Tầm quan trọng của công tác bảo vệ bí mật Nhà nước

(Congannghean.vn)-Thực tiễn đã khẳng định, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, công tác bảo vệ bí mật Nhà nước (BMNN) luôn giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh. Xác định rõ điều đó, thời gian qua, chính quyền các cấp của tỉnh Nghệ An đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ các biện pháp, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ BMNN trên địa bàn và đạt nhiều kết quả quan trọng. 

Tầm quan trọng của công tác bảo vệ bí mật Nhà nước
Đồng chí Lê Hồng Vinh, Ủy viên Ban Thường ụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh trao Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho 8 tập thể có thành tích xuất sắc trong triển khai thực hiện công tác bảo vệ bí mật Nhà nước
Với những đặc điểm về vị trí địa lý, Nghệ An luôn là địa bàn mà các thế lực thù địch, bọn phản động trong và ngoài nước lợi dụng tìm cách thu thập thông tin BMNN để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, hoạt động của tội phạm công nghệ cao ngày càng diễn biến phức tạp, cộng với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, đặc biệt là phương tiện, thiết bị số hiện đại luôn được các thế lực thù địch và bọn tội phạm sử dụng để hoạt động phá hoại, gây thiệt hại về kinh tế - xã hội. 

Trước thực tế nói trên, thực hiện Pháp lệnh bảo vệ BMNN, tỉnh Nghệ An đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể hóa các quy định của Nhà nước và các bộ, ban, ngành Trung ương  về công tác bảo vệ BMNN phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Quá trình thực hiện Pháp lệnh đảm bảo nghiêm túc, các giải pháp bảo vệ BMNN được triển khai quyết liệt từ tỉnh đến cơ sở, nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; việc thành lập ban chỉ đạo; xây dựng nội quy, quy chế, bố trí cán bộ có tinh thần, trách nhiệm, năng lực thực hiện phục vụ công tác bảo vệ BMNN… 

Qua theo dõi cho thấy, từ năm 2005 đến nay, các lực lượng vũ trang đã tổ chức 18 đợt tập huấn chuyên đề về công tác bảo vệ BMNN cho hơn 4.000 lượt CBCS; 70 đợt tập huấn lồng ghép với các chuyên đề bảo đảm ANTT cho hơn 12.000 lượt cán bộ cốt cán các ban, ngành, đoàn thể, địa phương. Qua đó, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về công tác bảo vệ BMNN của CBCS, công chức, viên chức; hiệu quả công tác bảo vệ BMNN tại các cơ quan, đơn vị, địa phương từng bước được nâng lên, góp phần bảo vệ an toàn BMNN. Đặc biệt, công tác tham mưu, quản lý Nhà nước về bảo vệ BMNN trên địa bàn tỉnh được tăng cường và mang lại hiệu quả, tạo nền tảng cơ bản trong phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động thu thập, phá hoại BMNN của các thế lực thù địch và phần tử xấu.

Liên quan đến công tác thanh, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về bảo vệ BMNN, tất cả các vụ lộ, lọt BMNN và các sơ hở, sai phạm khác liên quan trên địa bàn đều được phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả. Từ năm 2003 đến nay, Uỷ ban kiểm tra tỉnh đã tổ chức 24 đoàn trực tiếp kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN đối với 178 lượt tại các cơ quan, đơn vị, địa phương. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ BMNN, Công an tỉnh Nghệ An đã tiến hành 3 đợt thanh tra toàn diện việc chấp hành Pháp luật về bảo vệ BMNN đối với 31 cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh. Qua đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong công tác bảo vệ BMNN để kịp thời có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục.

Nhờ triển khai nghiêm túc, kịp thời, đồng bộ, toàn diện các quy định, biện pháp công tác bảo vệ BMNN nên đến nay, về cơ bản trên địa bàn tỉnh chưa phát hiện xảy ra các vụ lộ, lọt hoặc mất BMNN gây hậu quả nghiêm trọng, góp phần bảo vệ vững chắc ANQG, bảo đảm TTATXH, tạo môi trường an ninh an toàn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Với những đóng góp thiết thực, hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện công tác bảo vệ BMNN, tại Hội nghị triển khai Luật Bảo vệ BMNN và các văn bản hướng dẫn thi hành được tổ chức vừa qua, đã có 8 tập thể và 12 cá nhân trên địa bàn tỉnh được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen; Giám đốc Công an tỉnh cũng đã tặng Giấy khen cho 12 tập thể, 16 cá nhân có thành tích xuất sắc.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh về bảo vệ BMNN thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần chấn chỉnh, khắc phục. Trong đó, cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa quan tâm đúng mức đến bảo vệ BMNN; chưa đầu tư xứng đáng cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, cơ sở vật chất, bố trí cán bộ để thực hiện bảo vệ BMNN theo yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm bảo vệ BMNN của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao, quá trình tổ chức thực hiện chưa chấp hành nghiêm các quy trình, quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN. Ngoài ra, việc chấp hành thông tin, báo cáo của một số đơn vị, địa phương chưa thường xuyên, kịp thời.

