Tính chất của cuộc cải cách rama v là

Cách mạng năm 1932 ở Xiêm [Thái Lan] Tính chất và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [977.49 KB, 188 trang ]

MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiCuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đếquốc chủ nghĩa với sự thống trị của tư bản độc quyền. Cùng với sự phát triển đó,chủ nghĩa tư bản ngày càng bủa lưới bao trùm cả thế giới. Các nước ĐôngNam Á ngày càng bị cuốn vào guồng quay của hệ thống kinh tế - chính trị thếgiới và trở thành những đối tượng bị chinh phục của chủ nghĩa tư bản thế giới.Hệ quả tất yếu là hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đều lần lượt rơivào vòng kiểm soát hoặc trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tư bảnphương Tây ở những mức độ khác nhau. Trong bối cảnh đó, chỉ có hai quốc giaở châu Á đã thoát khỏi một cách ngoạn mục làn sóng xâm lược của chủ nghĩathực dân phương Tây. Nếu ở Đông Bắc Á, Nhật Bản là nước duy nhất giữ đượcđộc lập, thì ở Đông Nam Á, Xiêm cũng là quốc gia duy nhất không rơi vào áchthuộc địa như các nước khác trong vùng và cơ bản vẫn duy trì được sự độc lậptương đối của mình. Sở dĩ Xiêm có được kết quả to lớn này là do giới tinh hoacủa nước này, trước hết là nhà vua, giới quý tộc, quan lại triều đình đã thứctỉnh, tiến hành cải cách, mở cửa bằng những biện pháp thỏa hiệp, ngoại giaomềm dẻo trong đối ngoại và thức thời trong chính sách đối nội [25, tr.369-370]. Dưới các triều vua Rama IV [1851 - 1868], Rama V [1868 - 1910], ở Xiêmdiễn ra khá thành công công cuộc duy tân, phát triển đất nước theo hướng tư bảnchủ nghĩa, đặt nền móng cho quá trình hiện đại hóa đất nước của Xiêm. Với cáccuộc cải cách này, Xiêm đã bước một bước đi đầu tiên vào quỹ đạo tư bản chủnghĩa. Tuy nhiên, để hoàn tất quá trình định dạng chủ nghĩa tư bản, Xiêm còn phảitrải qua một quá trình lâu dài và còn qua nhiều lần đổi mới, cải cách nữa, đặc biệtlà một cuộc cách mạng vào năm 1932. 1Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, với cuộc cách mạng năm1932, Xiêm nổi lên là một hiện tượng khá độc đáo, không chỉ trong bản thânlịch sử Xiêm mà cả ở khu vực Đông Nam Á. Dưới sự lãnh đạo của PriđiPhanômyông - thủ lĩnh Đảng Nhân dân, cuộc cách mạng năm 1932 đã mang lạinhững thay đổi chính trị quan trọng, là một bước tiến trong quá trình dân chủ

hóa nhà nước Xiêmnhằm làm cho nước Xiêm hội nhập với tình hình thế giớihiện đại [13, tr.1147]. Nghiên cứu về cuộc cách mạng năm 1932 ở Xiêm, đặc biệt là tính chất và ýnghĩa lịch sử của nó không chỉ làm rõ được những tiền đề, diễn biến, kết quả màquan trọng hơn là đi sâu phân tích, đánh giá, nhận định về tính chất và ý nghĩacủa cuộc cách mạng, góp phần giải đáp những câu hỏi, những vấn đề xungquanh sự kiện Xiêm trong thập niên 30 thế kỉ XX. Đồng thời, trên cơ sởnhững nhận xét, đối chiếu, so sánh sự kiện này với phong trào cách mạng ở mộtvài nước trên thế giới và khu vực Đông Nam Á, ta có thể góp phần làm rõ hơncon đường phát triển của nước Xiêm Thái Lan thời cận đại. Ngoài ra, việc tìmhiểu về Priđi Phanômyông linh hồn của cuộc cách mạng 1932, đặc biệt lànhững tư tưởng cải tạo xã hội của ông sẽ giúp ta rút ra được những bài học kinhnghiệm bổ ích và thiết thực đối với công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam theohướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Trong điều kiện hiện nay, khi các quốc gia châu Á đang đứng trước xu thếtoàn cầu hóa, những bài học về quá trình hội nhập trong thời kì cận đại tuy thuộcvề quá khứ, nhưng nếu được chứng nghiệm là xác đáng, thì vẫn có giá trị nhấtđịnh đối với quá trình đổi mới để hội nhập. Việt Nam hiện nay đang trong quátrình đổi mới, mở cửa trong quan hệ hợp tác với cộng đồng quốc tế, trong đócó Thái Lan và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Với phương châm ViệtNam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [10, tr.233], việc2tiếp tục mở rộng các mối quan hệ quốc tế đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về lịchsử các nước và các khu vực. Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình tồn tại vàphát triển, Việt Nam và Thái Lan có mối quan hệ chặt chẽ nhiều mặt trong quákhứ cũng như trong hiện tại. Do đó, chúng ta không thể không tìm hiểu mộtnước láng giềng khu vực quan trọng, có nhiều điểm khác biệt, nhưng cũngkhông ít điều tương đồng về lịch sử và văn hóa như Thái Lan. Con đường pháttriển của Thái Lan, thông qua toàn bộ lịch sử của mình, để lại những kinhnghiệm tham khảo rất bổ ích đối với Việt Nam trong công cuộc xây dựng đấtnước ngày nay. Những vấn đề đặt ra trên đây là cơ sở để chúng tôi chọn Cách mạng năm1932 ở Xiêm [Thái Lan] Tính chất và ý nghĩa lịch sử làm đề tài Luận ántiến sĩ sử học của mình với hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ những khía cạnhđặt ra ở trên.2. Mục đích nghiên cứuMục đích nghiên cứu của luận án là khái quát những tiền đề, diễn biến, kếtquả của cách mạng 1932. Từ đó, phân tích làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩacủa cuộc cách mạng trên cơ sở có sự so sánh, đối chiếu với một vài cuộc cáchmạng tư sản trên thế giới và trong khu vực. 3. Nhiệm vụ nghiên cứuLuận án là công trình nghiên cứu khoa học về cuộc cách mạng 1932 ởXiêm [Thái Lan], trong đó trọng tâm là tìm hiểu về tính chất và ý nghĩa lịch sửcủa cuộc cách mạng. Tên của đề tài đã xác định rõ giới hạn nội dung trọng tâmvà phạm vi nghiên cứu của đề tài. Để làm sáng tỏ nội dung Luận án, chúng tôidự kiến tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn đề trọng yếu sau:- Trước hết, luận án tập trung khái quát về cuộc cách mạng 1932 ở Xiêm vềtiền đề, diễn biến, kết quả. Trong phần này, chúng tôi tập trung vào sự ra đời nềnquân chủ lập hiến thay thế cho chế độ quân chủ chuyên chế ở Xiêm, sự ra đời3của hai bản hiến pháp, những nét cơ bản trong tư tưởng cải tạo xã hội của PriđiPhanômyông với tư cách là nội dung chính trị tư tưởng của cuộc cách mạng vàquá trình lên cầm quyền của giới quân sự Xiêm. - Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đi sâu phân tích, làm rõ về tính chất và ýnghĩa của cuộc cách mạng 1932, so sánh, đối chiếu với các cuộc cách mạng tưsản ở châu Âu trong những thế kỉ trước, từ đó rút ra những đặc điểm của cuộccách mạng 1932. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài. Trong phạm vi nhữngcông trình và tài liệu nghiên cứu có thể tiếp cận, Luận án cố gắng cung cấp chongười đọc những ý kiến, quan điểm khác nhau của các học giả trong và ngoàinước về tính chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng năm 1932. Từ đó, chúng tôiđưa ra những quan điểm riêng của mình.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu4.1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu mà Luận án hướng tới là tính chất và ý nghĩa lịch sửcủa cuộc cách mạng năm 1932 ở Xiêm,4.2. Phạm vi nghiên cứuPhạm vi nghiên cứu của Luận án về không gian là vương quốc Xiêm [TháiLan]. Tuy nhiên, để có thể hoàn thành tốt được những nhiệm vụ đặt ra trongluận án, chúng tôi thấy cần đặt nước Xiêm và cuộc cách mạng 1932 trong bốicảnh quốc tế và khu vực. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, chúng tôi có mởrộng không gian nghiên cứu ra khu vực châu Á và một vài nước trên thế giới. Phạm vi thời gian mà Luận án bao quát chủ yếu là từ năm 1932, tức là nămbùng nổ cuộc cách mạng. Tuy nhiên, để có thể tìm hiểu được những tiền đề,nguyên nhân sâu xa cũng như những nhiệm vụ của cuộc cách mạng, chúng tôiphải mở rộng phạm vi thời gian nghiên cứu từ giữa thế kỷ XIX, khi Xiêm bắtđầu những bước đầu tiên trong quá trình hội nhập với phương Tây. 4Giới hạn cuối cùng về thời gian của Luận án là vào năm 1938, khi giớiquân sự giải tán Nghị viện và thành lập chính phủ mới, đánh dấu sự thắng thếhoàn toàn của giới quân sự trên chính trường Xiêm, mở đầu một giai đoạn mớitrong lịch sử Xiêm Thái Lan. Trong thời kì Luận án nghiên cứu, tên gọi của vương quốc Thái Lan đượcdùng là Vương quốc Xiêm [gọi tắt là Xiêm] vì đến năm 1939 Xiêm mới đổitên thành Thái Lan. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu5.1. Nguồn tài liệuĐể hoàn thành Luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:Tài liệu gốc: Bao gồm các sắc lệnh, tuyên bố, thư từ, bài phát biểu của các vị vua Rama;những thông cáo, tuyên bố của Hoàng gia Xiêm được trình bày trong các côngtrình nghiên cứu cụ thể như: The Political Economic of Siam [1851 - 1910], tập1, của tác giả Chatthip Nartsupha and Suthyprasartser, Hội Khoa học xã hộiThái Lan xuất bản năm 1981; Siam in transition: A brief survey of culturaltrends in the five years since the Revolution of 1932, của tác giả Kenneth PerryLandon, Đại học Chicago xuất bản năm 1939; Chulalongkorn the great của tácgiả Prachomchochai xuất bản năm 1965 tại Tokyo; The End of the AbsoluteMonarchy in Siam của tác giả Benjamin A. Batson, Đại học Oxford xuất bảnnăm 1986. Những tập nhật kí, hồi kí của những người phương Tây đến Xiêm buôn bán,truyền đạo, làm gia sư cho các con vua, các cố vấn trong triều đình Xiêm đượctrình bày trong các công trình: A True Description of the Mighty Kingdoms ofJapan and Siam của Francois Caron xuất bản tại Băng Cốc năm 1986,Description of Old Siam, của Micheal Smithies, Đại học Oxford xuất bản năm1995; An English governess at the court of Siam của A.Leonowens xuất bản tại5Luân Đôn năm 1954; The Diaries and Letters of King Chulalongkorn's GeneralAdviser của Walter E.J.Tips, Gustave Rolin JeaquemynsCác cuốn hồi kí của Priđi Phanômyông và một số nhà lãnh đạo cách mạng1932 được trình bày trong các công trình: Pridi Banomyong and the Making ofThailand Modern History, của tác giả Vichitvong Na Pombhejara xuất bản năm1979; On Founding the Peoples Party and the Democratic System của PridiBanomyong xuất bản năm 1972; Field Marshal P.Pibul Songgram, 5 tập củaPibul Songgram xuất bản năm 1975 1976; Thai Politics: Extracts andDocuments 1932-1957, của Thak Chaloemtiarana, Hội Khoa học Xã hội TháiLan xuất bản năm 1978Tuy nhiên, do không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những tài liệu nàybằng Tiếng Thái nên nguồn tài liệu này chúng tôi chủ yếu lấy lại từ các công trìnhnghiên cứu bằng Tiếng Anh. Tài liệu chuyên khảo: Bao gồm công trình nghiên cứu của các thế hệ trướccó liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới đề tài luận án, đó là: các công trìnhnghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về lịch sử Thái Lantrên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đặc biệt là trong thời kìlịch sử mà Luận án hướng tới. Ngoài ra, phải kể đến các luận án tiến sĩ, luận vănthạc sĩ, cử nhân, các báo cáo trong các hội thảo, các bài báo trên các tạp chíchuyên ngành. Nguồn tài liệu này bao gồm các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Thái,Việt đã được dịch hoặc nguyên bản và được lưu giữ tại các trung tâm nghiêncứu và các thư viện lớn của Việt Nam [Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư việnViện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam].Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về lịch sử các nước như Liên Xô,Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, qua đó cung cấp những sự kiện lịch sử cóliên quan đến vấn đề Luận án nghiên cứu và được sử dụng để so sánh, phân tích,đối chiếu làm rõ vấn đề cũng như rút ra những nhận xét khái quát.65.2. Phương pháp nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của luận án là một vấn đề lịch sử, do đó, để giảiquyết những vấn đề do đề tài Luận án đặt ra, về mặt cơ sở lí luận, chúng tôi dựavào chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Điều đặc biệt lưu ýlà trong khi nghiên cứu chúng tôi quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng ta,của chủ nghĩa Mác Lênin về công tác nghiên cứu lịch sử, tiếp thu những quanđiểm nghiên cứu và cách tiếp cận mới, trên cơ sở đó rút ra những bài học lịch sửcần thiết, bổ ích phục vụ cho công cuộc đổi mới, mở cửa của nước ta hiện nay. Về phương pháp cụ thể, trong Luận án, chúng tôi sử dụng phương pháplịch sử, phương pháp lôgíc là phương pháp nghiên cứu chủ yếu, qua đó, trìnhbày quá trình hình thành và phát triển của các vấn đề bằng những sự kiện điểnhình, phân chia giai đoạn phát triển bằng các mốc lịch sử theo thời gian, qua đórút ra kết luận khái quát. Với phương pháp lịch sử, chúng tôi cố gắng dựng lại toàn bộ cuộc cáchmạng 1932 ở Xiêm qua những sự kiện, nhân vật, các giai đoạn, diễn biến và kếtquả chính của nó.Phương pháp lôgíc được sử dụng trong luận án nhằm rút ra những đặcđiểm, những nhận định, đánh giá về tính chất và ý nghĩa của cách mạng 1932,đồng thời đặt nó trong sự đối sánh với các cuộc cách mạng trên thế giới và trongkhu vực, từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích đối với Việt Nam trongcông cuộc xây dựng đất nước ngày nay.Đây là những phương pháp cơ bản, chủ đạo, xuyên suốt trong quá trìnhnghiên cứu luận án. Chúng tôi rất quan tâm đến việc trình bày các quan điểmtrên cơ sở tôn trọng các sự kiện và tính chân thực lịch sử đúng như nó đã diễn ravà đã từng tồn tại. Ngoài ra, từ việc nghiên cứu một sự kiện lịch sử trong tổngthể bối cảnh chung của khu vực và thế giới đồng đại nên phương pháp so sánh7được chúng tôi chú ý vận dụng. Bên cạnh đó, Luận án còn vận dụng các phươngpháp thống kê, tổng hợp và phân tích để Luận án có cái nhìn tổng quát hơn. 6. Đóng góp của Luận án- Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam về cuộc cáchmạng năm 1932 ở Xiêm [Thái Lan], dựng lại bức tranh tương đối toàn diện, cóhệ thống về cuộc cách mạng một cách khách quan và khoa học. - Cùng với việc việc nghiên cứu, trình bày một cách có hệ thống diễn biếnvà kết quả của cuộc Cách mạng 1932 ở Xiêm, trọng tâm của Luận án là nghiên cứuvà rút ra những ý kiến về tính chất, đặc điểm và ý nghĩa của cuộc cách mạng này.- Trong phạm vi những công trình và tài liệu nghiên cứu có thể tiếp cận,Luận án cố gắng cung cấp cho người đọc những ý kiến, quan điểm khác nhaucủa các học giả trong và ngoài nước về cách mạng 1932 nói chung và tính chất,ý nghĩa lịch sử của nó nói riêng. Từ đó, chúng tôi đưa ra những nhận định vàđánh giá, những quan điểm riêng của mình. - Luận án có thể sử dụng như một công trình tham khảo, phục vụ cho việcnghiên cứu, giảng dạy về lịch sử cuộc Cách mạng 1932 nói riêng và lịch sử TháiLan nói chung, cũng như phục vụ cho nhu cầu hiểu biết của bạn đọc quan tâmtới lịch sử Thái Lan và Đông Nam Á.7. Bố cục của Luận ánNgoài phần mở đầu, phụ lục, thư mục tài liệu tham khảo và mục lục, nộidung của Luận án gồm 4 chương:Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về cách mạng 1932 ởXiêm [Thái Lan].Chương 2: Tiền đề và diễn biến của cách mạng 1932Chương 3: Tính chất và đặc điểm của cách mạng 1932 Chương 4: Ý nghĩa của cách mạng 19328Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁCH MẠNG 1932 Ở XIÊM [THÁI LAN]Cuộc cách mạng năm 1932 với tư cách là sự kiện đánh dấu sự khởi đầu chomột thời đại mới trong lịch sử Thái Lan từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giớinghiên cứu trong và ngoài nước ở những mức độ, khía cạnh khác nhau. Trong quátrình thực hiện Luận án, chúng tôi đã thu thập và tham khảo nhiều nguồn tài liệucó giá trị, trong đó chủ yếu là tài liệu của các tác giả nước ngoài.Trong phạm vi những tài liệu tiếp cận được, chúng tôi cố gắng đưa ra mộtcái nhìn tổng quát về tình hình nghiên cứu vấn đề mà Luận án đang thực hiện. 1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước1.1.1. Các tác giả TháiỞ Thái Lan, theo chúng tôi được biết, có nhiều công trình chuyên khảo vềcách mạng 1932 nói riêng và lịch sử Thái Lan nói chung. Cách mạng 1932 cóthể được các tác giả Thái đề cập tới với tư cách là một sự kiện mang tính bướcngoặt trong các công trình chuyên khảo nghiên cứu chung về lịch sử Thái, hoặccác chuyên luận nhìn nhận, đánh giá về cuộc cách mạng ở những khía cạnh,bình diện khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình sưu tầm và tiếp cận với nhữngtài liệu bằng tiếng Thái, chúng tôi gặp nhiều khó khăn không khắc phục được.Trước hết, những khó khăn này liên quan tới sự hạn chế của các tài liệu, sáchbáo tiếng Thái ở Việt Nam. Mặt khác, sự hạn chế về trình độ ngoại ngữ [khôngbiết tiếng Thái] là trở ngại lớn của chúng tôi trong việc tiếp cận những tài liệutiếng Thái. Vì vậy, đối với những công trình nghiên cứu của người Thái màchúng tôi có được, chúng tôi chủ yếu sử dụng qua những tài liệu đã được dịchsang tiếng Anh. 9Trong số những công trình nghiên cứu của người Thái mà chúng tôi tiếpcận được, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới cuộc Cách mạng 1932, chúngtôi thấy nổi bật lên một số công trình như sau:Công trình Cách mạng Xiêm 1932 của hai tác giả Chanvit Kasetsiri vàThamrongsak Petchalertanan được Quỹ khuyến khích Khoa học xã hội và nhânvăn xuất bản tại Băng Cốc năm 2009. Toàn bộ nội dung công trình được cấutrúc thành 2 chương. Chương thứ nhất của tác giả Chanvit Kasetsiri tập trungchủ yếu vào cuộc cách mạng 1932 với những nội dung cơ bản về sự ra đời ĐảngNhân dân, về sự bùng nổ của cuộc cách mạng 1932 đặc biệt là những quanđiểm đánh giá của tác giả về vấn đề chủ nghĩa yêu nước và dân chủ Xiêm, vấnđề người Hoa và sự khủng hoảng trong chính phủ của vua Rama VII. Chươngthứ hai của tác giả Thamrongsak Petchalertanan trình bày về cách mạng 1932 vàmột năm sau cuộc cách mạng. Chương này được tác giả cấu trúc thành 5 phầnchính với những nội dung chủ yếu về nguyên nhân cách mạng, Đảng Nhân dân,cuộc cách mạng ngày 24 tháng 6 năm 1932; về hai bản Hiến pháp của Xiêmnăm 1932 và đặc biệt là sự phát triển của chủ nghĩa quân sự sau cách mạng.Trong chương này, tác giả cũng dành một số trang nhất định đề cập đến cuộcđảo chính ngày 20 tháng 6 năm 1933 ở Xiêm về nguyên nhân, diễn biến, kếtquả, từ đó, tác giả đưa ra những nhận định về tình hình chính trị ở Xiêm cũngnhư sự lên cầm quyền và vai trò của giới quân sự Xiêm. Có thể nói, cuốn sách làmột tài liệu rất quý đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án, đã cungcấp cho chúng tôi những tư liệu có giá trị và đáng tin cậy về cách mạng 1932. Công trình Pridi Banomyong and The Making of Thailand ModernHistory [Pridi Banomyong và Sự hình thành Lịch sử Hiện đại Thái Lan],Singapore, ISEAS, của tác giả Vichitvong na Pombhejara xuất bản năm 1979.