Vì sao người quảng nam hay cãi

Đây không còn câu trả lời nào khác ngoài hiện tượng ngôn ngữ đã được nhiều nhà ngôn ngữ khẳng định: Một cộng đồng người đã từ bỏ tiếng nói mẹ đẻ để nói một ngôn ngữ khác. Ở đây, đó chính là người Chăm đã từ bỏ tiếng mẹ đẻ để nói tiếng Việt!

Nhưng vấn đề vốn từ vựng người Quảng ảnh hưởng thế nào đến tính cách của họ?

Nhiều người nhận xét người Quảng Nam “ăn cục nói hòn”, “nghĩ sao nói vậy”, tính tình bộc trực, “nói thẳng ruột ngựa”; người Quảng Nam  ghét kẻ “mồm miệng đỡ chân tay”, “đĩ miệng”, “ba voi không được bát nước xáo”...  Thế nhưng tại sao lại “ăn cục nói hòn” thì hầu như chưa ai chạm đến? Theo chúng tôi, đó chính là vì sự thiếu vốn từ trong diễn đạt đã khiến sự diễn đạt trở thành “ăn cục nói hòn”!
Phải chăng, chính sự diễn đạt khó khăn đó đã tạo nên tính cách? Tại sao, mặc dầu biết rõ “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, hoặc “nói ngọt lọt tới xương” nhưng “nói ngọt” với người Quảng Nam dường như là điều vô cùng khó ! Chính vì không thể diễn đạt được các sắc thái tình cảm tinh tế, không nói được điều cần nói một cách bay bổng, nhẹ nhõm, người Quảng Nam đã lấy sự chân thành, nói thẳng mà bù trừ? Chính vì không diễn đạt được, không ba hoa bóng bẩy được nên người Quảng Nam lấy nói thẳng làm ưu thế, lấy thẳng thắn trung thực làm sở trường để chống lại cái sở đoản trong văn hóa diễn đạt? Mà nói thẳng thì hay gay gắt; chân thành thì hay giận; trung thực thì hay cáu vì đòi hỏi ai cũng trung thực như mình. Tất cả tính cách ấy đều dẫn đến một thái độ tương đối căng thẳng trong cuộc sống.

Khi nói đến tính hay cãi của người Quảng Nam người ta thường lấy ví dụ về sự nghiệp canh tân đổi mới của các cụ Phan Châu Trinh, Phan Khôi... để bênh vực cho vẻ đẹp của tính hay cãi. Nhưng xét cho cùng, sự canh tân đổi mới đâu có xuất phát từ sự hay cãi; người vùng nào mà không có những vĩ nhân đi đầu trong canh tân đổi mới điều gì đó trong suốt lịch sử nhiều ngàn năm của vùng đất đó? Hay cãi chỉ thành vấn đề khi chuyện vụn vặt không đáng cãi mà cũng vẫn cứ cãi. Trong một cuộc đàm luận, ai đó nói điều trái ý, với người Bắc chỉ cần nói “bác cứ nói thế chứ em thì em nghĩ khác”; hoặc “bác cứ quá lời”. Nhưng một ông Quảng Nam thì mọi chuyện khác ngay: “mi núa nghe ngu quá, hắn không lọt cái lỗ tai”.

Phải chăng chính cái cục hòn, chính sự thô ráp tối đa trong biểu cảm của những người mẹ như thế này đã truyền lại cho con cái họ sự bộc trực trong diễn đạt, ngắn gọn chính xác và tối giản trong giao tiếp, lại được nuôi dưỡng trong cái môi trường xung đột văn hóa kéo dài đã khiến hình thành nên tính cách người Quảng Nam? Và từ đó, đi đến tính cách hay cãi có lẽ là khoảng cách không xa nếu không nói chính là một.

Cũng như các giả định khác, có thể đúng có thể sai, nhưng chí ít giả định này là có thể chứng minh được nếu ta có được công trình về vốn từ người Quảng và công cụ tâm lý tham gia. Phần xây dựng công cụ đã cố gắng đưa ra một cái nhìn về vấn đề vốn từ của người Quảng, nó cần một công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn thế nhưng cũng tạm đủ cho ta có một cái nhìn không thể bỏ qua trong việc tìm hiểu bản sắc người Quảng Nam. Chí ít thì hướng đi này là có thể chứng minh được, kiểm chứng được và vì thế nó là khoa học hơn các giả định khác về tính cách người Quảng, như cho là do nước uống, do tính cách dân tội đồ lưu đày, do đầu sóng ngọn gió cần phải nói to!

Và một lần nữa yếu tố “người Chăm ở lại” đã để một dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn người Quảng Nam hôm nay. Sự thừa nhận điều này không thuộc về khoa học. Cho dù bây giờ ta làm được xét nghiệm ADN với từng người Quảng Nam và kết luận nguồn gốc Chăm đậm đặc trong mỗi người thì sự thừa nhận nguồn cội cũng thuộc về quyết định của từng người chứ không nằm ở trong cái phiếu xét nghiệm ADN ấy.

Vẫn còn một câu hỏi nữa, tại sao vùng Bình Định, Phú Yên người Chăm ở đông hơn, chuyển sang nói tiếng Việt muộn hơn lại không vấp phải tính cách hay cãi này mà thường bông lơn hơn, vui nhộn hơn? Theo tôi dường như ở các tỉnh này vấn đề xung đột văn hóa diễn ra không gay gắt bằng Quảng Nam. Ở các tỉnh phía nam này người Chăm ở lại trong suốt chiều dài lịch sử là số đông tuyệt đối, lượng người Việt luôn là số ít cho đến cả sau khi Nguyễn Hoàng vào Nam. Không có hình ảnh da báo, làng Việt xen kẽ làng Chăm kéo dài nhiều trăm năm như ở Quảng Nam. Bằng chứng là số tộc họ có số đời trên 15 thế hệ ở Quảng Ngãi, Bình Định là vô cùng hiếm. Và trong ngôn ngữ, vấn đề từ vựng và mẫu câu, theo cảm nhận ban đầu, các tỉnh này không rơi vào khủng hoảng thiếu như ở Quảng Nam. Tại sao lại thế thì có lẽ câu trả lời nằm đâu đó trong cái thời gian mà người các tỉnh này chuyển sang nói tiếng Việt, hoặc sự bảo lưu ngôn ngữ của người Chăm ở lại là dai dẳng hơn chúng ta nghĩ. Các tư liệu để lại là chữ Hán, là của người Việt, những tư liệu xã hội thì qua những bức tranh của Barrow đến Đà Nẵng năm 1793, những người mà sử liệu gọi là “mọi” đó nói thứ ngôn ngữ gì thì ta không được biết. Đến lúc nào thì họ mới chịu chuyển sang nói tiếng Việt, thời Minh Mạng chăng? Lý do gì đi nữa thì ta cũng có vài bằng chứng mơ hồ do luận suy mà có về những người Chăm ở lại chỉ chịu chuyển sang nói tiếng Việt rất muộn. Và đây, có phải chính là nguyên nhân để lượng vốn từ, cũng như tính cách người Quảng Nam khá là đặc biệt như đã nói.

Và điều cuối cùng muốn nói, chỉ khi hiểu rõ nguyên nhân gây nên bệnh thì mới có thể chữa dứt được bệnh, chỉ khi hiểu rõ nguồn cơn của tính cách, tuy nhiều tích cực nhưng cũng không ít tiêu cực trong văn hóa giao tiếp, thì ta mới có thể cải thiện được cho lớp trẻ các thế hệ tương lai. Khi nói đến việc một người Quảng Nam hòa nhập trong giao tiếp với người vùng miền khác, nhiều người chỉ nghĩ đến vấn đề ngữ âm hay phát âm cố cho chuẩn mà không hay rằng vốn từ mới là điều quan trọng. Chúng tôi tin với số lượng vốn từ phong phú hơn, diễn đạt trôi chảy hơn, mẫu câu giao tiếp nhiều hơn thì tính cách người Quảng sẽ được cải thiện hơn, chí ít là trong diễn đạt, điều mà lối sống hiện đại đòi hỏi ngày càng cao.

HỒ TRUNG TÚ

07:37, 11/08/2012 [GMT+7]

Cãi nhau không phải là đặc sản của người Quảng Nam. Cả thiên hạ đều cãi chứ không riêng chi họ, có điều theo đánh giá của chính thiên hạ - một đánh giá mang màu sắc dân gian - thì người Quảng Nam thích cãi hơn, thích lý sự hơn, thích đến nỗi cãi đã thành một tính trội - tính hay cãi. Lúc đầu chắc là lời nhận xét “Quảng Nam hay cãi” hàm ý chê trách người Quảng Nam lúc nào cũng sẵn sàng gân cổ lên giọng, giống như chê trách người láng giềng Quảng Ngãi của họ qua lời nhận xét “Quảng Ngãi hay co” - cũng là một kiểu cãi nhưng không phải bằng lời. Tuy nhiên theo thời gian, lời nhận xét “Quảng Nam hay cãi” lại thiên về hướng khẳng định tố chất ưa tranh luận, giỏi hùng biện của người Quảng Nam.

Vì sao dân Quảng Nam lại hay cãi, lại thích lý sự, lại ưa tranh luận? Có nhà nghiên cứu khi so sánh người Quảng Nam với người Thuận Hóa đã nhận xét rằng: “Trong guồng quay khắc nghiệt của thương trường, thị dân phố thị [tức người Quảng Nam - BVT] cởi mở hơn [người Thuận Hóa - BVT] với sức năng động, nhạy cảm, khả năng dự báo và xử lý cao. Phải chăng câu ca “Quảng Nam hay cãi...” cũng phần nào phản ánh điều đó - chúng tôi muốn khai thác ở khía cạnh tích cực: tính bộc trực, thẳng thắn, năng động, nhu cầu giải quyết ngay những khúc mắc - phản ứng “cãi” lại lập tức, mà không soát xét, chiêm nghiệm trong một quá trình dài về sau như con người xứ Thuận” [*]. Nhận xét vừa nêu gắn liền tính hay cãi của người Quảng Nam với văn hóa thị dân năng động, nhạy cảm, khả năng dự báo và xử lý cao, nghĩa là cũng khẳng định tính duy tân cách mạng trong cái cãi của họ. Tuy nhiên điều đáng nói là qua nhận xét này, cái cãi của người Quảng Nam được hiểu như một cái gì đó còn bốc đồng, chưa thật chín chắn thâm trầm như người Thuận Hóa chỉ cách nhau có một con đèo. Khen/chê như thế là sòng phẳng bởi đôi khi mạnh chỗ nào thì yếu ngay chỗ đó, phản ứng tức thì cãi ngay tức khắc thể hiện sự nhạy cảm năng động đáng khen nhưng đồng thời cũng có khả năng bộc lộ sự vội vã thậm chí bộp chộp đáng chê. Các tác giả Đại Nam nhất thống chí triều Duy Tân từng nêu và lý giải nhược điểm này của người Quảng Nam: “… sĩ phu có khí tiết cứng cỏi bạo nói nhưng vì thổ lực không hậu mà thế nước chảy gấp nên tính người hay nóng nảy ít trầm tĩnh…”.

Cách lý giải dựa vào quan hệ giữa phong thổ địa lý với tính cách con người như trong Đại Nam nhất thống chí có thể có sức thuyết phục nhất định, song dẫu sao đấy chỉ là một trong những cách giải thích mà thôi. Bởi không phải lúc nào, năng động, nhạy cảm cũng đồng hành với vội vã bộp chộp và thực tế cũng đã có không ít người Quảng Nam thành đạt trên lĩnh vực ngoại giao, chứng tỏ người Quảng Nam vẫn có khả năng tự kiềm chế cảm xúc tốt, tức là cãi mà vẫn có được sự điềm tĩnh chính trị cần thiết.

Trong lịch sử, những người Quảng Nam gặp việc khó không tránh né, lâm sự thì quả quyết, đương mưu tính thì trầm hùng - như lời nhận xét của Tiểu La Nguyễn Thành về Trần Quý Cáp - chẳng phải quá hiếm. Nhưng nói chung với người Quảng Nam, điềm tĩnh chính trị là một phẩm chất do rèn luyện mà nên. Nghĩa là, chỉ những người lịch lãm trên chính trường, từng trải trong đấu tranh cách mạng mới có thể trở nên điềm tĩnh chính trị, đúng như lý giải dẫn trên của tập thể tác giả Đại Nam nhất thống chí: “… duy có người nào học vấn uyên thâm mới không bị phong khí ràng buộc”.

Học vấn uyên thâm ở đây không chỉ có nghĩa là thông kim quán cổ, là tích lũy tri thức qua sách vở, học hành mà còn được hiểu theo nghĩa rộng là bản lĩnh chính trị, là sự từng trải, lịch lãm về chính trị, là năng lực ứng xử trước bao nhiêu thử thách chính trị, thậm chí trước bao cơn bão táp chính trị.

