Tiến cử ấm cử thi cử là gì

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHTRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNKHOA: LỊCH SỬCÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊNCẤP TRƯỜNG NĂM 2014Tên cơng trình:TÌM HIỂU PHƯƠNG THỨC TIẾN CỬ TRONGTUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI THỜI LÊ SƠ [1428-1527]Sinh viên thực hiện:Chủ nhiệm: Đoàn Thị Quỳnh Dung, Lớp Lịch sử k38, khóa học 2012-2016Thành viên: Trần Hồi Vũ, Lớp Lịch sử k38, khóa học 2012-2016Lý Văn Trung, Lớp Lịch sử k38, khóa học 2012-2016Người hướng dẫn:Th. S. Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, Giảng viên Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử MỤC LỤCMỞ ĐẦU ....................................................................................................................................... 11.Tính cấp thiết của đề tài:.................................................................................................... 12.Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài: ............................................................................. 23.Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài: ......................................................... 54.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: ....................................................................... 85.Đối tượng, giới hạn, phạm vi nghiên cứu: ......................................................................... 86.Đóng góp mới của đề tài:................................................................................................... 97.Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:................................................................................. 98.Kết cấu của đề tài: ............................................................................................................. 9CHƯƠNG 1 ................................................................................................................................. 101.1.Sự thành lập triều Lê sơ [1428 - 1527]. ....................................................................... 101.2.Các phương thức tuyển chọn quan lại dưới thời Lê sơ. ............................................... 141.2.1.Cơ sở pháp lí của hệ thống các phương thức tuyển chọn quan lại thời Lê sơ ........... 141.2.2. Cơ sở lí luận của các phương thức tuyển chọn quan lại. ........................................... 141.2.3. Vài nét về các phương thức tuyển dụng quan lại thời Lê sơ ..................................... 17CHƯƠNG 2 ................................................................................................................................. 222.1. Một số vấn đề về phương thức tiến cử ............................................................................. 222.1.1. Nguồn gốc của phương thức tiến cử .......................................................................... 222.1.2 Một số tiêu chí cơ bản của phương thức tiến cử ......................................................... 272.2 Quá trình thực hiện phương thức tiến cử thời Lê sơ [1427 - 1528]. .................................. 292.2.1 Từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông [1428 - 1459]....................................................... 312.2.2 Từ Lê Thánh Tông đến hết triều Lê sơ [1460 - 1527]. ............................................... 37CHƯƠNG 3 ................................................................................................................................. 423.1. Một số trường hợp cụ thể sử dụng quan lại đã được tuyển chọn thông qua phương thức tiến cử....................... 423.2. Những ưu điểm của phương thức tiến cử trong việc tuyển chọn và sử dụng quan lại ở triều Lêsơ [1428 - 1527] ...................................................................................................................... 463.3. Những hạn chế của phương thức tiến cử trong việc tuyển chọn và sử dụng quan lại ở triều Lê sơ[1428-1527] ............................................................................................................................. 483.4. Một số bài học kinh nghiệm trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ hiện nay ............ 51KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 54DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 60PHỤ LỤC .................................................................................................................................... 65 TĨM TẮT CƠNG TRÌNHCơng trình “Tìm hiểu phương thức tiến cử trong tuyển chọn và sử dụng quanlại thời Lê sơ [1428-1527]” nhằm mục đích làm rõ phương thức tiến cử dưới triều Lêsơ, bao gồm các vấn đề về vị trí của phương thức tiến cử trong hệ thống các phươngthức tuyển chọn quan lại dưới triều Lê sơ, sự thay đổi và biến thiên về vị trí, hiệu quảcủa phương thức tiến cử trong mối tương quan với các phương thức khác như khoa cử,bảo cử, nhiệm cử [tập ấm] trong thời Lê sơ, từ giai đoạn đầu - khi đất nước vừa mớiđộc lập, đặt ra yêu cầu cần phải tập hợp nhân tài để phò vua giúp nước, giúp dân, chođến giai đoạn sau khi đất nước ổnđịnh.Nhóm tác giả đã làm rõ khái niệm “tiến cử”. Thơng qua việc tìm hiểu bối cảnhlịch sử của đất nước sau khi giành được độc lập và các lần ban hành các lệnh, chiếu,chỉ, lệnh liên quan tới việc tiến cử nhóm tác giả muốn chứng minh sự cần thiết và mứcđộ quan tâm của các vua dưới triều đại này đối với vấn đề tiến cử hiền tài ra phục vụđất nước. Nhóm tác giả cũng phân chia triều Lê sơ ra làm 2 giai đoạn để phù hợp choq trình nghiên cứu, đó là giai đoạn từ khi Lê Lợi lên ngôi vua năm 1428 cho đến khivua Lê Nhân Tông qua đời [1459], Nghi Dân chiếm ngôi vua, giai đoạn thứ hai là từkhi Lê Tư Thành được đưa lên ngôi vua cho tới khi triều Lê sơ bị sụp đổ năm 1527. Từlúc thành lập triều Lê sơ cho đến năm 1459, các vị vua đầu triều Lê Sơ đã thườngxuyên sử dụng tiến cử như là một trong những phương thức chính để tuyển chọn nhântài vào làm trong bộ máy quan lại. Các vị vua từ Lê Thái Tổ, Lê Thái tông cho đến LêNhân Tông đều thường xuyên ban bố các lệnh, chỉ dụ, vv… để đôn đốc, nhắc nhở việctiến cử,đồng thời cũng ban hành các quy định, luật lệ có liên quan để việc tiến hành tiến cửđược diễn ra thuận lợi và khách quan. Trong giai đoạn sau, kể từ đời vua Lê ThánhTông cho đến hết triều Lê sơ, khoa cử đã lên ngôi, trở thành phương thức chính trongviệc tuyển chọn quan lại, thơng qua khoa cử mà số lượng quan lạiđược tuyển một lần nhiều hơn so với việc tiến cử và bộc lộ những điểm tiến bộ và phùhợp hơn phương thức tiến cử, đáp ứng yêu cầu của đất nước lúc bấy giờ, do đó mà phương thức tiến cử khơng cịn là phương thức chính để tuyển chọnquan lại trong giai đoạn này nữa, và trong giai đoạn này sử sách cũng ít lần đềcập đến động thái tiến cử của triều đình. Từ việc phân chia ra như vậy, sẽ thấy rõđược sự biến thiên về vị trí, vai trị của phương thức tiến cử trong giai đoạn đầuso với giai đoạn sau của triều đại này.Trong đề tài này, do hạn chế về mặt sử liệu nên nhóm tác giả không thốngkê được số lượng các quan được tuyển chọn bằng phương thức tiến cử, nhóm tácgiả chỉ nêu lên những trường hợp cụ thể và tiêu biểu về phương thức tiến cử đượcsử sách ghi chép lại. Trong phần cuối của cơng trình, nhóm tác giả nêu lên nhữngnhận định, đánh giá của riêng nhóm về những mặt đóng góp của phương thứctiến cử đối với việc tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới triều Lê sơ, cũng nhưnêu lên một số hạn chế nhất định của phương thức này so với phương thức khoacử. Để hoàn thành cơng trình này, nhóm đề tài chủ yếu sử dụng nguồn sử liệu do2 bộ sử lớn cung cấp được, đó là “Khâm định Việt sử thơng giám cương mục”của Quốc sử quán triều Nguyễn và “Đại Việt sử kí tồn thư” của Ngơ Sĩ Liên,bên cạnh đó, nhóm cũng kế thừa kết quả các cơng trình nghiên cứu của các tácgiả đi trước có liên quan đến vấn đề này.Cơng trình “Tìm hiểu phương thức tiến cử trong tuyển chọn và sử dụngquan lại thời Lê sơ [1428-1527]” phần nào đạt được những mục tiêu đã đặt ra,làm rõ về phương thức tiến cử trong tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới triều Lêsơ. Tuy nhiên cũng còn một số hạn chế nhất định như về số lượng các quan đượctuyển chọn và sử dụng thông quan phương thức này, cũng do hạn chế về mặt sửliệu, thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm nghiên cứu nên nhóm tác giả cũngchưa làm rõ được việc tiến cử ở cấp địa phương dưới triều Lê sơ mà mới chỉnghiên cứu và nêu lên những trường hợp tiêu biểu ở triều đình trung ương. Mongrằng các tác giả, nhóm tác giả đi sau có thể làm rõ và hồn thiện hơn về vấn đềphương thức tiến cử trong tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới triều Lê sơ. 1MỞ ĐẦU1.Tính cấp thiết của đề tài:Xưa trong Bài ký đề tên tiến sĩ khoa Q Mùi [1463] có viết “phép trịnước phải lấy việc cử người tài, dùng người hiền làm gốc vậy”, quả đúng nhưvậy, một quốc gia muốn hưng thịnh thì yếu tố con người là quan trọng hơn hết.Ngày nay, đất nước trong quá trình đổi mới đi lên, yếu tố con người lại càng quantrọng. Có con người tốt, có tài năng, phẩm hạnh thì đất nước mới có “ngunkhí” để vươn lên như câu nói của Đơng các Đại học sĩ Thân Nhân Trung “hiềntài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưngthịnh, ngun khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Con người là yếu tố điềukhiển, điều hành mọi hoạt động của xã hội thơng qua bộ máy chính quyền cáccấp. Để có được bộ máy đó phải trải qua sàng lọc, tuyển chọn những người saocho phù hợp. Trong số các triều đại phong kiến nước ta, triều Lê sơ là một trongnhững triều đại được đánh giá là có một bộ máy hành chính từ trung ương đến địaphương chặt chẽ nhất. Vậy các vị vua dưới triều đại này đã làm những cách nào,bằng phương thức gì để có thể có được bộ máy hành chính như vậy?Như chúng ta đã biết, về việc tuyển chọn quan lại, đó là bước đầu tiên đểsàng lọc những người có khả năng làm quan vào bộ máy hành chính. Dưới triềuLê sơ tồn tại 3 phương thức chính, đó là khoa cử, tiến cử và tập ấm. Khoa cử triềuLê sơ được coi là đỉnh cao của nền khoa cử phong kiến Việt Nam và cũng đã córất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, còn tập ấm là việc được làm quandựa trên thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội của gia đình, dịng họ, do đó mà tínhhiệu quả của phương thức tập ấm không cao và mang nặng tính ỷ lại vào danh giavọng tộc. Cịn tiến cử, dưới triều Lê sơ vẫn tồn tại, nhưng lại có những bướcchuyển biến mạnh mẽ về cách thức tiến hành trong từng giai đoạn lịch sử cụ thểcủa triều đại.Do các cơng trình trước đây có nghiên cứu về vấn đề tiến cử nhưng lạinghiên cứu đồng thời với các phương thức khác và luôn nhấn mạnh khoa cử nênnhóm đề tài quyết định tiến hành làm đề tài “Tìm hiểu phương thức tiến cử 2trong tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Lê sơ [1428-1527]” để có thể pháchọa lại bức tranh tiến cử dưới thời Lê sơ, biết được phương thức tiến cử đã cónhững bước thay đổi như thế nào trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của đấtnước, qua đó làm rõ vai trị và vị trí của phương thức tiến cử là gì? Những ưuđiểm và hạn chế của tiến cử? Thông qua nghiên cứu phương thức tiến cử thời Lêsơ nói riêng và tiến cử trong các triều đại phong kiến nói chung, rút ra những bàihọc kinh nghiệm cho công tác đào tạo và sử dụng cán bộ của chúng ta ngày nay.2.Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài:Việc nghiên cứu về lịch sử thời Lê nói chung và các vấn đề về giáo dục,quan lại, chính trị, nói riêng ta có thể thấy có các cơng trình tiêu biểu như:Đại Việt sử ký tồn thư [bản in năm 1998 – nhà xuất bản Khoa học xãhội] của tác giả Ngô Sĩ Liên và Khâm định Việt sử thông giám cương mục[bản in năm 2007 – nhà xuất bản Giáo Dục] của các sử quan thuộc Quốc sử quántriều Nguyễn là những bộ sử lớn của nước ta, là hai cơng trình sử học mang nhiềuthông tin, tư liệu quan trọng. Tuy nhiên trong hai tác phẩm này, vấn đề tiến cửcũng như các vấn đề khác chỉ được đề cập như một sự kể lại, tường thuật lại,được trình bày dưới dạng biên niên và mang rất nhiều giá trị về mặt thông tin tracứu hay sử liệu, nhưng lại chưa đưa ra phân tích hay nhận định gì về vấn đề tiếncử, hơn nữa, vấn đề tiến cử lại được nêu lên rất ít, chủ yếu thông qua các lệnh,chiếu chỉ ban hành.Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục [bản in năm 2007 – nhà xuất bản Vănhóa thơng tin] – đây là một tác phẩm lớn, có ý nghĩa đối với nền văn hóa dân tộc,trong 8 phần hiện có là châm cảnh, thể lệ thượng, thiên chương, tài phẩm, phongvực, thiền dật, linh tích, tùng đàm. Riêng trong quyển II [Thể lệ thượng] phầnviết về quan chức, tác giả Lê Quý Đơn có đề cập “Năm Diên Ninh thứ 3, NhânTơng hạ chiếu chỉ khun răn bầy tơi có nói: “Người nhân thần phải làm hết chứctrách: đại thần thì giúp rập vua, điều hòa âm dương, tiến cử người hiền, bỏ ngườixằng bậy, để mưu tính mọi cơng việc; quản quân các vệ thì thương yêu quân sĩ, 31luyện tập võ nghệ…” . Dù vậy, việc đề cập đến phương thức tiến cử trong tuyểnchọn quan lại là rất hiếm hoi, tác giả chủ yếu đề cập và nhấn mạnh đến khoa cửthời Lê sơ và lệ bảo cử thời Lê Trung Hưng trong khi dưới thời Lê sơ thì khơngđề cập đến phương thức tiến cử cũng như những người được tiến cử.Về tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú[bản in năm 2007 – Nhà xuất bản Giáo dục] - một tác phẩm được coi như là cuốnBách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam. Bố cục của bộ Lịch triều hiến chươngloại chí gồm có 10 phần, đề cập đến hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xãhội, từ lịch sử đến chính trị kinh tế học, địa lý học, luật học, văn học, ngoại giao,quân sự, các nhân vật lịch sử và kể cả chế độ quan liêu. Trong tập 1 của bộ sách,phần III [Quan chức chí], quyển XVII, tác giả có đề cập đến đường xuất thân củacác quan và việc bổ dụng rất rành mạch và rõ ràng, tuy nhiên tác giả chỉ để cậpchủ yếu đến con đường khoa cử, cịn về con đường tiến cử thì lại được nhắc đếnrất ít.Trong tác phẩm Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sửdụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam của tác giả Phạm Hồng Tung [xuất bảnnăm 2005– nhà xuất bản Chính trị Quốc gia] đã khảo lược kinh nghiệm phát hiện,đào tạo và sử dụng nhân tài của cha ơng ta trong các thời kì lịch sử khác nhau,trên cơ sở đó rút ra được những bài học kinh nghiệm hữu ích, góp phần xây dựngluận cứ khoa học cho công tác phát triển nhân tài ở nước ta hiện nay và trongtương lai. Mặc dù trong tác phẩm này, tác giả Phạm Hồng Tung đã đề cập đếnkhá nhiều khía cạnh, từ những huyền thoại về nhân tài thời dựng nước, thời cậnđại, trung đại cho đến thời hiện đại với vấn đề Hồ Chí Minh và việc đào tạo thếhệ nhân tài dựng Đảng – cứu quốc, nhưng lại chưa đề cập đến vấn đề tiến cử mộtcách cụ thể và chi tiết. Tác giả chỉ dành 3 trang trong tác phẩm của mình để đềcập đến vấn đề tiến cử và trong phần trình bày của mình, tác giả khơng đề cậpđến tên của một nhân vật nào trong lịch sử Việt Nam đã từng được làm quanthông qua phương thức tiến cử, có chăng chỉ là nhắc đến việc Quang Trung cầuLa Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, nhưng đây lại chỉ là một ví dụ để minh chứng cho1Lê Q Đơn [2007], Kiến Văn tiểu lục, Nxb Văn hóa - Thơng tin, tr. 128. 4việc tiến cử thường được khởi đầu bằng động thái “cầu hiền”, và nếu cần một bậc2hiền tài cụ thể thì phải theo nghi lễ cụ thể nào đó .Việc nghiên cứu cụ thể về chính sách tuyển chọn và sử dung quan lại thờiLê sơ ta có thể thấy cơng trình Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời LêThánh Tông và công tác cán bộ hiện nay [xuất bản năm 2012 – nhà xuất bảnChính trị Quốc gia – sự thật] của PGS.TS. Nguyễn Hoài Văn và Thạc sĩ ĐặngDuy Thìn, cơng trình này đã tập trung làm rõ chính sách đào tạo và sử dụng quanlại dưới thời Lê Thánh Tơng, từ đó rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử thông qua liênhệ với thực tiễn công tác cán bộ hiện nay. Công trình này đã xem việc sử dụngcon người chính trị với tư cách là một hoạt động cơ bản và quan trọng trong thựcthi quyền lực chính trị, làm rõ chính sách đào tạo và sử dụng quan lại trong thờiLê Thánh Tơng dưới góc nhìn chính trị học, cung cấp tư liệu tham khảo cho việcnghiên cứu, giảng dạy về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam nói riêng và khoahọc chính trị nói chung. Trong cơng trình đó, tác giả cũng đã bước đầu nghiêncứu về phương thức tiến cử với việc nêu ra biểu hiện của nó trong việc tuyểnchọn quan lại.Cuối cùng, chúng tơi muốn nêu thêm một cơng trình đã từng đề cập rất sátđến vấn đề này, đó chính là luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử của tác giảĐặng Kim Ngọc với tiêu đề: Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời LêSơ [1428-1527], chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, bảo vệ năm 1997. Xun suốtcơng trình của mình, tác giả Đặng Kim Ngọc đã trình bày và đưa ra những đánhgiá, nhận xét về chế độ đào tạo cũng như cách thức tuyển dụng quan chức dướithời Lê Sơ. Trong chương 3: “Chế độ tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ”, mục 3.3“cách thức tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ” , tác giả đã có những trình bày vềviệc tiến cử, tuy nhiên, vì đây là một cơng trình đề cập đến hầu hết các phươngthức tuyển chọn quan lại nên tác giả đã không thực sự đi sâu làm rõ phương thứcnày, không đưa ra những trường hợp cụ thể. Hơn nữa, đề tài của tác giả Đặng2Phạm Hồng Tung [2005], Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện , đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịchsử Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 84-85. 