Tính chi phí xử lý nợ xấu
Nghị quyết 42, là hành lang pháp lý hỗ trợ rất lớn cho công tác xử lý nợ, giúp các ngân hàng giải quyết cục máu đông tồn đọng từ thời kỳ khủng hoảng tài chính 2011-2013. Việc có thể xử lý được tài sản để thu hồi nợ theo nghị quyết 42 không chỉ giúp ngân hàng thu hồi nợ xấu, mà còn có tác động rất tích cực tới các khách hàng vay vốn của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng cao nhất đến 1-3%. Như vậy 97- 99% các khách hàng vay vốn là khách hàng tốt. Việc có thể sớm xử lý các khoản nợ xấu giúp chính sách cho vay, giá cả cho vay và thủ tục vay vốn đối với khách hàng được thiết kế phù hợp hơn rất nhiều, không để "con sâu làm rầu nồi canh". Đó là những phát biểu của đại diện ngân hàng Techcombank tại toạ đàm Nợ xấu trong đại dịch COVID-19 - Giải pháp hỗ trợ ngành ngân hàng và cộng đồng doanh nghiệp do Báo Tiền phong và Hiệp hội ngân hàng tổ chức hôm 23/6 vừa qua. Theo bà Nguyễn Thu Lan – Giám đốc cao cấp quản trị rủi ro, Ngân hàng TMCP Techcombank, tại Techcombank, từ khi NQ 42 có hiệu lực 8/2017 đến nay, hơn 70% các khoản nợ xấu được xử lý thông qua áp dụng nghị quyết 42. Liên quan đến nợ xấu phát sinh do tác động của Covid-19, bà Thu Lan cho biết, kinh nghiệm, cũng là bí quyết xử lý của Ngân hàng chính là am hiểu khách hàng, phân loại đúng khách hàng và có giải pháp phù hợp. Cụ thể, ngân hàng đã có các chính sách để hỗ trợ khách hàng như: (1) Với các khách hàng bị ảnh hưởng thu nhập do Covid 19, ngân hàng hỗ trợ tối đa qua các giải pháp miễn giảm lãi, tái cơ cấu nợ, giãn nợ; (2) Với các khách hàng thực sự không có khả năng trả nợ, chây ì tồn đọng đã lâu năm, ngân hàng tiếp tục áp dụng nghị quyết 42 để xử lý tài sản thu hồi nợ. Quá trình xử lý nợ tuyệt đối tuân thủ các hướng dẫn của địa phương và chính phủ về phòng chống dịch. "Với mỗi ngân hàng, chất lượng nợ có thể khác nhau nhưng tại Techcombank có một danh mục khách hàng rất tốt, được đánh giá không bị ảnh hưởng lớn vì đại dịch. Và chính vì có danh
mục khách hàng tốt như vậy, nên ngân hàng có điều kiện để có thể hỗ trợ các khách hàng khó khăn" - bà Lan nói thêm. Bà Nguyễn Thu Lan – Giám đốc cao cấp quản trị rủi ro, Ngân hàng TMCP Techcombank (ảnh: Tiền phong) Về khó khăn
khi xử lý nợ xấu, theo đại diện Techcombank, khi thực hiện xử lý nợ theo nghị quyết 42, có nghĩa là ngân hàng cực chẳng đã phải áp dụng các biện pháp rất kiên quyết để có thể xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ. Các khách hàng lúc này đều là các khách hàng hoặc không thể có khả năng trả nợ hoặc rất chây ì. Thông thường thời gian xử lý đều đã kéo dài 3-5 năm, nhiều trường hợp lên đến 9-10 năm. Việc khách hàng chống lại biện pháp xử lý của ngân hàng là dễ hiều thường xuyên xảy ra. Thời gian xử lý kéo dài, tài sản thanh lý không thu đủ nợ, ngân hàng tốn rất nhiều chi phí và nhân lực. Bên cạnh đó, ngân hàng còn phải chịu nhiều sức ép khác nhau. Đặc biệt, nhiều Khách hàng tận dụng sự phát triển của Mạng xã hội để gây sức ép cho Ngân hàng, đưa thông tin một chiều, sai sự thật khiến dư luận nhìn nhận không khách quan, thiếu sự đồng cảm chia sẻ với những khó khăn của công tác xử lý thu hồi nợ xấu. Đặc biệt, những thông tin sai lệch này ảnh hưởng không tốt đến uy tín, gây tổn thương cho hình ảnh thương hiệu. Điều này, khiến công tác thu hồi nợ xấu đã khó càng khó hơn. Ngân hàng là tổ chức lớn và hoạt động chịu sự quản lý rất chặt chẽ bởi pháp luật. "Chúng tôi luôn đề cao tinh thần tuân thủ pháp luật, ủng hộ chính sách của nhà nước. Tuy vậy ngân hàng cũng là pháp nhân dễ bị tổn thương bởi các thông tin sai lệch, không khách quan. Techcombank mong muốn được bảo vệ bởi pháp luật, các cơ quan báo chí lớn chính thống, khách quan. Trong quá trình xử lý nợ, chúng tôi cam kết tuân thủ pháp luật và sẵn sàng chia sẻ thông tin tới các cơ quan quản lý và truyền thông để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình" - bà Lan nói. Nợ xấu là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các Ngân hàng Thương mại, đặc biệt tại Việt Nam, tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất cho Ngân hàng. Chính vì thế, để phát triển an toàn, hiệu quả hoạt động các Ngân hàng thương mại cần chú trọng: thứ nhất, là chất lượng cấp tín dụng, dịch vụ; thứ hai, là quản lý nợ xấu. Trong đó quản lý nợ xấu là vấn đề rất quan trọng, vì đây là nguyên nhân có mức độ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đồng thời làm ngưng trệ lưu thông nguồn vốn trong nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu của quản lý nợ xấu tại mỗi ngân hàng và các thời điểm khác nhau là khác nhau. Tuy nhiên theo cách chung nhất thì mục tiêu của quản lý nợ xấu trong bất kỳ hoàn cảnh nào và đối với bất kỳ ngân hàng nào thì đó là việc phải xây dựng và thực thi một hệ thống quản lý, theo dõi, đánh giá phù hợp với
tình hình hoạt động và định hướng của Ngân hàng. Nghiên cứu rõ danh mục nợ xấu và nguyên nhân nợ xấu sẽ giúp ngân hàng có những biện pháp, cách thức xử lý hiệu quả, đồng thời chính sách sàng lọc khách hàng phù hợp với từng thời kỳ sẽ hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro không thể thu hồi được của các khoản cho vay mà không ảnh hưởng tới mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.
Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ nợ;
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc có tài sản thế chấp nhưng không đủ để trả nợ.
Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; Nợ gia hạn nợ lần đầu; Nợ được miễn hoặc giảm lãi do KHCN không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
Nợ xấu nói chung được xem như một dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn hoặc đã là rủi ro khi khách hàng bắt đầu sang nhóm 3. Tuy nhiên, khi nói đến một khoản nợ xấu thì cho biết rất ít vấn đề, để xác định trọng tâm vấn đề phải tìm hiểu được nguyên nhân của khoản nợ đó. Nếu khoản nợ xấu là một biểu hiện của việc khách hàng không muốn
hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có nguy cơ không cứu vãn được. Nếu khoản nợ chỉ hình thành do việc tiêu thụ hàng hóa hoặc thu hồi các khoản phải thu chậm hơn thời gian dự tính hoặc do việc chậm trễ không tính trước được trong việc chuyển từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ trên thị trường, hoặc có lý do khách quan nào đó nhưng vẫn xử lý được thì vấn đề chưa đến mức nghiêm trọng.
b) Phân loại nợ theo nguyên tắc hạch toán kế toán
3. Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại |