Thi sách là chồng của ai

15:12, 05/03/2017 [GMT+7]

* Tôi nghe nói các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số cứ liệu chứng minh rằng tên họ hai Bà Trưng và cả chồng bà Trưng Trắc thực tế không như cách trước đây ta thường biết. Xin quý báo nói thêm về vấn đề này. [Trần Hoàng Trang, Hải Châu, Đà Nẵng].

- Về tên họ hai Bà Trưng, tác giả bài viết Phó Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội: “Hai Bà Trưng làm gì có họ” đăng trên //giaoduc.net.vn [Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam] ngày 20-8-2014 đã dẫn lời PGS.TS Phạm Quốc Sử - nguyên giảng viên Khoa Lịch sử, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, đang công tác tại Bảo tàng Hồ Chí Minh như sau:

“Các nhà dân tộc học cho rằng từ Trưng là từ “trứng” mà ra. Trứng chắc là loại trứng tốt, trứng nhị ở đây là “nhì” bởi ngày xưa bộ tộc thường hay phân biệt trứng loại A, loại B như ngày nay chúng ta vẫn phân biệt. Do đó tên Trứng chắc và Trứng nhì ra tên Trưng Trắc và Trưng Nhị”.

Cũng bàn về tên của hai Bà Trưng, theo PGS Nguyễn Khắc Thuần trong sách Danh tướng Việt Nam, có nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt Nam, tương tự như cách đặt tên theo các loài cá của các vua nhà Trần sau này vốn xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là “kén chắc”, tổ kén kém hơn gọi là “kén nhì”; trứng ngài tốt gọi là “trứng chắc”, trứng ngài kém hơn gọi là “trứng nhì”. Do đó, theo sách Danh tướng Việt Nam, tên hai bà vốn rất giản dị là Trứng Chắc và Trứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi là Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Về tên họ của chồng bà Trưng Trắc, trong sách đã dẫn, PGS Thuần cho rằng: “Tên của ông Thi Sách, theo một số tư liệu Trung Quốc được xác định: chồng bà Trưng Trắc tên là Thi”.

Bài viết Về tên chồng bà Trưng Trắc đăng trên //www.vusta.vn [Trang tin điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam] ngày 23-2-2011, giải thích cụ thể hơn.

Theo đó, sách Đại Việt sử ký toàn thư [phần “Ngoại kỷ” quyển 3 tờ 2a], được bộ Việt Sử Thông giám Cương mục dựa vào đó chép lại [phần “Tiền biên”, quyển 2 tờ 10] rằng chồng bà Trưng tên là Thi Sách. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “… tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng, huyện Mê Linh, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Châu Diên”.

Tuy nhiên, sách Thủy Kinh Chú được Lịch Đạo Nguyên [472 - 527] viết sau khi sang đất Việt cổ đến thăm vùng Mê Linh có chép chuyện Hai Bà Trưng: “… Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh Lạc tướng, nữ tử danh Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tậu nhập Cẩm Khê…” [Nghĩa là: Con trai của Lạc tướng Châu Diên tên là Thi, hỏi [sách] con gái Lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ… [Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem đánh, [ông, bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê…”.

Trong câu “… Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh Lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê”. [Con trai của Lạc tướng Châu Diên tên là Thi, hỏi [sách] con gái Lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ], nếu Thi Sách là họ và tên thì vế thứ nhì của câu này thiếu động từ, trở nên tối nghĩa. Tác giả Lịch Đạo Nguyên dùng tên Trắc, vậy chữ Thi theo sau đó cũng phải là tên chứ không thể là họ… Lịch Đạo Nguyên đã đến Mê Linh vào thế kỷ thứ VI và phát hiện tên chồng bà Trưng Trắc tên là Thi, vậy tốt nhất nên trở về đúng tên ban đầu của chồng bà Trưng Trắc, tức là ông Thi.

Lâu nay chúng ta vẫn đinh ninh tên chồng Nữ vương Trưng Trắc là Thi Sách. Sách giáo khoa môn Sử dạy trong các trường học và tên đường phố ở nhiều tỉnh, thành phố đều ghi như vậy. Sự thật, đã lâu lắm rồi, nhiều học giả đã phát hiện không phải như vậy. Người đầu tiên đặt nghi vấn này là GS Vương Hoàng Tuyên [Nhà giáo, Nhà dân tộc học]. Với những cứ liệu lịch sử đáng tin cậy, nhiều sử gia đã khẳng định chồng bà Trưng Trắc tên là Thi [chứ không phải là Thi Sách].

ĐNCT

Với tâm thức chép sử để làm gương, lịch sử cũng phản ánh tâm lý và xúc cảm của người viết. Vì vậy, ngoại trừ các tác phẩm hoàn toàn chép lại, mỗi bộ sử đều mang dấu ấn cá nhân người viết. Đó là góc nhìn riêng của họ với các sự kiện trong quá khứ. Chính thái độ yêu, ghét cảm tính này khiến lịch sử dễ sai lệch.

Ở đây ta sẽ bàn đến ví dụ về ghi chép gốc bị biến đổi cho phù hợp với tư tưởng của người chép. Sự thực vì thế mà bị giấu đi, muốn tìm ra nó phải đào bới và phân tích. Đó là trường hợp vụ án Thi Sách.

Thi Sách có thật là Thi Sách?

Không chỉ thơ ca nổi tiếng của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái trong Đại Nam quốc sử diễn ca có tóm tắt nguyên nhân bùng nổ khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Mà Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về mối thù Tô Định giết Thi Sách. Mối thù trở thành cảm hứng văn chương, người người đều hay, nhà nhà đều biết.

Song khi lật lại vụ án, những tô vẽ hạ màn, sự thật đã được bóc trần!

Hậu Hán thư của Phạm Diệp [398 – 445] ở quyển 86: Nam Man, Tây Nam Di liệt truyện mới nhắc đến Thi Sách rằng:

“Người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh quân. Trưng Trắc là con gái lạc tướng huyện Mê Linh. Gả cho người Chu Diên là Thi Sách, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật trói buộc. Trắc giận nên làm phản”

Nguyên văn câu nhắc đến Thi Sách là “Giá vu Chu Diên nhân Thi Sách thê thậm hùng dũng”. Nhà nghiên cứu Lê Minh Khải đã chỉ ra điểm bất cập trong ngữ pháp của câu này. Theo ông, câu chép của Phạm Diệp khá rối. Khi chuyển cụm “Thi Sách thê” sang “thậm hùng dũng” cũng chẳng tự nhiên.

Lịch Đạo Nguyên [466 – 527] viết Thủy Kinh chú sớ có cách viết hợp lý hơn. Đạo Nguyên viết “Sau con trai Lạc tướng Chu Diên tên Thi cưới con gái Lạc tướng Mê Linh tên Trắc làm vợ. Trắc là người can đảm, khỏe mạnh cùng Thi nổi dậy đánh châu quận”. [Hậu Chu Diên Lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc công phá châu quận].

Như vậy, theo Đạo Nguyên chồng Trưng Trắc tên Thi, còn chữ “sách” nghĩa là cưới. Triệu Nhất Thanh [1711 – 1761] khi làm Thủy Kinh chú thích cũng cho rằng “sách thê cũng như nói “thú phụ” [lấy vợ]. Nam Man, Tây Nam Di truyện trong sử của họ phạm viết: giá vu Chu Diên nhân Thi Sách thê, là rất xằng bậy vậy”. Nói cách khác, chồng của Trưng Trắc không phải tên Thi Sách, mà là tên Thi.

Phần chính văn và bổ sung [chữ nhỏ] về lai lịch của Thi [Sách] trong Đại Việt sử ký toàn thư

Số phận của Thi [Sách]

Thực tế cả Hậu Hán thư [của Phạm Diệp] và Thủy Kinh chú sớ [của Lịch Đạo Nguyên] có ảnh hưởng sâu sắc đến ghi chép của các sử gia Việt.

Chúng ta có 3 truyền thống để hiểu về số phận của Thi [Sách]:

Đầu tiên, theo phái Phạm Diệp thì Thi [Sách] được mô tả là “Chu Diên” nhân. Tức người bình thường ở huyện Chu Diên, chứ không phải con trai Lạc tướng. Chi tiết con trai này đã được du nhập vào Đại Việt Sử ký vào độ sau Ngô Sĩ Liên. Người chú thích phần chính văn cho hay “Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau”. Đặng Minh Khiêm dẫn lời thơ vịnh Trưng Vương cũng nhắc chi tiết con trai Lạc tướng. Chứng tỏ chú thích diễn ra trước năm 1520.

Thứ hai, Lịch Đạo Nguyên lại nói rằng y còn sống và cùng Trưng Trắc khởi nghĩa. Thủy Kinh chú sớ ghi: “Sau Hán sai Phục Ba tướng quân là Mã Viện đem quân sang đánh, Trắc và Thi chạy vào Kim Khê Cứu, đánh ba năm mới thắng. Lúc ấy, Tây Thục cũng đem quân, cùng đánh bọn Trắc, bình định được tất cả quận huyện, đặt chức lệnh trưởng”. Đây cũng là điều các sử gia Việt chính thống không chấp nhận.

Thứ ba, khoảng năm 1329, Lý Tế Xương viết Việt điện u linh cho rằng Thi [Sách] đã bị Thứ sử Tô Định “giết chết”. Đây là quan điểm phản ánh suy nghĩ của người Việt và được ủng hộ.

Câu hỏi đặt ra, vì sao người Việt lại nghĩ rằng Thi [Sách] chết? Cùng đón đọc vụ án này tại Thi [Sách] có lẽ là “phụ nam” trong chế độ mẫu hệ

Mỹ Ngọc tổng hợp theo nghiên cứu của tác giả Trần Hoàng Vũ – sách Mật Bổn

Video liên quan

Chủ Đề