Đây là một tài liệu có giá trị trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận án.Trong công trình này, tác giả đã dành trọn chương 1 trình bày về diễn biến của10cách mạng ngày 24 tháng 6 năm 1932 và 14 chương tiếp theo trình bày về cuộcđời và sự nghiệp của Priđi Phanômyông linh hồn của cuộc cách mạng. Tác giảđã đánh giá cao vai trò của Priđi Phanômyông [1900 - 1983] đối với lịch sử TháiLan thế kỉ XX, coi ông như người cha của nền dân chủ Thái Lan, người khởithảo bản hiến pháp đầu tiên của Xiêm vào tháng 6 năm 1932 và là người từnggiữ những chức vụ quan trọng nhất trên trường chính trị Thái Lan: bộ trưởng nộicác, thủ tướng, chính khách cao cấpCuốn sách A History of Thailand [Lịch sử Thái Lan] của RongSyamananda, giáo sư Trường Đại học Chulalongkorn, được xuất bản năm 1972tại Băng Cốc bằng cả tiếng Thái và tiếng Anh. Đây là một công trình nghiên cứuvề lịch sử Thái Lan từ thời tiền sử đến thời hiện đại, trong đó, những vấn đề vềtình hình kinh tế, chính trị, xã hội dưới các triều vua Rama VI, Rama VII và nềndân chủ Thái Lan được tác giả trình bày trong chương XII, XIII. Cách mạng1932 không phải là vấn đề trọng tâm và chỉ được tác giả đề cập đến với tư cáchlà một sự kiện quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa nhà nước Xiêm.Năm 1983, Nhà xuất bản Ăkxon Chu Ron Thắt xuất bản bộ giáo trình 2 tậpLịch sử Thái Lan của tác giả Penxri Duk, Priyanark Bunnag. Trong công trìnhnày, hai tác giả đã dành một số trang nhất định đề cập đến cuộc cách mạng năm1932 ở Xiêm và những kết quả của nó. Tuy nhiên, do tính chất của một côngtrình thông sử, các sự kiện liên quan đến cách mạng 1932 chỉ được tác giả trình bàymột cách khái quát. Dù vậy, công trình cũng cung cấp một số sự kiện có giá trị vềlịch sử Thái nói chung và cách mạng 1932 nói riêng.Công trình Thai Politics: Extracts and Documents 1932 - 1957 [Chínhtrị Thái Lan: Những trích đoạn và tài liệu 1932 - 1957] của tác giả ThakChaloemtiarana cung cấp những đoạn trích và tài liệu quý báu về tình hình chínhtrị Xiêm từ năm 1932 đến năm 1957. Những tài liệu giới thiệu trong cuốn sáchnày đem lại cái nhìn tổng quát hơn khi nghiên cứu về cuộc cách mạng năm111932, giúp người sử dụng đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan về cuộccách mạng và nền dân chủ Thái Lan thời gian này. Mặc dù cách mạng 1932không phải là nội dung trọng tâm nhưng công trình cũng giúp cho người nghiêncứu có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn khi tìm hiểu về cuộc cách mạng này.Công trình Sự hưng thịnh và suy vong của nền quân chủ chuyên chế TháiLancủa tác giả Chaiyan Rajchagool do Nhà xuất bản White Lotus, Băng Cốc,Thái Lan xuất bản năm 1994. Trong công trình này, tác giả đi vào tìm hiểu và lígiải về sự suy vong dẫn đến sụp đổ của nền quân chủ chuyên chế Xiêm vào đầuthế kỉ XX. 1.1.2. Các tác giả nước ngoàiChính sách mở cửa của Xiêm từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX vànhững thành tựu của đất nước này đã thu hút nhiều học giả nước ngoài nghiêncứu về Xiêm trong mọi lĩnh vực. Đối với các học giả nước ngoài, cuộc Cáchmạng năm 1932 ở Xiêm thường được đề cập một cách khái quát trong các côngtrình viết về lịch sử Đông Nam Á hoặc lịch sử Thái Lan. Có thể kể đến một sốcông trình như:Công trình Siam in transition A brief survey of cultural trends in the fiveyear since the Revolution of 1932 [Nước Xiêm chuyển biến Khảo sát vềnhững khuynh hướng văn hóa trong 5 năm kể từ Cách mạng 1932] của tác giảKenneth Perry Landon, xuất bản năm 1939 là công trình nghiên cứu tổng thể vềcác khuynh hướng chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo cũng nhưkhuynh hướng phân quyền trong chính phủ Xiêm. Tác giả đã dành toàn bộchương đầu tiên để trình bày khái quát về cuộc cách mạng năm 1932 từ nguyênnhân, sự bùng nổ cách mạng, lực lượng lãnh đạo đến kết quả cách mạng. Đặcbiệt, phần Phụ lục của công trình đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu quý.Vì vậy, công trình là một tài liệu rất có giá trị trong quá trình thực hiện Luận án. 12Nhà nghiên cứu người Nga E.O Bécdin với cuốn sách Lịch sử TháiLan xuất bản năm 1976 tại Mátxcơva đã trình bày một cách khái quát về lịchsử Thái Lan từ thời tiền sử cho đến thời hiện đại, trong đó nội dung về cuộc cáchmạng năm 1932 đã được tác giả trình bày khái lược trong chương X. Trong côngtrình này, tác giả cũng có đề cập đến tư tưởng cải cách xã hội về mặt kinh tế của Priđi.Tuy nhiên, là một công trình mang tính thông sử nên tác giả chủ yếu trình bàyvề các sự kiện lịch sử, chưa đi sâu vào các nhận định, đánh giá mang tính lịch sử. Công trình Lịch sử hiện đại Thái Lan do nhà sử học Liên Xô N.V.Rêbricôva biên soạn và được Nhà xuất bản Văn học phương Đông, Mátxcơvaxuất bản năm 1960 [Luận án sử dụng bản dịch của Nhà xuất bản Sự thật, HàNội, năm 1962]. Trong công trình này, tác giả đã trình bày về lịch sử Thái Lanvới những sự kiện lịch sử tiêu biểu từ năm 1918 đến năm 1959, trong đó cuộccách mạng 1932 được tác giả trình bày trong chương II với nhận định đây là mộtcuộc cách mạng tư sản và kết quả quan trọng nhất của cuộc cách mạng này làquốc gia tư sản ở Xiêm đã thật sự hình thành. Công trình Thailand A short history [Sơ lược lịch sử Thái Lan] của tácgiả David K. Wyatt được xuất bản năm 1982 tại Luân Đôn. Tác giả đề cập đếnnhững vấn đề liên quan đến cuộc cách mạng 1932 rải rác trong ba chương VII,VIII, IX trên các khía cạnh Xiêm trước và sau cuộc cách mạng, nền quân chủchuyên chế cuối cùng ở Xiêm.Tác giả Judith A. Stowe với công trình Siam becomes Thailand: A Storyof Intrigue [1991], Honolulu University of Hawaii Press. Công trình gồm 4phần tập trung ở 14 chương đã làm rõ về lịch sử Thái Lan giai đoạn từ năm 1932đến năm 1945, trong đó, tác giả dành trọn phần 1 và phần 2 gồm 7 chương đểtrình bày về lịch sử Thái từ 1932 đến 1940 với những nội dung về sự sụp đổ củachế độ quân chủ chuyên chế, sự ám ảnh của chủ nghĩa cộng sản, sự lớn mạnhcủa giới quân sự và vấn đề chủ nghĩa dân tộc. Công trình đã cung cấp những tư13liệu khá chi tiết về bối cảnh lịch sử, diễn biến cách mạng và là một công trình cógiá trị đối với chúng tôi trong quá trình hoàn thành Luận án. Giáo sư người Anh D.G.E Hall là người đã có những đóng góp lớn trongviệc nghiên cứu về lịch sử khu vực Đông Nam Á nói chung và lịch sử Thái Lannói riêng. Công trình Lịch sử Đông Nam Á của ông được xuất bản tại LuânĐôn năm 1956 là một công trình rất có giá trị [Luận án sử dụng bản dịch củaNhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997]. Trong công trình này, cácvấn đề về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Xiêm dưới các triều vua Rama VI,Rama VII và đặc biệt là cuộc cách mạng 1932 đã được tác giả đề cập đếnmột cách khái quát trong chương 49 với tiêu đề Nước Xiêm chuyển biến1910 - 1942.Công trình Politics in Thailand của tác giả David A. Wilson do TrườngĐại học Cornell, Ithaca, New York xuất bản năm 1962. Trong cuốn sách này,tác giả dành trọn phần mở đầu trình bày về cuộc cách mạng 1932, nhưng rất tiếcnhững vấn đề cơ bản về cuộc cách mạng này lại được tác giả trình bày một cáchsơ lược, khái quát.Liên quan rải rác đến đề tài mà luận án nghiên cứu còn phải kể đến một loạtcác công trình: J.D.G.Campbell với công trình Siam in the twentieth century[Xiêm trong thế kỉ XX] xuất bản năm 1902; công trình The Kingdom of Siam[Vương quốc Xiêm] của tác giả A.C.Carter xuất bản năm 1904; Siam [NướcXiêm] của W.A.Graham xuất bản năm 1924; The Kingdom and People ofSiam [Vương quốc và cư dân Xiêm] của John Bowring Đại sứ Anh tại Xiêmxuất bản năm 1977 tại Singapo; công trình A History of the Kings of Thailand[Lịch sử các nhà vua Xiêm] của hoàng thân Chula Chacrabongse xuất bản tạiBăng Cốc năm 1960; công trình Mongkut - The King of Siam [Vua Xiêm Môngkút] của A.L.Moffat xuất bản tại New York năm 1962; Chulalongkornthe Great [Chulalongkorn vĩ đại] của Prachom Choochai xuất bản năm 1965;14State and Society in the Reign of Mongkut [1851 - 1868] [Nhà nước và xã hộiXiêm thời Môngkút [1851 - 1868]] của tác giả Wilson Constance xuất bản năm1970 đề cập chi tiết mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội Xiêm thời vua Môngkút;tác giả Walter E.J.Tips với công trìnhGustave Rolin Jaequemyns and theMaking of Modern Siam [Gustave Rolin Jaequemyns và sự hình thành nướcXiêm hiện đại] do Nhà xuất bản White Lotus, Băng Cốc xuất bản năm 1996 đãtập hợp các bức thư và nhật kí của viên Tổng cố vấn người Bỉ của vuaChulalongkorn [1868 - 1910] là Rolin Jaequemyns trong thời kì ông ta làm việctại triều đình Xiêm. Những công trình trên đây đã đề cập khá chi tiết về các triềuđại Rama, đặc biệt là Rama IV [1851 - 1868] và Rama V [1868 - 1910] cũngnhư vai trò và công lao của hai vị vua trong công cuộc canh tân đất nước và bảovệ nền độc lập dân tộc. Đây cũng chính là những tư liệu quý giá đối với chúngtôi trong quá trình thực hiện luận án khi nghiên cứu về những bước đi đầu tiên củaXiêm trong tiến trình hội nhập vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Ngoài ra còn phải kể đến các công trình ít nhiều liên quan trực tiếp đến đềtài Cách mạng 1932 mà Luận án nghiên cứu, cụ thể: Tác giả John. F. Cady vớicông trình Southeast Asia: Its historical Development [Đông Nam Á: Lịch sửphát triển], xuất bản tại New York, năm 1964; Benjamin A. Batson với TheEnd of the Absolute Monarchy in Siam [Sự sụp đổ của chế độ quân chủ chuyênchế Xiêm], Đại học Oxford, New York xuất bản, năm 1986; David JoelSteinberg với In Search of Southeast Asia: A Modern History [Nghiên cứu vềĐông Nam Á: Lịch sử hiện đại], Đại học Hawai xuất bản, năm 1987; Tác giảJohn L.S. Girling với Thailand: Society and Politics [Thái Lan: Xã hội vàChính trị], Đại học Cornell xuất bản năm 1990; Bruce McFarland Lockhart vớicông trình Monarchy in Siam and Vietnam 1925 - 1946 [Chế độ quân chủchuyên chế Xiêm và Việt Nam 1925 -1946], xuất bản tại New York, năm 1990;Piere Fistie với Lịch sử thế kỉ XX Đông Nam Á, Viện Khoa học xã hội, Hà15Nội. Tất cả những công trình nói trên thật sự là cần thiết cho tác giả trong quátrình nghiên cứu và hoàn thành Luận án.1.1.3. Các tác giả Việt NamVới tư cách là láng giềng gần gũi, các nhà khoa học Việt Nam cũng cónhững công trình nghiên cứu về Thái Lan trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, sốlượng các công trình nói chung chưa nhiều và cho đến nay chưa có một côngtrình chuyên khảo nào về cách mạng 1932. Có thể dẫn ra đây một số tác giả vàcông trình tiêu biểu như: Giáo sư Vũ Dương Ninh với Lịch sử vương quốc Thái Lan, Nhà xuất bảnGiáo dục, năm 1994. Trong cuốn sách này, những nội dung cơ bản về lịch sửvương quốc Thái Lan từ thời sơ sử đến những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XXđược trình bày mang tính khái quát cao, giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổngthể khi nghiên cứu về Thái Lan. Cách mạng 1932 được giáo sư trình bày trongmột chương riêng với tiêu đề Cuộc cách mạng ngập ngừng năm 1932, trongđó có đề cập đến sự kiện cách mạng ngày 24 tháng 6 năm 1932, kế hoạch kinh tếcủa Priđi Phanômyông và quá trình lên cầm quyền của giới quân sự. PGS.TS Lê Văn Quang với Lịch sử vương quốc Thái Lan, xuất bản năm1995 tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một công trình thông sử về lịch sử TháiLan từ thời cổ đại đến những năm 80 của thế kỉ XX, trong đó cuộc cách mạng1932 được tác giả trình bày trong một chương riêng biệt với nhận định đây làmột cuộc cách mạng tư sản. Tuy nhiên, vấn đề tính chất của cách mạng khôngphải là nội dung trọng tâm nên chỉ được tác giả đề cập đến với những nhận địnhrất khái quát.Nguyễn Khắc Viện với Thái Lan Một số nét về chính trị, kinh tế - xãhội, văn hóa và lịch sử, Nhà xuất bản Thông tin lí luận xuất bản năm 1988.Trong công trình này, tác giả đề cập khái quát về Thái Lan với những đường nét16lịch sử chính, trong đó, cách mạng năm 1932 được trình bày trong chương III từ sựbùng nổ cách mạng vào tháng 6 năm 1932, đến diễn biến cách mạng và một vàinhận định, đánh giá về ý nghĩa của nó.Một số lượng lớn các công trình có liên quan rải rác đến nội dung của đề tàinhư: Lịch sử Thái Lan của hai tác giả Phạm Nguyên Long, Nguyễn TươngLai, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1998; Huỳnh Văn Tòng với tácphẩm Lịch sử Thái Lan từ thế kỉ XIII đến những năm của thập niên 80, KhoaĐông Nam Á, Viện đào tạo mở rộng thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm1993; Thái Lan Cuộc hành trình tới câu lạc bộ các nước công nghiệp mớicủa Nguyễn Thu Mĩ, Đặng Bích Hà, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1992; Kinhtế vương quốc Thái Lan của tác giả Lâm Quang Huyên, xuất bản tại Thành phố HồChí Minh, năm 1992; Thái Lan Truyền thống và văn hóa của các tác giảViện Đông Nam Á, xuất bản năm 1999; Đối thoại với các nền văn hóa: Vươngquốc Thái Lan, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002; Luận ánChính sách đối ngoại của Xiêm nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX của Tiến sĩ ĐàoMinh Hồng, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001; Luận ánQuá trình cải cách ở Xiêm 1851 - 1910 và những hệ quả của nó của Tiến sĩDương Thị Huệ, bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2003; Luậnán Chính sách đối ngoại của vương triều Ayuthaya thế kỉ XIV - XVIII củaTiến sĩ Trần Thị Nhẫn, bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2011.Nhìn chung, các nhà nghiên cứu người Thái, trên thế giới và Việt Nam đãđạt được nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu về lịch sử Thái Lan nói chungvà Cách mạng 1932 ở Xiêm nói riêng. Vì vậy, tất cả những công trình kể trênđều là những nguồn tư liệu quý giá, có ý nghĩa với tác giả trong quá trình nghiêncứu và hoàn thành luận án. 171.2. Những vấn đề Luận án cần giải quyết1.2.1. Những nội dung kế thừa từ các công trình đã công bốLà một công trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các vấn đề đặt ra củacuộc Cách mạng 1932 ở Xiêm Tính chất và ý nghĩa lịch sử, trước hết chúngtôi dựa vào những công trình đã công bố của các nhà khoa học đi trước. Luận ánkế thừa những công trình nghiên cứu đã công bố những nội dung cụ thể như sau:Một là, quá trình cải cách ở Xiêm 1851 1910 trên các lĩnh vực kinh tế,chính trị, xã hội, giáo dục, tôn giáo, quân sự, ngoại giao và những tác động củanó đối với Xiêm; những nhận xét, đánh giá về bước đầu tiến trình hội nhập vớiphương Tây và sự định dạng của chủ nghĩa tư bản ở Xiêm. Trong luận án, nộidung này được chúng tôi xem là một trong những tiền đề quan trọng dẫn đếnnhững cải cách dưới thời Rama VI [1910 - 1925], Rama VII [1925 - 1935] vàđặc biệt là cách mạng 1932.Hai là, những khái quát cơ bản về tiến trình diễn biến của cách mạng vànhững kết quả của nó. 1.2.2. Những nội dung mới cần giải quyết trong luận ánQua tìm hiểu tình hình nghiên cứu về lịch sử Thái Lan của các tác giả trongvà ngoài nước liên quan đến nội dung nghiên cứu mà luận án đang hướng tới,chúng tôi nhận thấy những nội dung mới cần giải quyết trong luận án như sau:Thứ nhất: Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu đi trước ở TháiLan, trên thế giới và Việt Nam đã tái hiện khá đầy đủ lịch sử Thái Lan từ buổiđầu cho đến thời hiện đại. Cách mạng 1932 được trình bày với tư cách là một sựkiện quan trọng, một mốc lịch sử trong quá trình định dạng của chủ nghĩa tư bảnở Xiêm. Tuy nhiên, những tiền đề khách quan, chủ quan, sự ra đời của tổ chứcchính trị lãnh đạo cách mạng và yếu tố thời cơ cách mạng chưa được các tác giảđề cập và nghiên cứu một cách có hệ thống. Đây là một nội dung chúng tôi cốgắng làm rõ trong luận án.18Thứ hai, luận án tập trung làm rõ sự ra đời chế độ quân chủ lập hiến thaythế chế độ quân chủ chuyên chế ở Xiêm. Đồng thời, làm rõ tiến trình cải cáchhiến pháp ở Xiêm và một số nội dung quan trọng trong những tư tưởng cải cáchvề kinh tế - xã hội của Priđi Phanômyông [1900 - 1983]. Trên cơ sở đó, cónhững nhận xét, so sánh đối chiếu với Việt Nam và rút ra những bài học kinhnghiệm quan trọng trong xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. Thứ ba, qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu về cuộc Cách mạng 1932 ởXiêm, chúng tôi nhận thấy ý kiến về tính chất của cuộc cách mạng còn có nhiềukhác biệt. Một số tác giả cho rằng cách mạng 1932 là một cuộc cách mạng tưsản, một số khác cho rằng đây là cuộc chính biến, nhóm thứ ba lại cho đây vừalà cuộc cách mạng tư sản vừa là cuộc chính biến. Xuất phát từ thực tế đó, trên cơsở nghiên cứu và khái quát những nhận định, đánh giá về tính chất cách mạng1932 của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi mạnh dạn trình bàysuy nghĩ và bước đầu đưa ra ý kiến cá nhân của mình về vấn đề này. Thứ tư, với tư cách là người Việt Nam, nghiên cứu lịch sử Thái Lan, thôngqua việc so sánh với một vài cuộc cách mạng ở châu Âu trong những thế kỉtrước, chúng tôi cố gắng tập trung làm rõ những đặc điểm và ý nghĩa của cuộccách mạng này. Đây là một nội dung trọng tâm mà luận án hướng tới. Cuối cùng, cho đến hiện tại, trong thời điểm thực hiện luận án, chúng tôinhận thấy, ở Việt Nam chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệthống, tổng thể và chuyên sâu về cách mạng 1932, đặc biệt là tính chất và ýnghĩa lịch sử của nó. Tóm lại, luận án vừa là sự kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các