5Kim Ngọc đã dừng lại ở việc xoay quanh các vấn đề về “chế độ đào tạo” và“tuyển dụng”, còn về việc “sử dụng” quan lại thì chưa được nhắc tới nhiều.Nhìn chung, những nhận định, đánh giá của các tác giả trong các cơngtrình được nêu trên đã làm rõ một số khía cạnh về chế độ đào tạo, tuyển chọn vàsử dụng quan chức ở nước ta qua các thời đại, trong đó có thời Lê Sơ [14281527]. Tuy nhiên, qua các cơng trình trên, phương thức tiến cử dưới thời Lê sơvẫn chưa được làm rõ, chúng ta chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể nào đểxây dựng một bức tranh hoàn chỉnh về phương thức này cũng như chưa có nhữngnhận định, đánh giá xác đáng về vị trí, vai trị, hiệu quả của nó trong hệ thống cácphương thức tuyển chọn quan lại thời Lê sơ [1428-1527].Vì vậy, đề tài Tìm hiểu phương thức tiến cử trong tuyển chọn và sử dụngquan lại thời Lê sơ [1428-1527] phần nào dựa trên việc kế thừa những phát hiện,khám phá mà các thế hệ đi trước đã để lại, mong muốn góp phần nhỏ vào hệthống kiến thức về lịch sử thời Lê sơ nói chung và góp phần làm rõ thêm vị trí,vai trị, hiệu quả của phương thức tiến cử trong hệ thống các phương thức tuyểnchọn quan lại thời Lê sơ nói riêng.3. Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:Trong lịch sử Việt Nam từ khi mới bắt đầu dựng nước đến nay, bộ máyhành chính là một trong những yếu tố quan trọng để quyết định tính ổn định vàvững bền cho sự tồn tại của một triều đại. Để cấu thành bộ máy hành chính cầncó nhiều bộ phận, trong đó, nhân tố con người là một trong những yếu tố mangtính quyết định nhất, bởi lẽ có dùng được người có tài, có tâm, có thực lực thìmới giúp ích được cho đất nước, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói “ngườicó tài mà khơng có đức là người vơ dụng, người có đức mà khơng có tài thì làmviệc gì cũng khó”. Ngay từ buổi ban đầu, nhà nước phong kiến Việt Nam nhất làtrong các giai đoạn phục hưng và phát triển mạnh mẽ của dân tộc đều coi trọngviệc đào tạo, sử dụng đội ngũ quan lại nhằm tăng cường sức mạnh của nhà nướccũng như đảm bảo hiệu quả và quyền lực của lực lượng thống trị. 6Vậy nên, làm như thế nào để có thể có được những vị quan vừa có tài vừacó đức, làm như thế nào để có thể sử dụng hiệu quả và phát huy tối đa những tàinăng, phẩm chất của các quan là điều khiến các vị vua phong kiến ngày xưa lnquan tâm. Để có thể có được một bộ máy quan lại phục vụ cho giai cấp thống trịvà phục vụ cho nhân dân, những người đứng đầu các triều đại phong kiến ViệtNam đã luôn không ngừng tìm tịi, phát hiện và sử dụng các phương thức tuyểnchọn quan lại. Theo thời gian, các phương thức này đã có những vận hành, biếnthiên khá rõ, thích ứng với các bước phát triển của bối cảnh lịch sử của từng thờivà cũng đã để lại những bài học, những kinh nghiệm quý báu. Triều Lê Sơ tronggiai đoạn tồn tại của mình [1428 - 1527], đã đạt được những thành tựu vô cùngrực rỡ trong xây dựng và phát triển đất nước, giai đoạn này được xem như giaiđoạn phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam. Gắn liền với việc pháttriển đất nước về kinh tế, chính trị, tư tưởng, củng cố thể chế chính trị quân chủtrung ương tập quyền, các vị vua đầu triều Lê đặc biệt quan tâm tới nhân tố conngười, trọng tâm là vấn đề đào tạo và sử dụng quan lại. Nhưng muốn có conngười để đào tạo và sử dụng thì phải trải qua những bước tuyển chọn kỹ lưỡng.Có thể nói dưới triều Lê, hoạt động tuyển chọn quan lại như là một hoạt động đãtrở thành “khuôn phép”, “chuẩn mực” khi so sánh trong mối tương quan với cáctriều đại khác. Nếu nhìn từ góc độ lợi ích và sự quan tâm của giai cấp thống trị thìtriều đại này cũng đã phải suy nghĩ, tìm kiếm đồng thời cũng kế thừa nhữngphương thức của các triều đại trước để tuyển dụng quan chức bằng nhiều nguồnđể phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của triều đại của mình. Trong hệ thống cácphương thức các phương thức tuyển chọn quan lại thời Lê Sơ lúc bấy giờ thì có 3phương thức chính, thường được sử sách ghi chép và nhắc đến, đó chính làphương thức tuyển chọn quan lại thông qua khoa cử, tuyển chọn bằng tiến cử vàtuyển chọn dựa vào tập ấm [hay còn gọi là nhiễm tử]. Dưới triều Lê Sơ, khoa cửlà một trong những phương thức chính để tuyển chọn đội ngũ quan lại có tàinăng, kiến thức nằm trong sự ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo, phương thứcnày được sử dụng và đạt được hiệu quả cao nhất trong việc tuyển chọn quan lạivào thời Lê Thánh Tông [1460-1497]. Vào đầu triều Lê, lúc đất nước vừa mớigiành được độc lập, tình hình đất nước cịn khó khăn về nhiều bề, nhà Lê đã ưu 7tiên sử dụng phương thức tiến cử bên cạnh việc ban thưởng và ban chức tướcbằng phương thức tập ấm để bổ sung quan lại và ổn định bước đầu bộ máy nhànước.Hiện nay, dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề tuyểnchọn và sử dụng quan lại nhưng chưa thực sự có một cơng trình nào đi sâu nghiêncứu phương thức tiến cử trong tuyển chọn quan lại thời triều Lê sơ một cách cóhệ thống để nêu bật lên bức tranh tồn cảnh về hoạt động tuyển chọn quan lại lúcbấy giờ. Đó là lí do để nhóm chúng tơi thực hiện đề tài: “Tìm hiểu phương thứctiến cử trong tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Lê sơ [1428-1527].Mục tiêu của đề tài:Thực hiện đề tài nghiên cứu về vấn đề phương thức tuyển chọn quan lạitheo hình thức tiến cử, nhóm tác giả muốn hướng đến các mục tiêu sau:- Phác họa lại một trong những phương thức tuyển chọn và sử dụng nhântài dưới các triều đại phong kiến của Việt Nam, đặc biệt dưới thời Lê sơ [1428 1527], một trong những thời kì rất trọng dụng nhân tài.- Tìm hiểu về vị trí phương thức tuyển chọn quan lại thông qua tiến cửtrong hệ thống các phương thức tuyển chọn quan lại và tìm hiểu về hiệu quả củaphương thức này trong việc tuyển chọn nhân tài nói riêng và trong việc xây dựng,phát triển đất nước thời Lê sơ nói chung.- Tìm hiểu về sự thay đổi và biến thiên về vị trí, hiệu quả của phương thứctiến cử trong mối tương quan với các phương thức khác như khoa cử, bảo cử,nhiệm cử [tập ấm] trong thời Lê sơ, từ giai đoạn đầu - khi đất nước vừa mới độclập, đặt ra yêu cầu cần phải tập hợp nhân tài để phò vua giúp nước, giúp dân, chođến giai đoạn sau khi đất nước ổn định, và Nho giáo trở thành hệ tư tưởng độc tônchỉ đạo nền giáo dục nước nhà.Nhiệm vụ của đề tài:Phác họa lại một trong những phương thức tuyển chọn và sử dụng nhân tàidưới các triều đại phong kiến của Việt Nam. 8Xác định được vị trí của phương thức tuyển chọn quan lại thông qua tiếncử trong hệ thống các phương thức tuyển chọn quan lại và xác định được tínhhiệu quả của phương thức này trong việc tuyển chọn nhân tài nói riêng và trongviệc xây dựng, phát triển đất nước thời Lê sơ nói chung.Nhận định được sự thay đổi và biến thiên về vị trí, hiệu quả của phươngthức tiến cử trong mối tương quan với các phương thức khác như khoa cử, bảocử, nhiệm cử [tập ấm] trong thời Lê sơ.Một báo cáo khoa học hoàn chỉnh đạt được những mục tiêu đã đề ra.Hoàn thiện các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tìm tài liệu và kỹ năngtổng hợp, phân tích, đánh giá, bước đầu tiếp cận với nghiên cứu khoa học.4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:Cơ sở lý luận:Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận:Các bộ chính sử lớn của nước ta từ thời phong kiến để lại có đề cập đếnviệc tuyển chơn và sử dụng quan lại dưới triều Lê sơ.Các cơng trình khoa học, các bài báo được đăng trên các tạp chí khoa họcvà các tạp chí chuyên ngành và tập san khoa học về vấn đề tuyển chọn và sử dụngquan lại dưới triều Lê sơ và của các triều đại trước và sau triều Lê sơ.Phương pháp nghiên cứu:Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và logic. Phương pháp lịch sử được sửdụng nhằm nghiên cứu về “bức tranh” các sự kiện, quy trình tiến cử, bối cảnh lịchsử xã hội lúc bấy giờ. Phương pháp logic được sử dụng khi nghiên cứu về bảnchất của sự thay đổi, biến thiên về vị trí, hiệu quả của phương thức trong mốitương quan với các phương thức khác. Ngồi ra, nhóm tác giả còn sử dụngphương pháp khác như so sánh, phân tích khi đưa ra nhận định, đánh giá.5.Đối tượng, giới hạn, phạm vi nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc tuyển chọn và sử dụng quan lạidưới triều Lê sơ. 9Khi nghiên cứu về đề tài “Phương thức tuyển chọn quan lại thời Lê sơ[1428-1527]”, về mặt thời gian chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu trong triềuLê sơ [1428 - 1527] là phần trọng tâm nhất, ngoài ra để có cái nhìn tổng qt hơnvà để dễ nhìn thấy mối tương quan giữa các phương thức tuyển chọn quan lại thờiLê sơ với các triều đại phong kiến khác, chúng tôi đã mở rộng phạm vi đề cậpsang các triều đại khác, đặc biệt là các triều đại phong kiến trước triều Lê sơ. Vềphạm vi nội dung nghiên cứu, chúng tôi tập trung đi sâu, nghiên cứu kỹ một trongnhững phương thức tuyển chọn quan lại đã tồn tại lâu đời và được sử dụng kháliên tục trong các triều đại phong kiến đó chính là phương thức tuyển chọn quanlại bằng tiến cử.6.Đóng góp mới của đề tài:Đưa ra được các trường hợp cụ thể của việc tuyển chọn và sử dụng quanlại bằng phương thức tiến cử dưới triều Lê sơ.Hệ thống lại các thông tin về phương thức tiến cử dưới triều Lê sơ để tạonên một bức tranh cụ thể về phương thức tuyển chọn quan lại thời này.7.Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:Góp thêm tư liệu cho viêc nghiên cứu vấn đề về triều Lê sơ, nhất là tronghệ thống tư liệu liên quan đến các phương thức tuyển chọn quan lại.Tạo thêm tài liệu cho quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên trongvà ngoài nhà trường.8.Kết cấu của đề tài:Dựa trên nội dung và mục tiêu nghiên cứu, đề tài được cấu trúc thành cácchương sau:Chương 1: Triều Lê sơ và chính sách tuyển dụng quan lạiChương 2: Tuyển dụng quan lại qua phương thức tiến cử dưới triều Lê sơChương 3: Nhận xét 10CHƯƠNG 1TRIỀU LÊ SƠ VÀ CHÍNH SÁCH TUYỂN CHỌN QUAN LẠI1.1.Sự thành lập triều Lê sơ [1428 - 1527].-Khi trn [1418 - 1427].Có thể nói, ngay từ buổi đầu của cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi đã biết trọngdụng người tài. Bằng nhiều hình thức chiêu mộ khác nhau, Lê Lợi đã nhanhchóng quy tụ được các bậc anh tài đến từ khắp các vùng, miền trong cả nước vớinguồn gốc xuất thân, hồn cảnh khác nhau: có dịng dõi khoa bảng như NguyễnTrãi; có tiếng văn chương như Lê Văn Linh; là con thứ dân đi buôn như LưuNhân Chú; là người chăn trâu như Trịnh Khả, Nguyễn Chích; làm nghề chài lướinhư Nguyễn Thận,… Hầu hết trong số đó là các văn thần võ tướng sau này củanhà Lê sơ. Trong quá trình diễn tiến của cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi cẩn trọng chọn 11người giao việc, cốt để phát huy hết năng lực riêng biệt của từng cá nhân, đồngthời thơng qua đó cũng phát hiện thêm người hiền tài ra giúp đất nước đang lúcgặp nhiều khó khăn.Tháng 4 năm 1427, trong khi đem qn bao vây thành Đơng Quan, LêLợi nói rằng: “Ta khơng có tài dung, trí tuệ, một mình gánh vác công việc nặngnề, sợ không làm nổi, cho nên phải nhún mình cầu hiền, dốc lịng trọng sĩ, cùngmưu việc lớn, để cứu vớt sinh dân. Ai tiến cử được người mưu trí dung lược hơn3người hoặc tự tiến cử mình thì đều làm quan cao, tước trọng” .Trong chiếu dụ hào kiệt trong cả nước, Lê Lợi cũng thể hiện mongmuốn cầu hiền của mình: “Nếu có ai khí tiết thanh cao như Tứ Hạo, lánh đời ẩntích như Tử Phịng cũng hãy ra cứu nạn cho dân đã, đợi khi thành cơng, muốn4thỏa chí xưa thì lại trở về rừng núi, không hề cấm giữ” .Điều đó cho thấy, trọng hiền, cầu hiền ngay từ buổi đầu đã là điều đượcLê Lợi chú trọng. Đặc biệt, Lê Lợi xem tiến cử và tự tiến cử là phương thức chínhđể phát hiện người tài trong giai đoạn này.---34Ngơ Sĩ Liên [1998] Đại Việt sử kí tồn thư, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, tr. 268.Ngô Sĩ Liên [1998] Đại Việt sử kí tồn thư, tập 1, sđd, tr. 270.- 1788]. 12.--ệVề chính trị: sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống quân Minhxâm lược, vua Thái Tổ xây dựng bộ máy cai trị đất nước của mình dựa trênnhững bậc “khai quốc công thần”. Để làm cơ sở cho việc tuyển bổ quan lại, nhàLê sơ đã cho ban hành “Lê triều quan chế”. Càng về sau, hệ thống quan lại củatriều Lê sơ càng trở nên hoàn chỉnh hơn với nguồn quan lại được tuyển dụng từnhiều phương thức, trong đó chủ yếu là từ khoa cử. Chính điều đó giúp cho chấtlượng nguồn quan lại cũng được tăng lên. Một trong những thành tựu tiêu biểucủa triều đại này đó là việc cho ra đời bộ “Quốc triều hình luật” hay cịn gọi làluật Hồng Đức dưới thời vua Lê Thánh Tơng.Về xã hội: nhờ những chính sách cai trị phù hợp và bộ luật Hồng Đức,đời sống nhân dân ta dưới thời Lê sơ luôn ổn định. Ca dao xưa từng có câu rằng:“Đời vua Thái Tổ - Thái TơngThóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn” 13Có thể thấy, nhờ kinh tế phát triển mà đời sống nhân dân được cải thiện.Những bất công xã hội cũng được giảm bớt nhờ những đạo luật nghiêm khắctrong luật Hồng Đức. Ngoài ra, loạn lạc ở thời này cũng rất ít khi xuất hiện.Đặc biệt, nước ta dưới thời vua Lê Thánh Tơng được xem là thời kì thịnh trị tronglịch sử. Mặt khác, nhà Lê, nhất là thời vua Lê Thánh Tông ra sức đề cao kẻ sĩnhững người có kiến thức Nho học. Từ khi cịn là học trò cho đến lúc thành đạt,vinh quy bái tổ thì kẻ sĩ ln được hưởng cả danh và lợi với mức độ ngày càngcao, khiến họ xác định được lí tưởng rõ ràng và kiên địVề tư tưở5.Từ thời Trần, nội dung đề thi ở các cuộc thi Thái học sinh đã bắt đầu liên quan đếnNho học nhưng phải đến thời Lê sơ thì khoa cử mới thật sự phát triển và mang nộidung của giáo dục Nho học. Sự phát triển của Nho học đã kéo theo sự phát triển vàvươn lên của phương thức tuyển chọn quan lại thông qua khoa cử577ớc cách mạng tháng Tám - 1945 141.2.Các phương thức tuyển chọn quan lại dưới thời Lê sơ.1.2.1. Cơ sở pháp lí của hệ thống các phương thức tuyển chọn quan lạithời Lê sơTổ chức và hoạt động của hệ thống các phương thức tuyển chọn quanlại thời Lê sơ được dựa trên những văn bản pháp luật ban hành đương thời. Cuthể là các văn bản:- Luật Hồng Đức: gồm 144 điều quy định về tổ chức hệ thống quan lại,quyền và nghĩa vụ của quan lại.- Lê triều hội điển: quy định về ngạch bậc, quyền lợi và nghĩa vụ củacác quan lại trong Lục bộ.- Lê triều quan chế: quy định về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạtđộng của hệ thống quan lại.- Thiên Nam dư hạ tập: quy định về chế độ đãi ngộ quan lại.Ngồi ra cịn có các văn bản [chiếu, chỉ, lệnh,…] quy định về quyền,nghĩa vụ, khảo khóa, đào tạo, tuyển dụng quan lại.Có thể thấy, hệ thống các phương thức tuyển chọn quan lại thời Lê sơđược tổ chức hoạt động theo những quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bảnluật lệ chính thức của triều đình. Đó là cơ sở pháp lí, tiền đề cho sự phát triển củahệ thống quan lại thời Lê sơ.1.2.2. Cơ sở lí luận của các phương thức tuyển chọn quan lại.6. Thực ra thì từ thời Bắc thuộc[179 TCN], khi văn hóa Trung Quốc ảnh hưởng mạnh mẽ vào Việt Nam thì giáodục Nho giáo cũng bắt đầu hình thành ở nước ta, đặc biệt là từ thời Sĩ Nhiếp[136- 226]. Nhưng thực sự phải đến triều Lê sơ thì giáo dục Nho giáo mới chiếmđược vị trí độục đích lớn nhất của nền giáo dục Nho giáo là đàotạo nên những con người tài năng, đức độ, nguyện một lịng “trung qn ái quốc”.“Nho giáo ln quan niệm “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, để có một đất nước6ớc cách mạng tháng Tám - 1945, sđd, tr. 77. 15hưng thịnh theo hình mẫu lí tưởng dưới thời vua Nghiêu, Thuấn bên Trung Hoathì cần phải có thật nhiều hiền tài, nghĩa sĩ phị giúp vua trong cơng cuộc cai trị7đất nước” . Hiền tài theo quan niệm của Nho giáo là những người có trình độ,am hiểu được đạo lí sách Thánh hiền, có đức độ theo chuẩn mực của Nho giáo.Giáo dục Nho giáo đi theo các bước cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân,tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là nhằm mục đích đào tạo ra những người có đủ tàiđức theo tiêu chuẩn của Nho giáo là: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Trong gia đình thìcó thể qn xuyến, chu đáo việc nhà, ra ngồi thì có đủ tâm lực và trí tuệ phụngsự triều đình, giúp nhà vu cai trị đất nước, xây dựng một vương triều, một quốcgia hung cường, thái bình.Nền giáo dục Nho giáo được phổ biến và phát triển thông qua hệ thốngtrường học công và tư. Trường cơng do triều đình lập nên và thường được đặt tạikinh đô và trung tâm của các phủ, huyện. “Quốc tử giám” là trường công đâutiên được lập nên dưới triều vua Lý Nhân Tông vào năm 1076 tại Thăng Long.Năm 1253, vua Trần Thái Tông thành lập “Quốc học viện” để giảng dạy “Tứthư, Ngũ kinh”. Còn ở thời Lê sơ, vào năm 1483, vua Lê Thánh Tơng mở nhàThái học và lập Thư viện. Ngồi ra, ở các lộ, phủ cịn có các Học qn. “Nhữngtrường công này thường dành cho đối tượng là các con cháu hồng tộc hay quan8lại trong triều, tại đây có những chức quan chuyên phụ trách việc giảng dạy” .Còn các trường tư thì mở tại các làng, xã hoặc tại gia bởi những nhà Nho có chữnghĩa. Con em nơng dân làng xã đều có quyền theo học.Sách vở giảng dạy trong các trường này hầu như chủ yếu là của các nhàhiền triết Nho giáo Trung Hoa. Các sách như: “Tam tự kinh”, “Minh đạo giahuấn”, „Hiếu kinh”,… vừa nhằm dạy chữ cho học trò, vừa dạy lễ nghĩa và cácquy phạm đạo đức, ứng xử trong gia đình, xã hội theo triết lí Nho giáo. Cịnnhững sách như: “Tứ thư”, “Ngũ kinh” giúp người học thấu hiểu nghĩa lí củaNho giáo, cung cấp các kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội, đạo lí để có đủ nănglực tham dự các kì thi và giúp vua trị nước sau khi đỗ đạt.7Phạm Hồng Tung [2005] Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử ViệtNam, sđd, tr. 58.8Phạm Hồng Tung [2005], Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sửViệt Nam, sđd, tr. 61. 16Cùng với sự phát triển của nền giáo dục Nho giáo, chế độ tuyển chọnquan lại cũng thay đổi dần từ hình thức tiến cử ban đầu sang chế độ khoa cử chophù hợp. Lệ khoa cử có từ thời vua Lý Nhân Tông với khoa thi năm 1072 vàđược duy trì qua các triều đại Trần, Hồ với tên gọi là kì thi Thái học sinh. Nhưngphải đến triều Lê sơ, thời vua Lê Thánh Tơng thì khoa cử mới được quy định rõràng và hoàn chỉnh nhất. Lệ thi cử gồm ba kì: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Ở mỗikì thi, các thí sinh phải trải qua 4 trường gồm: thi Kinh nghĩa, thi Pháp luật, thilàm thơ phú, thi văn sách.Với việc hệ tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí độc tơn trong nền giáo dụcphong kiến Việt Nam thì bất kì triều đại phong kiến nào của nước ta cũng có tưtưởng trọng người hiền tài. Mỗi triều đại, mỗi đời vua lại có những chính sáchtuyển chọn và đãi ngộ nhân tài khác nhau. Ở thời Lê sơ, bên cạnh những khoa thichính thức theo lệ ba năm một lần, nhà vua vẫn cho tổ chức một số khoa thi bấtthường theo phép cầu hiền để kén chọn người hiền ra làm quan, phụng sự triềuđình. Mặc dù từ thời nhà Lý việc trọng dụng các trí thức Nho giáo đã xuất hiện,tuy nhiên cũng phải thời Lê sơ, đặc biệt là triều vua Lê Thánh Tơng thì tầng lớpnày mới thực sự là nguồn bổ sung quan lại chủ yếu nhất, tham gia trực tiếp vàobộ máy thống trị của triều đình. Bên cạnh khoa cử, thì tiến cử cũng là phươngthức được các triều đại chú ý đến. Với tư tưởng trọng hiền, các vị vua sau khi lênngôi thường ban chiếu cầu hiền nhằm kêu gọi các hiền tài ra giúp dân, giúp nướchoặc những ai phát hiện nhân tài có quyền tiến cử với triều đình. “Người hiền tàiđược thu nạp thường không bị quy định về tuổi tác hay nguồn gốc xuất thân,miễn là chứng minh được tài năng của mình về một lĩnh vực hay cơng việc nào9đó, đồng thời tuyệt đối trung thành với nhà vua” . Trong việc tiến cử nhân tài,nếu quan lại nào tiến cử người khơng có thực tài hay vì tư lợi riêng, gây hậu quảxấu, ảnh hưởng đến việc triều chính đều bị luận tơi, nghiêm trị theo phép nước.Thậm chí việc này còn được ghi lại và quy định cụ thể trong luật Hồng Đức. Bêncạnh việc tuyển các nhân tài mới, các triều đình cịn tiếp tục thừa nhận và xemtrọng nguồn nhân lực mà đời vua trước để lại. Trọng dùng người tài thật sự trở9Phạm Hồng Tung [2005], Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sửViệt Nam, sđd, tr. 61. 17thành một nguyên tắc vàng trong việc xây dựng bộ máy Nhà nước chính nhờ tưtưởng trị dân, trị nước dựa trên đạo đức và tri thức của Nho giáo. Và tư tưởng ấycũng là con đường chính trị mà hầu như triều đại phong kiến nào cũng muốnhướng đến. Nhà Nho học Thân Nhân Trung từng nói: “Hiền tài là ngun khíquốc gia”. Có thể thấy trọng hiền là nguyên tắc chính trị cơ bản nhất và đượcNho giáo đề cao. Vì thế, ở thời nào thì việc tiến cử, đào tạo, tuyển chọn và sửdụng nhân tài cũng được xem là việc cốt lõi nhất trong thuật trị nước.Việc tuyển chọn nhân tài trên cơ sở từ nền giáo dục Nho học có nhiềuưu điểm nhưng cũng tồn tại khơng ít hạn chế. Ảnh hưởng tích cực nhất của nóchính là tư tưởng “trọng hiền”, tơn vinh những người có học. Bên cạnh đó là quanniệm bình đẳng xã hội trong giáo dục và thi cử rằng dù xuất thân từ tầng lớp nàotrong xã hội thì mọi người đều có thể học tập và vươn tới đỉnh cao của tri thức; tưtưởng “trung quân ái quốc” không chỉ thể hiện lịng trung thành phụng sự triềuđình mà cịn là ý thức tự nhiệm, có trách nhiệm cao của tầng lớp trí thức trướcvận mệnh dân tộc và đất nước.Tuy nhiên, bên cạnh vẫn còn những tác động tiêu cực của nó. Đó khơngchỉ là nếp nghĩ, lối học khoa trương, câu nệ về hình thức, sáo rỗng, học thuộclòng mà còn là lối tư duy nặng giáo điều, cố chấp, khuôn sáo, xa rời với thực tếcuộc sống. Nhưng hạn chế lớn nhất của giáo dục Nho học phải kể đến tính phiếndiện của nó. Với những nội dung giáo dục giới hạn trong khuôn khổ các tri thứcchính trị, xã hội, đạo lý theo quan điểm Nho giáo, nền giáo dục cũ đã bỏ sót mộtmảng tri thức quan trọng là các tri thức về khoa học tự nhiên, con người và xãhội. Vì vậy mà tuyển chọn nhân tài bằng khoa cử nói riêng và nền giáo dục Nhogiáo nói chung cũng mang tính chất hết sức phiến diện.1.2.3. Vài nét về các phương thức tuyển dụng quan lại thời Lê sơ-Về khoa cử:Khoa cử dần trở thành con đường chính thống đào tạo và tuyển chọnđội ngũ quan lại cung cấp cho bộ máy quan liêu của Nhà nước quân chủ thời Lêsơ nói riêng và các triều đại phong kiến Việt Nam về sau. Nhưng thật sự phải đếnđời vua Lê Thánh Tông thì lệ thi cử mới được thống nhất thành một chỉnh thể 18hồn chỉnh gồm 3 kì thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thi Hương được tổ chứctại các thừa tuyên, gồm bốn trường: kinh nghĩa, pháp luật, thơ phú và văn sách.“Kì thứ nhất thì Tứ thư, kinh nghĩa gồm 5 bài. Kì thứ hai thi chiếu, chế, biểudùng cổ thể hay tứ lục. Kì thứ ba thi thơ, dùng Đường luật, phú dùng cổ thể hayLy Tao, văn tuyển, từ 300 chữ trở lên. Kì thi thứ tư thi một bài văn sách, đầu đề10hỏi về kinh, sử hay việc đương thơi, hạn 1000 chữ” . “Người đỗ ở trường mộtmới được thi trường hai, đỗ trường hai mới được thi trường ba, đỗ trường ba mớiđược thi trường bốn. Thi Hội được tổ chức ở kinh đô, người đỗ bốn kì thi hươngmới được thi kì thi Hội. Thi Hội cũng gồm bốn trường như thi Hương nhưng vớimức độ khó hơn. Người đỗ ở bốn kì thi Hội mới được vào dự kì thi Đình. Đề thi11Đình thường do vua ra với những câu hỏi xoay quanh vấn đề về đạo trị nước” .Số lượng lấy đỗ cũng do nhà vua quyết định, tuy nhiên, thường là rất ít. Ngồi ra,thời vua Lê Thánh Tơng cịn định ra danh hàm và phẩm hàm cho những người thiđỗ đạt. Trong đó thi Đình chia làm ba hạng: hạng nhất [cịn gọi là “Tam khơi”,gồm: Trạng ngun, Bảng nhãn, Thám hoa], hạng nhì [gọi chung là Hồng giáp]và hạng ba [gọi chung là Tiến sĩ]. Đồng thời, vua Lê Thánh Tơng cịn quy địnhkhá cụ thể và chi tiết về quy định thể lệ và kỉ luật thi cử trong bộ luật Hồng Đứcnhằm nghiêm trị những kẻ gian dối trong thi cử.Khoa cử đã làm dấy nên một phong trào hiếu học sơi nổi và rộng khắptrong tồn đất nước. Nhờ sự phát triển của khoa cử mà ở thời Lê sơ đã phát hiệnđược rất nhiều những nhà chính trị tài năng cho đất nước. Chính họ là “ngunkhí quốc gia”, những người tạo nền móng và góp phần to lớn chung đúc nên nềnvăn hiến Đại Việt rực rỡ dưới thời đại Lê sơ. Tuy nhiên, khoa cử vẫn tồn tạinhững hạn chế nhất định. Đó là việc hình thành lối học vong bản, thiếu thực tế,đồng thời là nhân sinh quan bảo thủ, định kiến.-Về tiến cử, bảo cử:Bên cạnh khoa cử thì tiến cử là một trong những phương pháp mà cáctriều đại phong kiến nước ta thường dùng để tuyển dụng nhân tài. Nó được xemnhư là biện pháp bổ sung cho khoa cử. Bởi thế cho nên nó khơng được áp dụng1011Ngơ Sĩ Liên [1998], Đại Việt sử kí tồn thư, tập 1, sđd, tr. 396.Lê Đức Tiết, [2007], Lê Thánh Tông- vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 51 19định kì mà thường trong những hồn cảnh nhất định, cấp bách như: khi xã tắc lâmnguy hoặc lúc vương triều mới được gây dựng, cịn nhiều khó khăn,.. Lúc nàynhà nước quân chủ cần bổ sung gấp một lực lượng nhân tài có năng lực chođội ngũ quan lại trong triều đình. Mặt khác với chính sách “chiêu hiền, đãi sĩ”này nhà nước quân chủ sẽ củng cố thêm được lịng dân, nâng cao uy tín cho triềuđình. Có hai loại tiến cử bao gồm:- “Tiến cử người hiền tài chưa từng tham chính hoặc đã tham chính12nhưng là ở vương triều cũ, hiện không đảm nhiệm chức vụ nào trong triều” .- “Tiến cử người hiền tài đang tham chính vào một cương vị, chức vụ13phù hợp, xứng đáng hơn” .Ở những triều đại trước, đặc biệt là ở triều Lý và Trần, khi mà phươngthức tuyển dụng quan lại bằng con đường khoa cử vẫn chưa phát triển và đạt đếnsự chuẩn mực thì tiến cử được xem là phương thức chính và chủ yếu được sửdụng trong thời kì này.Dưới thời Lý, để có đội ngũ quan lại phục vụ triều đình, nhà Lý đã ápdụng nhiều phương thức. Tuy nhiên các phương thức chủ yếu gồm: tuyển cử,nhiệm tử và nộp tiền.Việc tiến cử người hiền tài dưới thời Lê sơ được quy định cụ thể trongluật Hồng Đức. Theo đó, người đứng ra tiến cử phải lấy tước vị, phẩm hàm củamình ra đảm bảo với nhà Vua rằng người được tiến cử có đủ tài năng và đức độđể đảm nhiệm vị trí được giao phó. Đồng thời, việc tiến cử chỉ được tiến hành đốivới những chức danh nào bị khuyết. Để tiến cử một người nào, thì người tiến cửphải lập hồ sơ về người đó rồi trình lên cho bộ Lại xem xét và trình vua duyệt.Nếu tiến cử đúng người tài giỏi, đắc dụng thì người có cơng tiến cử sẽđược trọng thưởng, ngược lại sẽ bị biếm phạt nặng. Chế độ tiến cử cũng đã trởthành một chính sách quan trọng dưới thời Lê sơ nói chung và Lê Thánh Tơngnói riêng, giúp triều đình khơng bỏ sót nhân tài. Nhà sử học Phan Huy Chú đã cónhận xét như sau: “Lệ bảo cử mới đặt ra từ thời Hồng Đức. Bấy giờ việc làm ấy12Phạm Hồng Tung [2005], Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sửViệt Nam, sđd, tr. 84.13Phạm Hồng Tung [2005], Khảo lược về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịchsử Việt Nam, sđd, tr. 84. 20thận trọng mà trừng phạt lại nghiêm cho nên không ai dám bảo cử thiên vị. Cácchức đều xứng đáng. Rốt cục thu được hiệu quả là chọn được người hiền tài.”-14Về tập ấm:Tập ấm không phải là cách thức quan trong nhất để tuyển chọn nhân tài.Tục tập ấm đã có từ các thời trước nhưng đến thời Lê sơ thì mới có quy tắc cụthể. Theo đó thì: “các con và cháu đích tơn của các vị trong hoàng tộc, contrưởng các quan văn võ từ nhất phẩm đến bát phẩm nếu được xét là có khiếu15chăm học thì sẽ được vào Chiêu văn quán” . Với lệ ba năm một lần thì quan Tưhuấn của Chiêu văn quán có trách nhiệm tâu bày về đức độ và năng lực của concháu các vị quan lại, người trong hồng tộc sau thời gian được tuyển vào đây, sauđó trình lên bộ Lễ để tổ chức một kì thi khảo. Ai vượt qua được kì thi nay sẽđược bổ vào các chức thư lại. Muốn được bổ nhiệm làm quan thì cũng phải trảiqua các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình.Riêng đối với những nhà gia thế, triều đình có chính sách khuyến khíchcon cháu họ học tập, để phục vụ cho việc bồi dưỡng và tiến thân. Với quan niệmcủa chính quyền phong kiến thì con nhà gia thế sẽ có điều kiện để phát triển hơn,đồng thời tin tưởng hơn về nguồn gốc xuất thân. Dưới thời Hồng Đức đã từngđịnh lệ như sau: “Con cháu quan viên đi thi hội trúng ba kì, sung vào thượng xásinh, mỗi người mỗi tháng được cấp một quan tiền, trúng hai kì, sung vào trungxá sinh, mỗi người được cấp mỗi tháng chín tiền, trúng một kì, sung vào hạ xá16sinh, mỗi người mỗi tháng được cấp tám tiền, mỗi xá 100 người” . Có thể nói,tập ấm là biện pháp giúp nhà vua thể hiện sự khoản đãi với những người trongHoàng tộc, đồng thời cho thấy lịng tri ân các vị cơng thần triều đình nhưng cũngngăn chặn được việc cậy quyền, cậy thế của con cháu các vị quan lại hay ngườitrong hồng tộc.Tóm lại, cả ba phương thức tuyển chọn quan lại đều có những vai tròkhác nhau ứng với từng thời điểm lịch sử khác nhau của vương triều Lê sơ. Đồngthời, được triều đình Lê sơ quy định cụ thể và sử dụng hợp lí, phù hợp với đặc14Phan Huy Chú [2007], Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, sđd, tr. 690.15Lê Đức Tiết, [2007], Lê Thánh Tông- vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại, sđd, tr. 65.16Lê Quý Đôn [2007], Kiến văn tiểu lục, Nxb Trẻ, tr. 121. 21điểm tình hình của từng thời điểm khác nhau. Giai đoạn đầu, khi mới thành lậpvương triều, các vua Thái Tổ, Thái Tông đặc biệt chú ý đến việc tuyển chọn quanlại thông qua phương thức tiến cử. Bên cạnh đó đã bắt đầu tổ chức ngày càngnhiều và càng thường xun các kì thi Nho học một cách có hệ thống để chọn lựanhân tài. Chỉ khi đến đời vua Lê Thánh Tơng thì khoa cử mới thực sự trở thànhphương thức chính trong việc tuyển chọn quan lại cho triều đình.

Video liên quan

Chủ Đề