Người Quảng Nam nhờ tính hay cãi - hiểu theo nghĩa không chịu ràng buộc bởi áp lực của sức ì trong tư duy - nên thường đi đầu trong các cuộc canh tân đổi mới đất nước mà phong trào Duy tân đất Quảng đầu thế kỷ XX với “bộ ba Quảng Nam” Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng là một minh chứng hùng hồn. Nhờ tính hay cãi, ham tranh luận, không dễ dãi chấp nhận sự bao cấp về tư tưởng hay những tín điều sẵn có hoặc những tư duy quen thuộc song đã lỗi thời mà phần lớn người Quảng Nam thường chịu khó đào sâu suy nghĩ đồng thời biết ăn nói mạch lạc để bộc lộ và bảo vệ chính kiến của mình, đôi khi vô tình trở thành ngòi nổ cho các phản biện mang ý nghĩa xã hội sâu sắc... Còn có thể kể dài dài những gì mà người Quảng Nam thừa hưởng được từ di sản văn hóa “hay cãi” của ông cha xưa.

Tuy nhiên ở đây người Quảng Nam không chỉ có được, nghĩa là họ cũng bị mất khá nhiều bởi cái tính cách “hay cãi” ấy. Trước hết là mất lòng. Trong lúc thiên hạ đang ngồi uốn lưỡi bảy lần hoặc đang tính bài im lặng là vàng, anh lại đứng lên giữa cuộc họp mở miệng nói lời phi lộ “Dân Quảng Nam tôi vốn hay cãi nên xin được trao đổi mấy ý kiến như sau…” thì khéo đến mấy cũng khó mà giữ được hòa khí, mà không làm mất lòng người khác, nhất là làm mất lòng những người thích độc quyền chân lý. Thứ nữa là mất công, vì bơi ngược dòng bao giờ cũng khó hơn bơi xuôi dòng, phải lao tâm khổ tứ tìm lý lẽ lập luận sao cho thật sắc sảo, sao cho thật thuyết phục, sao cho có thể bắt bẻ được người ta mà không để họ bắt bẻ lại mình. Hai cái mất vừa nêu - mất lòng và mất công - người Quảng Nam biết mà không tránh khỏi hoặc không muốn tránh, và đây cũng chính là chỗ mà dẫu không nói ra song thiên hạ vẫn thường cảm thấy thán phục, thậm chí ngưỡng mộ nhiều người hay-cãi-Quảng-Nam. Đó là chưa kể càng mất công bao nhiêu, người hay-cãi-Quảng-Nam càng có thể tránh được căn bệnh nan y mất điềm tĩnh rất dễ mắc phải trong văn hóa tranh luận bấy nhiêu.

Thế nhưng xuất phát từ tính hay cãi của người Quảng Nam còn một cái mất nữa - thường khó nhận ra - là mất khả năng cãi lại chính bản thân mình. Kiểu hàm hồ cãi lấy được cố tình kéo dài cuộc tranh cãi nhằm tranh thắng tranh hơn đa phần cũng do bắt nguồn từ cái mất rất đáng lo ngại và nên sớm khắc phục này. Mình Quảng-Nam-hay-cãi với người khác thì được nhưng hễ ai mà Quảng-Nam-hay-cãi với mình lại lập tức nóng gáy khó chịu, ngay cả khi mình thấy rõ người ta đang có lý còn mình càng lúc càng đuối lý. Phải chi trong trường hợp này người hay-cãi-Quảng-Nam không tự đánh mất khả năng cãi lại chính bản thân mình để dũng cảm chấp nhận mình sai và kịp thời rút lui ý kiến.

Cần thấy khả năng cãi lại chính bản thân mình như vậy là một năng lực hay cãi tuyệt vời mà không phải người Quảng Nam nào cũng dễ dàng đạt được - hoàn toàn khác với thói ba phải thiếu lập trường, thiếu bản lĩnh và thiếu tự tin. Và nếu như lời nhận xét “Quảng Nam hay cãi” từng hàm ý hoặc vẫn đang còn hàm ý chê trách người Quảng Nam lúc nào cũng sẵn sàng gân cổ lên giọng thì đó chẳng qua là do muốn nhắc nhở một số người hay-cãi-Quảng-Nam đã tự đánh mất khả năng cãi lại chính bản thân mình ...

BÙI VĂN TIẾNG

[*] Xem bài Duyên Thuận Quảng trên Net Codo - Bưu điện tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Video liên quan

Chủ Đề