họcgiả, các nhà nghiên cứu đi trước, vừa là sự cố gắng và đóng góp khoa học củabản thân tác giả trong việc tập trung nghiên cứu, góp phần làm rõ một sự kiệnquan trọng trong lịch sử Thái: Cách mạng năm 1932 Tính chất và ý nghĩalịch sử.19Chương 2TIỀN ĐỀ VÀ DIỄN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG 19322.1. Những tiền đề của Cách mạng 19322.1.1. Các cuộc cải cách nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XXCuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạnphát triển của chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa đòi hỏicác nước đế quốc phải mở rộng thị trường hơn nữa. Vào thời điểm này, các quốcgia phương Đông đang đắm chìm trong chế độ phong kiến lạc hậu với nền kinhtế tự cấp tự túc, nhanh chóng trở thành miếng mồi cho các nước tư bản phươngTây xâm lược. Nửa sau thế kỉ XIX, công cuộc xâm lược và bành trướng thuộcđịa của chủ nghĩa tư bản phương Tây được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Ấn Độ,Trung Quốc rồi các nước trong khu vực Đông Nam Á lần lượt trở thành thuộcđịa hoặc nửa thuộc địa của tư bản phương Tây: Malaixia, Mianma trở thànhthuộc địa của Anh, Inđônêxia bị Hà Lan thôn tính, Philippin trở thành thuộc địacủa Tây Ban Nha, còn Việt Nam, Campuchia và Lào cũng lần lượt bị Pháp thôntính. Như vậy, từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, hầu hết bản đồ châu Á, đặcbiệt là các nước Đông Nam Á đã bị nhuốm màu đen bởi ách thống trị thực dân. Trong tình hình quốc tế và khu vực như vậy, Vương quốc Xiêm với ưu thếvề vị trí chiến lược và điều kiện tự nhiên cũng không tránh khỏi nguy cơ bị xâmlược từ phía các nước phương Tây. Các nước tư bản Hà Lan, Anh, Pháp, Mĩ lầnlượt thâm nhập vào Xiêm thông qua hai con đường chủ yếu là hoạt động thươngmại và truyền giáo.Trước áp lực xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, Vương quốcXiêm muốn tồn tại, phát triển và giữ được độc lập đòi hỏi phải có những biệnpháp khôn khéo, đúng đắn. Triều đình phong kiến Xiêm thời Rama IV Môngkút [1851 - 1868] đã tiến hành canh tân đất nước, loại bỏ những hủ tục20phong kiến lạc hậu lỗi thời, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Côngcuộc canh tân đất nước được triều đình phong kiến Xiêm tiến hành trên cơ sởvừa tiến hành đấu tranh ngoại giao để từng bước thủ tiêu ảnh hưởng của cácnước phương Tây vừa tiến hành canh tân đất nước bằng những cải cách theo môhình phương Tây.Trước hết, vua Rama IV đã thực hiện một chương trình Âu hóa đất nướctrên nhiều lĩnh vực. Nhằm từng bước cải tổ nhân sự trong chính quyền Xiêm,nhà vua đã sử dụng nhiều người phương Tây tham gia vào bộ máy chính quyền.Một số nghiên cứu về lịch sử Thái Lan thời kỳ này cho biết, vào thời Rama IVcó khoảng 84 cố vấn người nước ngoài làm việc cho triều đình Xiêm. Chẳnghạn, bà Leonowens [người Anh] là gia sư cho các con vua, ngài Jaequemyns[người Bỉ] làm tổng cố vấn và là người trợ lí đắc lực cho nhà vua trong các vấnđề cải cách, John Bowring [người Anh] là người được giao trọng trách thay mặtnhà vua giải quyết các vấn đề đối ngoại của Xiêm ở châu Âu [15, tr.65-66]. Về kinh tế, nhằm kích thích sự phát triển kinh tế, đặc biệt là hoạt động xuấtkhẩu gạo và đường - hai mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, đem lại nguồn thuquan trọng cho ngân sách nhà nước, năm 1852, Rama IV [1851-1868] tuyên bốhủy bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo. Để đảm bảo hạ tầng cho sự phát triển nôngnghiệp, những công trình thủy lợi, giao thông được đẩy mạnh xây dựng nhưkênh Rasichaven nối thủ đô Băng Cốc với các tỉnh, làm các con đườngCharonkrung, đường mới năm 1862 cho người dân đi lại và buôn bán dễ dàng. Quân đội cũng được cải tổ theo kiểu phương Tây, lực lượng quốc phòngđược phiên chế thành bộ binh, pháo binh và thủy binh. Bộ binh do sĩ quan Anhhuấn luyện, pháo binh do Chuthamani [em trai vua Rama IV] chịu trách nhiệm,có sự cố vấn của người Anh. Trong hải quân bắt đầu sử dụng tàu chạy bằng hơinước. Nhà vua ban hành khoảng 500 đạo luật, sắc lệnh trong đó có những sắclệnh nhằm cải thiện đời sống nhân dân nghèo khổ như giảm nghĩa vụ lao dịch.21Tiền mới được ban hành, nhà in được xây dựng, báo chí được xuất bản để nângcao dân trí. Đồng thời với những cải cách theo mô hình phương Tây nhằm củng cố,phát triển đất nước, Rama IV thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo bằngviệc kí kết các hiệp ước bất bình đẳng với các nước tư bản phương Tây nhằmtránh được những cuộc đấu tranh vũ trang mà Xiêm biết chắc rằng không thểthắng được các nước này. Đầu tiên là Hiệp ước Xiêm Anh [Hiệp ướcBowring] năm 1855, tiếp đó là Hiệp ước Xiêm Pháp, Xiêm - Mĩ năm 1856,Hiệp ước Xiêm Đan Mạch năm 1858, Xiêm Bồ Đào Nha năm 1859, Xiêm Hà Lan năm 1860, Xiêm - Phổ năm 1862 và với Thụy Điển, Na Uy, Italia, Bỉtrong năm 1868. Việc kí các hiệp ước bất bình đẳng này một mặt cho thấykhông một cường quốc nào có sức mạnh vượt trội đủ khả năng thống trị Xiêm.Mặt khác, mặc dù phải nhượng bộ một số quyền lợi kinh tế, tư pháp nhưng việckí những hiệp ước này đã giúp Xiêm thoát khỏi số phận trở thành thuộc địa nhưcác nước khác trong khu vực, nền độc lập của Xiêm được bảo toàn. Về vấn đềnày, nhà nghiên cứu có tên tuổi người Anh - D.G.E.Hall, viết:Có thể sẽ khôngquá lời nếu nói rằng vương quốc Xiêm phải chịu ơn Môngkút [Rama IV] hơnbất cứ ai khác về việc nước này đã duy trì được nền độc lập của mình trong khivào cuối thế kỉ XIX tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á đều bị đặt dướisự cai trị của người châu Âu. Bởi vì, hầu như ông là người Xiêm duy nhất nhậnthấy rõ rằng nếu Trung Quốc đã thất bại trong chính sách đóng cửa của mìnhtrước áp lực của người châu Âu thì Xiêm phải thỏa hiệp với các lực lượng bênngoài đang đe dọa mình và bắt đầu thích nghi với thế giới mới [13, tr.962].Sau khi Rama IV qua đời, năm 1868, Rama V Chulalongkorn [1868 -1910] lên kế vị và tiếp tục thực hiện những cải cách của vua cha. Dưới thờiRama V, một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,xã hội, giáo dục, quân sự đã diễn ra ở Xiêm.22Cải cách quan trọng đầu tiên của Rama V là việc thủ tiêu chế độ nô lệ tồntại từ rất lâu đời ở Xiêm. Đến cuối thế kỉ XIX, nô lệ vẫn chiếm tới 1/3 dân sốXiêm [35, tr.17]. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu D.G.E.Hall, cần lưu ý rằng:Mặc dù chế độ nô lệ ở Xiêm không khắc nghiệt như các đồn điền châu Mĩ vànó được chi phối bởi những giáo huấn của bộ luật Manu, song việc xóa bỏ nórõ ràng là điều cần thiết đối với quá trình hiện đại hóa [13, tr.969]. Sau nhiềulần đề nghị, thảo luận và sửa đổi, năm 1874, vua Chulalongkorn đã công bố sắclệnh thủ tiêu chế độ nô lệ vì nợ với những nội dung chính như sau: Tất cả concái của nô lệ vì nợ sinh sau ngày 1 tháng 10 năm 1868 đến 21 tuổi sẽ được tựdo; Cha mẹ không được bán con mình làm nô lệ khi chúng chưa đến tuổi 15.Khi chúng quá 15 tuổi, nếu muốn bán, phải được sự đồng ý của chúng; Mức tiềnchuộc nô lệ được quy định 32 bath cho nam nô lệ 8 tuổi, 28 bath cho nữ nô lệ 8tuổi, 4 bath cho nam nô lệ 18 20 tuổi và 3 bath cho nữ nô lệ 18 20 tuổi. Cũngtheo quy định này, tất cả nô lệ đến tuổi 60 đều được tự do. Ngoài ra, những mónnợ suốt đời của nô lệ trước kia là cố định, nay nhà nước quy định giảm 4bath/tháng. Sau những cải cách có tính chất thử nghiệm, từng bước, đến năm1905, Hoàng gia đã chính thức ban hành đạo luật bãi bỏ chế độ nô lệ trong phạmvi cả nước. Cùng với việc thủ tiêu chế độ nô lệ, Rama V cũng cho bãi bỏ chế độ laodịch cưỡng bức đối với người dân. Những người dân được giải thoát khỏi nghĩavụ lao dịch 3 tháng mỗi năm cho nhà nước, bù lại, họ phải nộp một khoản tiềncho chính quyền địa phương thay cho chế độ lao dịch.Những cải cách trên của Rama V có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tếvà xã hội. 1/3 dân số Xiêm được giải phóng từ nô lệ thành người tự do. Điều nàycó ý nghĩa quan trọng trong việc giải phóng sức lao động, tạo ra nguồn nhân lựccho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang chập chững hình thành ở Xiêm. 23Ngoài hai biện pháp trên, để tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp pháttriển, Rama V đã cho xây dựng hệ thống tưới tiêu mới và đưa vào sử dụng từnăm1875. Năm 1902, nhà vua cho thành lập Vụ Quản lí kênh rạch để phụ tráchnhững vấn đề có liên quan đến xây dựng, sửa chữa, tu bổ, nâng cấp các hệ thốngtưới tiêu trên toàn quốc. Vùng đồng bằng trung tâm là nơi sản xuất tới 95%lượng gạo xuất khẩu của Xiêm được hưởng chế độ ưu đãi thuế hơn hẳn nhữngvùng nông nghiệp khác.Kết quả là sản lượng lúa gạo của Xiêm ngày càng tăng lên. Xuất khẩu gạocủa Xiêm năm 1885 là 225.000 tấn thì đến 1910 là 900.000 tấn [tăng gần 4 lần][38, tr.79]. Nền nông nghiệp Xiêm do đó ngày càng mất dần tính tự cung tự cấp,chuyển dần sang nền kinh tế hàng hóa [trước hết trong sản xuất lúa gạo] và gắnliền với thị trường quốc tế. Trong lĩnh vực công nghiệp, Rama V cũng có những cải cách quan trọng.Để khuyến khích các nhà đầu tư, nhà nước đảm bảo cho họ một tỉ lệ lãi nhấtđịnh trong đầu tư vào các ngành công nghiệp và đường sắt. Cùng với đó, nhàvua cũng quan tâm xây dựng các tuyến đường sắt, đường bộ, tạo thuận lợi choviệc giao lưu, buôn bán hàng hóa giữa các tỉnh. Năm 1882, nhà vua cho lập Cụcđường sắt hoàng gia để kiểm soát việc xây dựng đường sắt. Các tuyến đường sắtđã được xây dựng: Băng Cốc Pắcnam [1892], Băng Cốc Cò Rạt [1892],Băng Cốc Xamút - Pracan [1896], Băng Cốc Nakhon Ratsima [1897]. Tưbản nước ngoài đã tăng cường đầu tư vào Xiêm: Năm 1890 ở Băng Cốc có 5nhà máy xay xát lúa gạo của người châu Âu, đến 1908 có khoảng 12 công tynước ngoài đầu tư kinh doanh ở Xiêm.Về tài chính, năm 1892, Rama V cho cải tổ Hội đồng phát triển ngân khốđược thành lập từ năm 1874, và đến năm 1892, Hội đồng này trở thành Bộ Tàichính. Chế độ thầu thuế do tư nhân đảm nhận trước đây bị bãi bỏ. Thay vào đó,các nhân viên nhà nước sẽ đảm nhận việc thu thuế, người đứng đầu mỗi vùng24thu và nộp lên Bộ Tài chính. Từ năm 1902 đến năm 1908, Chulalongkorn chotiến hành cải cách tiền tệ. Đồng Baht là đơn vị tiền giấy đầu tiên được phát hànhở Xiêm. Nhà vua còn khuyến khích tư nhân mở ngân hàng kinh doanh. Năm1904, ngân hàng thương mại Băng Cốc của người Hoa, một trong những ngânhàng lớn nhất của Xiêm ra đời. Năm 1906, vua Chulalongkorn và một số quanchức cũng thành lập ngân hàng thương mại Xiêm. Đồng thời với những cải cách liên quan đến kinh tế, xã hội, Rama V cũngtiến hành những cải cách về hành chính, luật pháp, giáo dục, tôn giáo và quân đội.Công cuộc cải cách hành chính được triển khai mạnh mẽ từ năm 1892 dohoàng thân Damrong [em trai nhà vua] tiến hành với việc cải tổ bộ máy hànhchính từ trung ương đến địa phương. Mô hình nhà nước Xiêm được cải tổ theomô hình nhà nước Đức. Vua vẫn là người đứng đầu nhà nước, có quyền lực tốicao nhưng điểm khác biệt là bên cạnh vua có hai hội đồng là Hội đồng Nhànước và Hội đồng Tư vấn. Bộ máy hành pháp truyền thống trước đây được thaythế bằng Hội đồng chính phủ gồm 12 bộ trưởng, có chức năng và quyền hạn nhưbộ máy hành pháp hiện đại theo kiểu phương Tây. Cùng với quá trình cải tổ hành chính ở Trung ương, cuối thế kỉ XIX, giớicầm quyền Xiêm cũng bắt đầu cải tổ tận gốc hệ thống hành chính địa phương.Nhằm tăng cường sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với các tỉnh vàcác vùng xa trung tâm, Chulalongkorn đã nhóm các tỉnh thành 18 monthon[vùng] do các phái viên của vua cai quản. Phần lớn những người này là anh emcủa nhà vua. Theo mô hình này, mỗi vùng được chia thành nhiều tỉnh[changwat], mỗi tỉnh lại được chia thành nhiều huyện [amphur], dưới huyện làlàng [xã] [tambol] và cuối cùng là xóm [muban]. Trong bộ máy hành chính mới này, các quan lại đều hưởng lương của nhànước. Tất cả các quan lại đều do trên cử xuống, hầu như không có bầu cử. Các25

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề