA], CAN [CAF], Asian Cup [AFC], Gold Cup [CONCACAF] và Nations Cup [OFC].

Kể từ năm 1993, giải đấu có sự góp mặt của 12 đội – 10 đội Nam Mỹ và 2 đội từ châu lục khác. Mexico đã tham gia đều đặn giải đấu kể từ năm 1993 tới năm 2016. Năm 1999, đội tuyển Nhật Bản là đội tuyển đầu tiên thuộc châu Á [AFC] được mời tham dự. Giải năm 2016 mang tên Copa América Centenario dành để kỷ niệm 100 năm giải đấu ra đời, cũng là lần đầu tiên giải được tổ chức bên ngoài Nam Mỹ, bao gồm 16 đội, với 6 đội mạnh nhất Bắc Mỹ [CONCACAF] và 10 đội từ Nam Mỹ [CONMEBOL]. Đây cũng được gọi [một cách không chính thức] là Giải bóng đá vô địch toàn châu Mỹ lần đầu tiên. Đến nay, chỉ có Mexico là khách mời đạt thành tích cao nhất khi giành ngôi á quân năm 2001.

8 trong số 10 đội tuyển quốc gia CONMEBOL đã vô địch ít nhất một lần trong 46 lần giải được tổ chức kể từ năm 1916, chỉ có Ecuador và Venezuela chưa vô địch. Argentina là nước đã tổ chức giải đấu nhiều lần nhất [9 kỳ]. Hoa Kỳ là quốc gia không thuộc Nam Mỹ duy nhất đã tổ chức sự kiện này vào năm 2016. Trong ba lần [năm 1975, 1979 và 1983], giải đấu được tổ chức ở nhiều quốc gia Nam Mỹ.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Đội bóng đá đầu tiên ở Nam Mỹ, Câu lạc bộ bóng đá và cricket Lima, được thành lập ở Peru vào năm 1859 và Hiệp hội bóng đá Argentina được thành lập vào năm 1893. Đến đầu thế kỷ 20, bóng đá ngày càng phổ biến và giải đấu quốc tế đầu tiên được tổ chức giữa các đội tuyển quốc gia của lục địa Nam Mỹ đã diễn ra vào năm 1910 khi Argentina tổ chức một sự kiện để kỷ niệm 100 năm của Cách mạng Tháng Năm[1]. Chile và Uruguay đã tham gia, nhưng sự kiện này không được CONMEBOL công nhận là giải đấu Copa America chính thức. Tương tự như vậy, để kỷ niệm 100 năm độc lập, Argentina đã tổ chức một giải đấu từ ngày 2 đến 17 tháng 7 năm 1916 gồm Argentina, Chile, Uruguay và Brasil là những ĐTQG tham gia đầu tiên của giải đấu. Tên gọi của giải khi đó là Campeonato Sudamericano de Football, cũng là phiên bản đầu tiên của Copa América hiện nay. Uruguay vô địch giải đầu tiên này sau khi thắng chủ nhà Argentina trong trận đấu quyết định được tổ chức tại Câu lạc bộ đua xe Estadio ở Avellaneda[2].

Nhận thấy sự thành công của giải đấu, một ủy viên của Hiệp hội bóng đá Uruguay, ông Héctor Rivadavia, đã đề xuất thành lập một liên minh các hiệp hội của Argentina, Brasil, Chile và Uruguay, và vào ngày 9 tháng 7, ngày độc lập ở Argentina, CONMEBOL đã được thành lập[3]. Năm 1917, giải tiếp tục được tổ chức, lần này là ở Uruguay. Uruguay đã tiếp tục vô địch sau khi đánh bại Argentina 1–0 trong trận chung kết của giải đấu. Thành công của giải đấu trên đất Uruguay khiến CONMEBOL vui mừng. Sau khi dịch cúm xảy ra ở Rio de Janeiro, CONMEBOL đã phải hủy bỏ giải đấu năm 1918. Brasil đã tổ chức giải đấu năm 1919 và lần đầu tiên họ lên ngôi vô địch sau khi đánh bại đương kim vô địch Uruguay 1–0 trong trận đấu quyết định. Sang giải đấu năm 1920, Uruguay đã đòi lại ngôi vương.

Ở giải đấu vào năm 1921, Paraguay đã tham gia lần đầu tiên sau khi LĐBĐ của họ gia nhập CONMEBOL. Argentina đã giành chức vô địch lần đầu tiên của họ ở giải đấu kỳ này nhờ các bàn thắng của Julio Libonatti. Trong những năm tiếp theo, Uruguay đã thống trị giải đấu, lúc đó, Copa America là giải bóng đá lớn nhất thế giới [khi Euro hay World Cup chưa ra đời]. Sau khi Argentina thua trận chung kết tại Thế vận hội Mùa hè 1928 được tổ chức ở Amsterdam [Hà Lan], Argentina đã rửa được mối hận ở giải Copa America 1929 bằng việc đánh bại Uruguay trong trận đấu cuối cùng. Trong giai đoạn này, Bolivia và Peru đã lần đầu tiên tham dự giải đấu năm 1926 và 1927.

Sự gián đoạn[sửa | sửa mã nguồn]

Argentina đã giành Cúp vô địch Nam Mỹ năm 1957 được tổ chức tại Peru. Sau kỳ World Cup đầu tiên được tổ chức tại Uruguay vào năm 1930, sự thù hằn giữa hai nền bóng đá Uruguay và Argentina đã khiến Copa America bị gián đoạn trong một số năm. Đến năm 1935, giải đấu mới có thể được phục hồi. Peru đã trở thành quốc gia đăng cai giải đấu vào năm 1939 và lần đầu tiên họ giành chức vô địch. Ecuador đã tham dự lần đầu tiên ở giải đấu năm đó.

Năm 1941, Chile đã tổ chức giải để kỷ niệm 400 năm thành lập thành phố Santiago, nơi sân vận động Estád Nacional mới được xây dựng đã được mở rộng từ 30.000 đến 70.000 khán giả. Bất chấp sự đầu tư lớn, Chile đã bị Argentina đánh bại trong trận chung kết. Uruguay đã tổ chức và giành chiến thắng giải đấu năm 1942. Chile cũng tổ chức giải một lần nữa vào năm 1945  và Argentina đã lại một lần nữa giành chiến thắng trên đất Chile.

Giai đoạn sau đó, giải đấu bước vào một thời kỳ bị gián đoạn. Giải đã không được công nhận là chính thức ở nhiều kỳ được tổ chức ở thời điểm đó và chỉ được CONMEBOL coi là hợp lệ sau này. Ví dụ, Argentina đã là đội đầu tiên [và duy nhất cho đến nay] giành được 3 chức vô địch liên tiếp vào các năm 1945, 1946 và 1947. Sau 3 giải đấu thường niên đó, giải đã được tổ chức 2 năm 1 lần, rồi 3 năm 1 lần và 4 năm 1 lần vào thời gian sau đó. Thậm chí giải đấu còn được tổ chức tới 2 lần vào năm 1959, một ở Argentina và một ở Ecuador.

Trong thời gian này, một số đội tuyển quốc gia đã thờ ơ với giải đấu. Một số không tham gia, một số thì gửi đội trẻ đến dự; giải đấu năm 1959 được tổ chức tại Ecuador, Brasil thậm chí đã gây sốc hơn khi gọi các cầu thủ từ một CLB đến từ bang Pernambuco vào ĐTQG để dự giải. Lần đầu tiên, Bolivia giành chức vô địch Copa America khi họ đăng cai vào năm 1963. Giải đấu năm 1967, Venezuela lần đầu tiên tham dự. Việc thành lập Copa Libertadores vào năm 1959 cũng ảnh hưởng đến số lượng khán giả tới xem.

Sau 8 năm vắng bóng không được tổ chức vì nhiều lý do, giải đã bắt đầu lại vào năm 1975 và chính thức được gọi tên là Copa América. Giải đấu không có địa điểm tổ chức cố định và tất cả các trận đấu được diễn ra trong suốt cả năm ở mỗi quốc gia. Cả 09 đội tuyển quốc gia tham gia vòng bảng, nhà đương kim vô địch Uruguay được đặc cách vào bán kết. Giải đấu được tổ chức 4 năm một lần cho đến năm 1987.

Sự thay đổi[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1986, CONMEBOL quyết định luân phiên một quốc gia thành viên đăng cai giải đấu theo bảng chữ cái ABC. Từ năm 1987 đến năm 2001, giải này được tổ chức 2 năm một lần. Thể thức giải với vòng bảng có 9 đội chia làm 3 bảng, đội đương kim vô địch được đặc cách vào bán kết. Sự đổi mới này đã giúp giải đấu bắt đầu nhận được sự phủ sóng truyền hình ở châu Âu và Bắc Mỹ. Copa América 1987 được tổ chức tại Argentina sau 28 năm. Mặc dù đã vô địch FIFA World Cup 1986, lại được chơi trên sân nhà và có huyền thoại Diego Maradona dẫn dắt, nhưng Argentina chỉ giành hạng tư đáng thất vọng sau khi bị đánh bại bởi đương kim vô địch Uruguay 0–1 trong trận bán kết. Uruguay đã đánh bại Chile trong trận chung kết để đăng quang ngôi vô địch, đáng chú ý Chile đã thắng sốc Brasil 4–0 ở vòng bảng.

Brasil đã có danh hiệu quốc tế chính thức đầu tiên kể từ FIFA World Cup 1970 khi họ giành được cúp vô địch Copa América năm 1989 được tổ chức trên sân nhà. Đến lượt mình, Argentina cũng vô địch Copa América sau 32 năm dài đằng đẵng chờ đợi vào năm 1991 tại Chile, nhờ một đội hình mạnh mẽ với tay săn bàn vĩ đại Gabriel Batistuta. Giải đấu Copa América năm 1993 tại Ecuador được nâng lên 12 đội với 10 đội Nam Mỹ và 2 đội đến từ Bắc Mỹ là Mexico và Hoa Kỳ.

Uruguay đã vô địch giải năm 1995 với tư cách là chủ nhà, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng của bóng đá Uruguay. Với việc thực hiện nước đăng cai luân phiên theo bảng chữ cái ABC, Colombia, Paraguay và Venezuela đã được tổ chức giải đấu lần đầu tiên. Brasil đã giành 4 chức vô địch trong 5 kỳ được tổ chức sau đó  từ năm 1997 đến năm 2007. Lần đầu tiên, là vào năm 1997, Brasil đã giành cúp sau khi đánh bại quốc gia chủ nhà Bolivia với 3 bàn thắng của Leonardo, Denílson và Ronaldo tại sân vận động ở Verde – nơi có sân vận động bóng đá cao nhất thế giới so với mực nước biển. Brasil đã bảo vệ thành công danh hiệu này vào năm 1999 sau khi đánh bại Uruguay 3–0 tại Asuncion, Paraguay. Tuy nhiên, Copa América năm 2001 đã chứng kiến một trong những bất ngờ lớn nhất của giải này khi Honduras [khách mời từ Bắc Mỹ] đã loại Brasil ở tứ kết. Colombia, quốc gia chủ nhà, đã lần đầu tiên giành cúp.

Từ năm 2001 đến 2007, giải đấu được tổ chức 3 năm một lần và từ năm 2007 trở đi quay lại với chu kì 4 năm 1 lần. Sau màn trình diễn đáng xấu hổ vào năm 2001, Brasil đã tái giành cúp ở giải vô địch Nam Mỹ năm 2004 được tổ chức tại Peru khi đánh bại Argentina trên chấm phạt đền sau khi hòa 2–2 trong 90 phút chính thức do công của Luisao và ngôi sao của giải – Adriano. Ba năm sau, hai đội gặp lại nhau trong trận chung kết, lần này là ở Venezuela. Một lần nữa, Brasil lại giành chiến thắng sau khi đè bẹp Argentina 3–0 với ngôi sao của giải – Júlio Baptista.

Argentina đã tổ chức giải năm 2011 và để thua dưới tay Uruguay ở tứ kết bằng loạt sút luân lưu. Uruguay đã đánh bại Peru 2–0 trong trận bán kết để lọt vào trận chung kết và hủy diệt Paraguay 3–0, qua đó giành được chiếc cúp trên đất Argentina lần thứ 3 và lần thứ 2 liên tiếp [khi được tổ chức ở Argentina – miền đất lành của Uruguay]. Đây là giải đấu lần thứ 43, là lần đầu tiên cả Argentina và Brasil không lọt vào bán kết của một giải đấu mà cả hai cùng tham gia. Giải đấu năm 2011 cũng ghi nhận một kỷ lục có một không hai trong lịch sử bóng đá của loài người khi Paraguay là ĐTQG không giành được bất kỳ một chiến thắng nào, một bàn thắng nào [toàn hòa 0–0 ở 3 trận vòng bảng, thắng luân lưu ở tứ kết và bán kết sau khi hòa Brasil và Venezuela 0–0] để đi tới trận chung kết của giải, nơi họ tiếp tục không ghi bàn nhưng thua Uruguay 0–3.

Copa America 2015 đã được tổ chức tại Chile, giải lần đầu tiên áp dụng công nghệ vạch vôi điện tử Goal-line. Giải đấu này lẽ ra sẽ được tổ chức ở Brasil bởi quy luật đăng cai luân phiên theo vần ABC, nhưng trong bối cảnh Brasil bận tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 và Thế vận hội mùa hè 2016, Chile đã thế chỗ, đổi lại Brasil thay Chile đăng cai giải vào năm 2019. Chile đã giành chức vô địch lần đầu tiên trong lịch sử sau khi đánh bại Argentina của Lionel Messi trên chấm luân lưu.

Năm 2016, để kỷ niệm 100 năm của giải, giải được gán tên Copa América Centenario và được tổ chức tại Hoa Kỳ. Giải đấu này là lần đầu tiên được tổ chức bên ngoài Nam Mỹ và được mở rộng lên đến 16 đội [10 từ CONMEBOL và 6 từ CONCACAF] và là lần thứ hai áp dụng công nghệ Goal-line. Trong giải đấu, báo chí có thông tin cho rằng CONMEBOL và CONCACAF đang đàm phán để sáp nhập Copa América với Gold Cup để hình thành giải vô địch toàn châu Mỹ, dự định sẽ được tổ chức 2 năm một lần, với Hoa Kỳ là quốc gia tổ chức các giải đấu thường xuyên[4]. Tuy nhiên, Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ Sunil Gulati gọi tin đồn này là không chính xác và nói rằng sẽ không có cuộc thảo luận nào như vậy xảy ra[5]. Chile tiếp tục gieo sầu cho người Argentina khi đánh bại họ trên chấm luân lưu để bảo vệ ngai vàng.

Năm 2019, giải được tổ chức ở Brasil theo chu kỳ 4 năm 1 lần sau lần trước vào năm 2015 ở Chile, lần thứ ba áp dụng Goal-line và lần đầu tiên áp dụng trợ lý video hỗ trợ trọng tài [VAR] cùng nhiều thay đổi của luật bóng đá do IFAB ban hành. Brasil đã giành chức vô địch sau khi đánh bại Peru [đội đã bất ngờ loại đương kim vô địch Chile ở bán kết] với tỉ số 3–1 nhờ sự tỏa sáng của ngôi sao trẻ Everton Soares.

Trong phiên họp năm 2019, CONMEBOL đã quyết định, giải sẽ quay lại năm chẵn và được tổ chức 4 năm một lần để cạnh tranh với UEFA Euro 2020, điều đó có nghĩa là Copa America sẽ được tổ chức vào năm 2020 do Argentina và Colombia đồng đăng cai[6]. Sau đó 4 năm sau, giải năm 2024 được tổ chức ở Ecuador [do Bolivia tiếp tục rút lui không đăng cai theo nghĩa vụ]. Song tình hình đại dịch COVID-19 dai dẳng khiến cho Copa America [cũng như Euro] không thể diễn ra trong năm 2020. Cả Argentina và Colombia sau đó cũng bị tước quyền đăng cai do nơi thì dịch bệnh diễn biến phức tạp, nơi thì lại gặp những bất ổn về chính trị.[7] Brasil một lần nữa đứng ra đăng cai giải đấu lần này thông qua sự lựa chọn của CONMEBOL, mặc cho một số cầu thủ của Brasil, Argentina, Uruguay ra sức phản đối việc tổ chức này.[8][9] Tại giải đấu này, Argentina giành chức vô địch vô địch lần thứ 15 sau khi đánh bại đại kình địch Brasil với tỉ số 1–0 nhờ sự tỏa sáng của các ngôi sao Lionel Messi, Ángel Di María, Sergio Agüero.

Theo quy định luân phiên ABC, dễ dàng tìm ra nước chủ nhà cho các năm 2028, 2032, 2036. Tuy nhiên, trong tương lai có thể sẽ có sự thay đổi.

Chủ nhà[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1984, CONMEBOL đã thông qua chính sách luân phiên quyền tổ chức Copa América trong số 10 quốc gia thành viên theo bảng chữ cái ABC [nghĩa là Argentina đăng cai xong sẽ đến lượt Bolivia, Colombia,... cho đến Venezuela đăng cai các giải đấu sau đó]. Vòng đăng cai đầu tiên đã được hoàn thành sau kỳ Copa América 2007 diễn ra ở Venezuela. Vòng đăng cai thứ hai bắt đầu vào năm 2011, với các nước chủ nhà luân chuyển theo thứ tự bảng chữ cái, bắt đầu với Argentina. Chile, Mexico và Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm đến việc tổ chức giải đấu tiếp theo, nhưng Ủy ban điều hành CONMEBOL quyết định tiếp tục thực hiện vòng quay, ưu tiên tổ chức cho các nước thành viên của mình; mỗi nước sẽ xác nhận xem họ có khả năng tổ chức hay không, nếu không, nước tiếp sau trong bảng chữ cái được đăng cai thay. Argentina đã xác nhận vào ngày 24 tháng 11 năm 2008, thông qua đại diện của LĐBĐ Argentina, rằng họ sẽ tổ chức Copa América 2011.

Copa América 2015 dự kiến sẽ được tổ chức tại Bolivia theo thứ tự xoay vòng bảng chữ cái, nhưng Bolivia vì điều kiện kinh tế đã xin rút lui và Brasil được giao “nghĩa vụ” đăng cai. Tuy nhiên, việc tổ chức FIFA World Cup 2014 và Thế vận hội Mùa hè 2016 tại Brasil dẫn đến sự việc được xem xét lại vì họ rất bận. Mặc dù Chủ tịch CONMEBOL Nicolas Leoz đã đề xuất tổ chức giải đấu ở Mexico [thành viên của liên đoàn CONCACAF], song Brasil và Chile đã thảo luận về khả năng hoán đổi quyền đăng cai giải đấu 2015 và 2019, và đã được CBF quyết định và xác nhận vào tháng 2 năm 2011 rằng Copa América 2015 sẽ vẫn ở Brasil. Tuy nhiên, vào tháng 3 năm 2012, Chile đã thông báo rằng họ sẽ tổ chức Copa América 2015, sau khi Chủ tịch của CBF, ông Ricardo Teixeira từ chức và CBF đồng ý hoán đổi với Chile. Việc hoán đổi đã được chính thức công bố vào tháng 5 năm 2012. Phiên bản kỷ niệm 100 năm của giải đấu, Copa América Centenario, diễn ra vào tháng 6 năm 2016 và được tổ chức tại Hoa Kỳ. Copa América Centenario đánh dấu lần đầu tiên giải đấu được tổ chức bởi một quốc gia không thuộc CONMEBOL.

Mỗi kỳ Copa América từ năm 1987 luôn có linh vật và logo riêng, bao gồm cả bài hát chính thức và các sự kiện bên lề. Gardelito, linh vật cho giải năm 1987, là linh vật Copa América đầu tiên.

Bảng thống kê chủ nhà Copa America Chủ nhà Năm đăng cai
 
Argentina
9 [1916, 1921, 1925, 1929, 1937, 1946, 1959, 1987, 2011]
 
Uruguay
7 [1917, 1923, 1924, 1942, 1956, 1967, 1995]
 
Chile
7 [1920, 1926, 1941, 1945, 1955, 1991, 2015]
 
Peru
6 [1927, 1935, 1939, 1953, 1957, 2004]
 
Brasil
5 [1919, 1922, 1949, 1989, 2019, 2021]
 
Ecuador
4 [1947, 1959, 1993, 2024]
Không có quốc gia đăng cai [F] 3 [1975, 1979, 1983]
 
Bolivia
2 [1963, 1997]
 
Colombia
1 [2001]
 
Paraguay
1 [1999]
 
Venezuela
1 [2007]
 
Hoa Kỳ
C
1 [2016]
C = chủ nhà không thuộc CONMEBOL

Thể thức[sửa | sửa mã nguồn]

Giải đấu trước đây được gọi là Campeonato Sudamericano de Futbol [South American Championship of Football – Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ]. South American Championship of Football là tên tiếng Anh chính thức. Tên hiện tại – Copa America đã được sử dụng từ năm 1975. Trong giai đoạn 1975–1983, giải không có quốc gia đăng cai và được tổ chức theo kiểu sân nhà và sân khách. Giải đấu hiện tại có 12 đội tuyển quốc gia thi đấu hơn một tháng tại quốc gia chủ nhà. Có hai giai đoạn: vòng bảng và vòng loại trực tiếp. Ở vòng bảng, các đội thi đấu vòng tròn với 3 bảng, mỗi bảng 4 đội. Ba đội được chọn là hạt giống, bao gồm cả đội chủ nhà, với các đội hạt giống khác được chọn bằng cách sử dụng Bảng xếp hạng [BXH] FIFA. Các nhóm khác được dựa trên BXH FIFA và các đội được bốc thăm ngẫu nhiên.

Mỗi bảng, các đội được lên lịch chơi ba trận đấu với các đội khác trong cùng một bảng. Vòng cuối của vòng bảng, 2 trận đấu trong bảng không được đá cùng giờ – một điều lạ, khác với nhiều giải đấu trên thế giới. Hai đội đứng đầu từ mỗi bảng tiến vào vòng tứ kết cùng hai đội hạng ba có thành tích tốt nhất. Điểm được sử dụng để xếp hạng các đội trong một bảng. Bắt đầu từ năm 1995, 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho trận hòa và 0 điểm nào cho trận thua [trước đó, đội thắng nhận được 2 điểm].

Thứ hạng của mỗi đội trong mỗi bảng được xác định như sau:

a] Điểm số lớn nhất đạt được

b] Hiệu số bàn thắng bàn thua;

c] Tổng bàn thắng ghi được.

Nếu hai hoặc nhiều đội bằng nhau ở ba tiêu chí trên, thứ hạng của họ được xác định như sau:

d] Điểm số đạt được trong các trận đấu giữa các đội liên quan;

e] Hiệu số bàn thắng trong các trận đấu giữa các đội liên quan;

f] Số lượng bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu giữa các đội liên quan;

g] Bốc thăm của Ban tổ chức CONMEBOL.

Vòng đấu loại trực tiếp, các đội chỉ thi đấu mỗi trận một lượt duy nhất, với các loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu trận đấu hòa trong 90 phút và 30 phút hiệp phụ.

Khách mời[sửa | sửa mã nguồn]

Do số lượng thành viên của CONMEBOL ít, chỉ có 10 đội, các quốc gia từ các châu lục khác thường được mời tham gia để tạo nên 12 đội cho dễ chia bảng. Kể từ năm 1993, hai đội từ các khu vực khác, thường là từ CONCACAF gần gũi về mặt địa lý và văn hóa, cũng đã được mời. Trong lịch sử, 9 ĐTQG khác nhau đã được mời tham gia giải là:

  • Costa Rica [1997, 2001, 2004, 2011, 2016]
  • Haiti [2016]
  • Hoa Kỳ [1993, 1995, 2007, 2016*]
  • Honduras [2001]
  • Jamaica [2015, 2016]
  • Mexico [1993, 1995, 1997, 1999, 2001, 2004, 2007, 2011, 2015, 2016]
  • Nhật Bản [1999, 2019]
  • Panama [2016]
  • Qatar [2019]

*: chủ nhà

Mexico đã tham dự đầy đủ các kỳ từ năm 1993 đến 2016, Hoa Kỳ đã được mời ở mọi giải đấu từ năm 1997 đến 2007 nhưng cũng thường xuyên từ chối lời mời do xung đột lịch trình với Major League Soccer – giải nhà nghề Mỹ. Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 10 năm 2006, Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ đã chấp nhận lời mời tham gia giải đấu năm 2007, chấm dứt 12 năm vắng bóng. Tại Copa América 2001, Canada là ĐTQG được mời, nhưng đã rút lui ngay trước khi bắt đầu giải đấu vì những lo ngại về an ninh.

Tại Copa América 2011, Nhật Bản tiếp tục rút lui, do khó khăn trong việc gọi các cầu thủ thi đấu ở châu Âu lên ĐTQG và nhất là trận động đất và sóng thần Tōhoku khiến họ không còn tâm trí để đá bóng. ĐTQG Tây Ban Nha được mời tham dự năm 2011, nhưng theo Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha, họ đã từ chối vì không muốn làm gián đoạn ngày nghỉ của các cầu thủ Tây Ban Nha. Tại Copa América 2015, Nhật Bản đã từ chối lời mời vì họ cũng không thể gọi các cầu thủ đang thi đấu ở châu Âu lên tuyển. Trung Quốc sau đó cũng được mời thay những cũng phải rút lui do bận thi đấu Vòng loại World Cup 2018 khu vực châu Á.[10] Cuối cùng, Jamaica đồng ý tham gia và gấp rút lên đường sang thi đấu.

Úc và Qatar là 2 đội tuyển được mời tham dự Copa America 2021 nhưng sau đó phải bỏ cuộc do trùng với lịch thi đấu Vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á, vốn dĩ đã được dời sang năm 2021 do COVID-19.[11][12]

Thành tích của các đội khách mời[sửa | sửa mã nguồn]

Đội

1993

1995

1997

1999

2001

2004

2007

2011

2015

2016

2019

Lần tham dự
 
Costa Rica
VB TK TK VB VB 5
 
Haiti
VB 1
 
Honduras
3rd 1
 
Jamaica
VB VB 2
 
Nhật Bản
VB VB 2
 
México
2nd TK 3rd 3rd 2nd TK 3rd VB VB TK 10
 
Panama
VB 1
 
Qatar
VB 1
 
Hoa Kỳ
VB 4th VB 4th 4
  • Chú thích: TK = tứ kết, VB = vòng bảng, 2nd, 3rd, 4th: á quân, hạng ba, hạng tư.

Cúp vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

Chiếc cúp vô địch của Copa America.

Chiếc cúp Copa América, được trao cho ĐTQG vô địch giải đấu, đã được trao tặng cho CONMEBOL bởi Bộ Ngoại giao Argentina vào năm 1910, khi Argentina tổ chức một giải để kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Năm. Giải khi đó [cũng có sự tham gia của Uruguay và Chile] được đặt tên là "Copa del Centenario" [Cúp trăm năm].

Chiếc cúp Copa América hiện tại được mua vào năm 1916 từ "Casa Escasany", một cửa hàng bán đồ trang sức ở Buenos Aires, với giá 3.000 franc Thụy Sĩ.

Chiếc cúp Copa América có trọng lượng 9 kg [20 lb], được làm bằng bạc nguyên chất cao 77 cm [30 inch], với đế bằng gỗ 3 cấp có chứa nhiều mảng. Các tấm mảng được khắc tên các đội tuyển vô địch trong lịch sử.

Vào tháng 4 năm 2016, một chiếc cúp mới – được thiết kế dành riêng cho Copa América Centenario – đã được giới thiệu tại trụ sở Liên đoàn bóng đá Colombia ở Bogota để kỷ niệm 100 năm của giải đấu. Chiếc cúp được dựa trên hình dạng của chiếc cúp Copa América ban đầu, được thêm vào logo giải năm 2016. Nó cao 61 cm [24 inch] với trọng lượng 7,1 kg [16 lb], được mạ vàng nguyên chất 24 cara. Các logo của CONMEBOL và CONCACAF cũng được khắc trên thân của nó.

Chiếc cúp Copa América Centenario 2016 được thiết kế bởi Epico Studios ở Hoa Kỳ và được sản xuất bởi London Work Workshop của Thomas Lyte ở Anh. Chile đã vô địch và được giữ cúp bằng vàng này vĩnh viễn.

Ngoài chiếc cúp chính, "Copa Bolivia" [một chiếc cúp được làm bằng bạc nguyên khối] đã được trao cho á quân của giải kể từ năm 1997[13] – một điều được coi là độc nhất ở các giải đấu bóng đá của thế giới khi mà á quân cũng được cúp. Chiếc cúp được đặt theo tên quốc gia tổ chức Copa América năm 1997, với một lá cờ Bolivian nhỏ được gắn ở một trong các mặt của nó.

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Chủ nhà Xếp hạng chung cuộc Vô địch Á quân Hạng ba Hạng tư
1916
Chi tiết
[3]
 
Argentina

Uruguay

Argentina

Brasil

Chile
1917
Chi tiết
 
Uruguay

Uruguay

Argentina

Brasil

Chile
1919
Chi tiết
 
Brasil

Brasil

Uruguay

Argentina

Chile
1920
Chi tiết
 
Chile

Uruguay

Argentina

Brasil

Chile
1921
Chi tiết
 
Argentina

Argentina

Brasil

Uruguay

Paraguay
1922
Chi tiết
 
Brasil

Brasil

Paraguay

Uruguay

Argentina
1923
Chi tiết
 
Uruguay

Uruguay

Argentina

Paraguay

Brasil
1924
Chi tiết
 
Uruguay

Uruguay

Argentina

Paraguay

Chile
1925
Chi tiết
[1]
 
Argentina

Argentina

Brasil

Paraguay
n/a
1926
Chi tiết
 
Chile

Uruguay

Argentina

Chile

Paraguay
1927
Chi tiết
 
Peru

Argentina

Uruguay

Peru

Bolivia
1929
Chi tiết
 
Argentina

Argentina

Paraguay

Uruguay

Peru
1935
Chi tiết
[4]
 
Peru

Uruguay

Argentina

Peru

Chile
1937
Chi tiết
 
Argentina

Argentina

Brasil

Uruguay

Paraguay
1939
Chi tiết
 
Peru

Peru

Uruguay

Paraguay

Chile
1941
Chi tiết
[4]
 
Chile

Argentina

Uruguay

Chile

Peru
1942
Chi tiết
 
Uruguay

Uruguay

Argentina

Brasil

Paraguay
1945
Chi tiết
[4]
 
Chile

Argentina

Brasil

Chile

Uruguay
1946
Chi tiết
[4]
 
Argentina

Argentina

Brasil

Paraguay

Uruguay
1947
Chi tiết
 
Ecuador

Argentina

Paraguay

Uruguay

Chile
1949
Chi tiết
 
Brasil

Brasil

Paraguay

Peru

Bolivia
1953
Chi tiết
 
Peru

Paraguay

Brasil

Uruguay

Chile
1955
Chi tiết
 
Chile

Argentina

Chile

Peru

Uruguay
1956
Chi tiết
[4]
 
Uruguay

Uruguay

Chile

Argentina

Brasil
1957
Chi tiết
 
Peru

Argentina

Brasil

Uruguay

Peru
1959
Chi tiết
 
Argentina

Argentina

Brasil

Paraguay

Peru
1959
Chi tiết
[4]
 
Ecuador

Uruguay

Argentina

Brasil

Ecuador
1963
Chi tiết
 
Bolivia

Bolivia

Paraguay

Argentina

Brasil
1967
Chi tiết
 
Uruguay

Uruguay

Argentina

Chile

Paraguay

Cúp bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Nước chủ nhà Chung kết Tranh hạng ba Vô địch Tỷ số Á quân Hạng 3 Tỷ số Hạng 4
1975
Chi tiết
Nhiều quốc gia

Peru
0–1 / 2–0
Play–off 1–0

Colombia
 
Brasil

 
Uruguay
n/a[2]
1979
Chi tiết
Nhiều quốc gia

Paraguay
3–0 / 0–1
Play–off 0–0 [h.p.]

Chile
 
Brasil

 
Peru
n/a[2]
1983
Chi tiết
Nhiều quốc gia

Uruguay
2–0 / 1–1

Brasil
 
Paraguay

 
Peru
n/a[2]
1987
Chi tiết
 
Argentina

Uruguay
1–0

Chile

Colombia
2–1

Argentina
1989
Chi tiết
 
Brasil

Brasil
1–0

Uruguay

Argentina
0–0

Paraguay
1991
Chi tiết
 
Chile

Argentina
3–2

Brasil

Chile
1–1

Colombia
1993
Chi tiết
 
Ecuador

Argentina
2–1

México

Colombia
1–0

Ecuador
1995
Chi tiết
 
Uruguay

Uruguay
1–1 [h.p.]
[5–3] [11m]

Brasil

Colombia
4–1

Hoa Kỳ
1997
Chi tiết
 
Bolivia

Brasil
3–1

Bolivia

México
1–0

Peru
1999
Chi tiết
 
Paraguay

Brasil
3–0

Uruguay

México
2–1

Chile
2001
Chi tiết
 
Colombia

Colombia
1–0

México

Honduras
2–2
[5–4] [11m]

Uruguay
2004
Chi tiết
 
Peru

Brasil
2–2 [h.p.]
[4–2] [11m]

Argentina

Uruguay
21

Colombia
2007
Chi tiết
 
Venezuela

Brasil
3–0

Argentina

México
31

Uruguay
2011
Chi tiết
 
Argentina

Uruguay
3–0

Paraguay

Peru
4–1

Venezuela
2015
Chi tiết
 
Chile

Chile
0–0 [h.p.]
[4–1] [11m]

Argentina

Peru
2–0

Paraguay
2016
Chi tiết
 
Hoa Kỳ

Chile
0–0 [h.p.]
[4–2] [11m]

Argentina

Colombia
1–0

Hoa Kỳ
2019
Chi tiết
 
Brasil[a]

Brasil
3–1

Peru

Argentina
2–1

Chile
2021
Chi tiết

Argentina
1–0

Brasil

Colombia
3–2

Peru
2024
Chi tiết
 
Ecuador

[Các đội mời được in nghiêng]

1 Chỉ có 3 đội tham dự.

2 Đồng giải ba [không thi đấu].

Các đội từng đạt đến hạng tư[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển Vô địch Á quân Hạng ba Hạng tư
 
Argentina
15 [1921*, 1925*, 1927, 1929*, 1937*, 1941, 1945, 1946*, 1947, 1955, 1957, 1959 [Argentina]*, 1991, 1993, 2021] 14 [1916*, 1917, 1920, 1923, 1924, 1926, 1935, 1942, 1959 [Ecuador], 1967, 2004, 2007, 2015, 2016] 5 [1919, 1956, 1963, 1989, 2019] 2 [1922, 1987*]
 
Uruguay
15 [1916, 1917*, 1920, 1923*, 1924*, 1926, 1935, 1942*, 1956*, 1959 [Ecuador], 1967*, 1983, 1987, 1995*, 2011] 6 [1919, 1927, 1939, 1941, 1989, 1999] 9 [1921, 1922, 1929, 1937, 1947, 1953, 1957, 1975, 2004] 5 [1945, 1946, 1955, 2001, 2007]
 
Brasil
9 [1919*, 1922*, 1949*, 1989*, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019*] 12 [1921, 1925, 1937, 1945, 1946, 1953, 1957, 1959 [Argentina], 1983, 1991, 1995, 2021*] 7 [1916, 1917, 1920, 1942, 1959 [Ecuador], 1975, 1979] 3 [1923, 1956, 1963]
 
Paraguay
2 [1953, 1979] 6 [1922, 1929, 1947, 1949, 1963, 2011] 7 [1923, 1924, 1925, 1939, 1946, 1959 [Argentina], 1983] 6 [1921, 1926, 1937, 1942, 1967, 1989, 2015]
 
Chile
2 [2015*, 2016] 4 [1955*, 1956, 1979, 1987] 5 [1926*, 1941*, 1945*, 1967, 1991*] 11 [1916, 1917, 1919, 1920*, 1924, 1935, 1939, 1947, 1953, 1999, 2019]
 
Peru
2 [1939*, 1975] 1 [2019] 8 [1927*, 1935*, 1949, 1955, 1979, 1983, 2011, 2015] 7 [1929, 1941, 1957*, 1959 [Argentina], 1997, 2021]
 
Colombia
1 [2001*] 1 [1975] 5 [1987, 1993, 1995, 2016, 2021] 2 [1991, 2004]
 
Bolivia
1 [1963*] 1 [1997*] 2 [1927, 1949]
 
México
^
2 [1993, 2001] 3 [1997, 1999, 2007]
 
Honduras
^
1 [2001]
 
Ecuador
2 [1959 [Ecuador]*, 1993*]
 
Hoa Kỳ
^
2 [1995, 2016]
 
Venezuela
1 [2011]

*=Chủ nhà

^=Khách mời

Kết quả của các nước chủ nhà[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Nước đăng cai Chung kết
1916
 
Argentina
Á quân
1917
 
Uruguay
Vô địch
1919
 
Brasil
Vô địch
1920
 
Chile
Hạng tư
1921
 
Argentina
Vô địch
1922
 
Brasil
Vô địch
1923
 
Uruguay
Vô địch
1924
 
Uruguay
Vô địch
1925
 
Argentina
Vô địch
1926
 
Chile
Hạng ba
1927
 
Peru
Hạng ba
1929
 
Argentina
Vô địch
1935
 
Peru
Hạng ba
1937
 
Argentina
Vô địch
1939
 
Peru
Vô địch
1941
 
Chile
Hạng ba
1942
 
Uruguay
Vô địch
1945
 
Chile
Hạng ba
1946
 
Argentina
Vô địch
1947
 
Ecuador
Hạng 6
1949
 
Brasil
Vô địch
1953
 
Peru
Hạng 5
1955
 
Chile
Á quân
1956
 
Uruguay
Vô địch
1957
 
Peru
Hạng tư
1959
 
Argentina
Vô địch
1959
 
Ecuador
Hạng tư
1963
 
Bolivia
Vô địch
1967
 
Uruguay
Vô địch
1987
 
Argentina
Vô địch
1989
 
Brasil
Vô địch
1991
 
Chile
Hạng ba
1993
 
Ecuador
Hạng 4
1995
 
Uruguay
Vô địch
1997
 
Bolivia
Á quân
1999
 
Paraguay
Tứ kết
2001
 
Colombia
Vô địch
2004
 
Peru
Tứ kết
2007
 
Venezuela
Tứ kết
2011
 
Argentina
Tứ kết
2015
 
Chile
Vô địch
2016
 
Hoa Kỳ
Hạng tư
2019
 
Brasil
Vô địch
2021
 
Brasil
Á quân
2024
 
Ecuador
CXĐ

Kết quả của các nhà đương kim vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Đương kim vô địch Chung kết
1917
 
Uruguay
Vô địch
1919
 
Uruguay
Á quân
1920
 
Brasil
Hạng ba
1921
 
Uruguay
Hạng ba
1922
 
Argentina
Hạng tư
1923
 
Brasil
Hạng tư
1924
 
Brasil
Vô địch
1925
 
Brasil
Vô địch
1926
 
Argentina
Á quân
1927
 
Uruguay
Á quân
1929
 
Argentina
Vô địch
1935
 
Argentina
Á quân
1937
 
Uruguay
Vô địch
1939
 
Argentina
Bỏ cuộc
1941
 
Peru
Hạng tư
1942
 
Argentina
Á quân
1945
 
Uruguay
Hạng tư
1946
 
Argentina
Vô địch
1947
 
Argentina
Vô địch
1949
 
Argentina
Bỏ cuộc
1953
 
Brasil
Á quân
1955
 
Paraguay
Hạng 5
1956
 
Argentina
Hạng ba
1957
 
Uruguay
Hạng ba
1959
 
Argentina
Vô địch
1959
 
Argentina
Vô địch
1963
 
Uruguay
Bỏ cuộc
1967
 
Bolivia
Hạng 6
1975
 
Uruguay
Hạng 4
1979
 
Peru
Hạng 4
1983
 
Paraguay
Hạng ba
1987
 
Uruguay
Vô địch
1989
 
Uruguay
Á quân
1991
 
Brasil
Á quân
1993
 
Argentina
Vô địch
1995
 
Argentina
Tứ kết
1997
 
Uruguay
Vòng bảng
1999
 
Brasil
Vô địch
2001
 
Brasil
Tứ kết
2004
 
Colombia
Hạng 4
2007
 
Brasil
Vô địch
2011
 
Brasil
Tứ kết
2015
 
Uruguay
Tứ kết
2016
 
Chile
Vô địch
2019
 
Chile
Hạng 4
2021
 
Brasil
Á quân
2024
 
Argentina
CXĐ

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ xuất sắc nhất giải[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Cầu thủ
1916
Isabelino Gradín
1917
Héctor Scarone
1919
Arthur Friedenreich
1920
José Piendibene
1921
Américo Tesoriere
1922
Agostinho Fortes Filho
1923
José Nasazzi
1924
Pedro Petrone
1925
Manuel Seoane
1926
José Leandro Andrade
1927
Manuel Seoane
1929
Manuel Ferreira
1935
José Nasazzi
1937
Vicente de la Mata
1939
Teodoro Fernández
1941
Sergio LivinVBtone
1942
Obdulio Varela
1945
Domingos da Guia
1946
Adolfo Pedernera
1947
José Manuel Moreno
1949
Ademir
1953
Heriberto Herrera
1955
Enrique Hormazábal
1956
Óscar Míguez
1957
Omar Sívori
1959
Pelé
1959
Alcides Silveira
1963
Ramiro Blacut
1967
Pedro Rocha
1975
Teófilo Cubillas
1979
Carlos Caszely
1983
Enzo Francescoli
1987
Carlos Valderrama
1989
Rubén Sosa
1991
Leonardo Rodríguez
1993
Sergio Goycochea
1995
Enzo Francescoli
1997
Ronaldo
1999
Rivaldo
2001
Amado Guevara
2004
Adriano
2007
Robinho
2011
Luis Suárez
2015 Không trao giải do Lionel Messi của
Argentina từ chối nhận giải thưởng
2016
Alexis Sánchez
2019
Daniel Alves
2021
Lionel Messi
Neymar

Vua phá lưới[sửa | sửa mã nguồn]

NămCầu thủSố bàn
thắng
1916
Isabelino Gradín
3
1917
Ángel Romano
4
1919
Arthur Friedenreich
4
Neco
1920
José Pérez
3
Ángel Romano
1921
Julio Libonatti
3
1922
Julio Francia
4
1923
Vicente Aguirre
3
Pedro Petrone
1924
Pedro Petrone
4
1925
Manuel Seoane
6
1926
David Arellano
7
1927
Alfredo Carricaberry
3
Segundo Luna
Roberto Figueroa
Pedro Petrone
Héctor Scarone
1929
Aurelio González
5
1935
Herminio Masantonio
4
1937
Raúl Toro Julio
7
1939
Teodoro Fernández
7
1941
Juan Marvezzi
5
1942
Herminio Masantonio
7
José Manuel Moreno
1945
Norberto Méndez
6
Heleno de Freitas
1946
José María Medina
7
1947
Nicolás Falero
8
1949
Jair da Rosa Pinto
9
1953
Francisco Molina
7
1955
Rodolfo Micheli
8
1956
Enrique Hormazábal
4
1957
Humberto Maschio
9
Javier Ambrois
1959
Pelé
8
1959
José Sanfilippo
6
1963
Carlos Alberto Raffo
6
1967
Luis Artime
5
1975
Leopoldo Luque
4
Ernesto Díaz
1979
Jorge Peredo
4
Eugenio Morel
1983
Jorge Burruchaga
3
Roberto Dinamite
Carlos Aguilera
1987
Arnoldo Iguarán
4
1989
Bebeto
6
1991
Gabriel Batistuta
6
1993
José Luis Dolgetta
4
1995
Gabriel Batistuta
4
Luis García
1997
Luis Hernández
6
1999
Rivaldo
5
Ronaldo
2001
Víctor Aristizábal
6
2004
Adriano
7
2007
Robinho
6
2011
Paolo Guerrero
5
2015
Eduardo Vargas
4
Paolo Guerrero
2016
Eduardo Vargas
6
2019
Everton Soares
3
Paolo Guerrero
2021
Lionel Messi
4
Luis Díaz

Thống kê theo số trận thắng[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến mùa giải 2021.

Chú thích
Đội vô địch Copa América
Đội Điểm Số trận Thắng Hòa Thua Bàn thắng Bàn thua Hiệu số 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
 
Argentina
423 202 127 42 33 474 182 +292
 
Uruguay
374 205 112 38 55 410 221 +189
 
Brasil
362 191 108 38 45 430 204 +226
 
Paraguay
253 177 64 43 70 264 303 −39
 
Chile
234 188 67 33 88 291 316 −25
 
Peru
213 161 58 39 64 230 255 −25
 
Colombia
172 124 49 25 50 142 191 −49
 
Bolivia
86 119 20 26 73 107 298 −191
 
Ecuador
74 126 16 26 84 134 327 −193
 
México
70 48 19 13 16 66 62 +4
 
Venezuela
41 70 8 17 45 49 177 −128
 
Costa Rica
18 17 5 3 9 17 31 –14
 
Hoa Kỳ
17 18 5 2 11 18 29 –11
 
Honduras
10 6 3 1 2 7 5 +2
 
Panama
3 3 1 0 2 4 10 –6
 
Nhật Bản
3 6 0 3 3 6 15 –9
 
Qatar
1 3 0 1 2 2 5 –3
 
Jamaica
0 6 0 0 6 0 9 –9
 
Haiti
0 3 0 0 3 1 12 –11

Các huấn luyện viên vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Huấn luyện viên Vô địch
1916
Alfredo Foglino
 
Uruguay
1917
Ramón Platero
 
Uruguay
1919
Haroldo Domingues
 
Brasil
1920
Ernesto Fígoli
 
Uruguay
1921
Pedro Calomino
 
Argentina
1922
Laís
 
Brasil
1923
Leonardo De Lucca
 
Uruguay
1924
Ernesto Meliante
 
Uruguay
1925
Américo Tesoriere
 
Argentina
1926
Ernesto Fígoli
 
Uruguay
1927
José Lago Millón
 
Argentina
1929
Fransisco Olazar
 
Argentina
1935
Raúl V. Blanco
 
Uruguay
1937
Manuel Seoane
 
Argentina
1939
Jack Greenwell
 
Peru
1941
Guillermo Stábile
 
Argentina
1942
Pedro Cea
 
Uruguay
1945
Guillermo Stábile
 
Argentina
1946
Guillermo Stábile
 
Argentina
1947
Guillermo Stábile
 
Argentina
1949
Flávio Costa
 
Brasil
1953
Manuel Fleitas Solich
 
Paraguay
1955
Guillermo Stábile
 
Argentina
1956
Hugo Bagnulo
 
Uruguay
1957
Guillermo Stábile
 
Argentina
1959
Victorio Spinetto
 
Argentina
1959
Juan Carlos Corazzo
 
Uruguay
1963
Danilo Alvim
 
Bolivia
1967
Juan Carlos Corazzo
 
Uruguay
1975
Marcos Calderón
 
Peru
1979
Ranulfo Miranda
 
Paraguay
1983
Omar Borrás
 
Uruguay
1987
Roberto Fleitas
 
Uruguay
1989
Sebastião Lazaroni
 
Brasil
1991
Alfio Basile
 
Argentina
1993
Alfio Basile
 
Argentina
1995
Héctor Núñez
 
Uruguay
1997
Mário Zagallo
 
Brasil
1999
Vanderlei Luxemburgo
 
Brasil
2001
Francisco Maturana
 
Colombia
2004
Carlos Alberto Parreira
 
Brasil
2007
Dunga
 
Brasil
2011
Óscar Tabárez
 
Uruguay
2015
Jorge Sampaoli
 
Chile
2016
Juan Antonio Pizzi
 
Chile
2019
Tite
 
Brasil
2021
Lionel Scaloni
 
Argentina

Kỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]

Theo đội tuyển[sửa | sửa mã nguồn]

  • Vô địch nhiều nhất: Uruguay & Argentina – 15 lần
  • Tham dự nhiều nhất: Uruguay – 45 lần
  • Thi đấu nhiều trận nhất: Uruguay – 197 trận
  • Vào chung kết nhiều nhất: Argentina – 29 lần
  • Thắng nhiều trận nhất: Argentina – 123 trận
  • Ghi nhiều bàn thắng nhất: Argentina – 455 bàn
  • Hiệu suất bàn thắng nhiều nhất: Argentina – 2,41 bàn/trận
  • ĐTQG duy nhất vô địch 3 lần liên tiếp: Argentina [1945, 1946, 1947]
  • ĐTQG vào chung kết nhiều lần liên tiếp nhất: Argentina [8 lần]
  • ĐTQG thất bại đậm nhất lịch sử: Ecuador 0–12 Argentina
  • ĐTQG bị thủng lưới nhiều nhất lịch sử: Ecuador – 311 bàn

Theo cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cầu thủ ghi nhiều bàn nhất 1 kỳ Copa: Jair Da Rosa [Brasil], Humberto Maschio [Argentina], Javier Ambrois [Uruguay] – cùng 9 bàn
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn nhất trong 1 trận đấu: Scarone, Marvezzi, Evaristo – cùng ghi được 5 bàn
  • Tay săn bàn vĩ đại nhất lịch sử Copa: Norberto Mendez [Argentina], Zizinho [Brasil] – cùng 17 bàn
  • Cầu thủ đá hỏng phạt đền nhiều nhất trong một trận: Martin Palermo [Argentina] tại Copa 1999 – đá hỏng 3 quả trong 1 trận đấu

Kỷ lục khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • HLV tham dự nhiều kỳ Copa nhất: Guillermo Stabile – 6 lần
  • Siêu kinh điển của Copa America không phải Argentina gặp Brasil mà là Uruguay gặp Argentina trong 12 trận chung kết
  • Copa America là giải đấu bóng đá dành cho ĐTQG lâu đời nhất hành tinh, với lịch sử 105 năm.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Mùa giải năm 2020 dự kiến diễn ra tại Argentina và Colombia, Tuy nhiên, tháng 5/2021, Colombia phải huỷ đăng cai vì vấn đề chính trị, sau đó Argentina cũng phải huỷ đăng cai vì vấn đề đại dịch COVID-19, sau đó quyền đăng cai mùa giải sẽ là Brasil.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Truyền thông Argentina đưa đậm nét về ý nghĩa Cách mạng tháng Tám”.
  2. ^ “Campeonato de la Asociación Argentina de Football 1916”.
  3. ^ “Trang web chính thức của Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ”.
  4. ^ “Copa America có thể sáp nhập với Gold Cup”.
  5. ^ “Nên sáp nhập Gold Cup với Copa America?”.
  6. ^ “Argentina and Colombia là chủ nhà của Copa America 2020”.
  7. ^ “Tước quyền hai đồng chủ nhà, Copa America 2021 chuyển đến Brazil”. Người Lao Động. 1 tháng 6 năm 2021.
  8. ^ “Brazil đăng cai Copa America thay Colombia và Argentina”. Tuổi Trẻ Online. 1 tháng 6 năm 2021.
  9. ^ “Các ngôi sao tẩy chay, Copa America 2021 đứng trước nguy cơ bị hủy”. Tuổi Trẻ Online. 5 tháng 6 năm 2021.
  10. ^ “[流言板]遗憾!赛程撞车,足协忍痛放弃美洲杯”. Hupu. Lưu trữ bản gốc .
  11. ^ “Football Australia confirms Socceroos' withdrawal from Copa America”. Football Australia. 24 tháng 2 năm 2021.
  12. ^ “Qatar not to feature in Copa America 2021”. Qatar Football Association. 23 tháng 2 năm 2021.
  13. ^ "'Bolivia' para el segundo", Correo del Sur, ngày 4 tháng 7 năm 2015

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cúp bóng đá Nam Mỹ trên trang web của RSSSF.

Chủ Đề