Tầm quan trọng của công tác bảo vệ bí mật Nhà nước
Đồng chí Lê Hồng Vinh, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh trao Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong triển khai thực hiện công tác bảo vệ bí mật Nhà nước
Trước những tồn tại, hạn chế nói trên, trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ BMNN, các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh cần tập trung quán triệt sâu sắc, chỉ đạo quyết liệt việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật Bảo vệ BMNN và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Đồng thời, tập trung chỉ đạo rà soát thực tế công tác bảo vệ BMNN để khắc khục những tồn tại, sơ hở; phát huy những ưu điểm, mặt mạnh nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác bảo vệ BMNN tại các cơ quan, đơn vị, địa phương. Bên cạnh đó, thực hiện hiệu quả chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ BMNN trên địa bàn, tập trung tập huấn chuyên sâu về công tác bảo vệ BMNN cho lãnh đạo, cán bộ cốt cán các cơ quan, ban, ngành địa phương; tăng cường công tác thanh, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN trên địa bàn toàn tỉnh. 

Đặc biệt, các cấp, ngành, nhất là lực lượng Công an các cấp cần phối hợp làm tốt công tác nắm tình hình, chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các hoạt động thu thập thông tin BMNN cũng như các hoạt động khác gây nguy hại đến ANQG. Đây được xác định là nhiệm vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi lực lượng chuyên trách về bảo vệ BMNN phải phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, nhạy bén trong công tác phát hiện, đấu tranh phòng, chống các hoạt động vi phạm và tội phạm liên quan đến BMNN.

.

.

31/05/2017

Bảo vệ bí mật nhà nước vừa là nghĩa vụ của cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, Công chức, đồng thời cũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên liên quan. Bí mật nhà nước thuộc nhiều lĩnh vực như chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học công nghệ, đối ngoại và một số lĩnh vực khác không công bố hoặc chưa công bố. Nếu bí mật Nhà không được quan tâm và thực hiện bảo mật đúng quy định thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức và gây nguy hại đến sự tồn tại và phát triển của đất nước. Chính vì tầm quan trọng của công tác này nên Nhà nước liên tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định và hướng dẫn thực hiện, trong đó đã quy định rất cụ thể các quy định đối hoạt động của ngành Thanh tra.

Bảo vệ bí mật nhà nước vừa là nghĩa vụ của cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, Công chức, đồng thời cũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên liên quan. Bí mật nhà nước thuộc nhiều lĩnh vực như chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học công nghệ, đối ngoại và một số lĩnh vực khác không công bố hoặc chưa công bố. Nếu bí mật Nhà không được quan tâm và thực hiện bảo mật đúng quy định thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức và gây nguy hại đến sự tồn tại và phát triển của đất nước. Chính vì tầm quan trọng của công tác này nên Nhà nước liên tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định và hướng dẫn thực hiện, trong đó đã quy định rất cụ thể các quy định đối hoạt động của ngành Thanh tra.  


Thanh tra là chức năng thiết yếu, hoạt động thanh tra là phương thức nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, là phương tiện ngăn ngừa vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm việc tuân thủ pháp luật trong quản lý Nhà nước. Theo quy định tại Điều 5 luật Thanh tra năm 2010, cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Với chức năng này, trong quá trình hoạt động, ngành Thanh tra có nhiều thông tin về vụ, việc, tài liệu, vật..vv.. mang nội dung quan trọng thuộc phạm vi hoạt động của ngành không công bố hoặc chưa công bố và nếu không có quy định về chế độ bảo mật sẽ rất dễ dẫn đến việc vô tình hay cố ý tiết lộ ra bên ngoài, làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước. Để thực hiện trách nhiệm theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh năm 2000 về Bảo vệ bí mật Nhà nước, ngày 25/6/2004, sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra nhà nước, nay là Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban ban hành Quyết định số 588/2004/QĐ-BCA (A11) quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Thanh tra và ngày 27/01/2015, ban hành mới Thông tư số 08/2015/TT-BCA (thay thế Quyết định số 588/2004/QĐ-BCA (A11). Căn cứ Điều 4, Điều 7 Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2000 thì độ mật là một trong ba mức độ (tối mật, tuyệt mật và độ mật) thuộc phạm vi bí mật nhà nước phải được bảo vệ theo quy định. Theo đó, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-TTCP ngày 09/7/2015 quy định chi tiết công tác bảo vệ bí mật Nhà nước trong ngành Thanh tra.

Điều 1 Thông tư số 08/2015/TT-BCA, danh mục bí mật nhà nước trong ngành Thanh tra gồm 08 nhóm thuộc những tin, tài liệu mang độ mật phải được bảo mật theo quy định. Trong đó, lưu ý quy định tại Khoản 2 là nhóm những loại gồm: “Kế hoạch tiến hành thanh tra, kế hoạch xác minh nội dung khiếu nại, kế hoạch xác minh nội dung tố cáo; báo cáo kết quả thanh tra, báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại, báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo; dự thảo kết luận thanh tra, dự thảo quyết định giải quyết khiếu nại, dự thảo kết luận nội dung tố cáo; các tin, tài liệu khác trong hoạt động thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng khi chưa công bố hoặc không công bố”. Đây là những loại tài liệu phát sinh thường xuyên trong quá trình hoạt động thanh tra và trong việc thụ lý, xác minh tham mưu cấp có thẩm quyền về giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng chống tham nhũng.

Về quy trình và cách thức thực hiện, Thông tư số 04/2015/TT-TTCP ngày 09/7/2015 của thanh tra chính phủ có một số quy định cần lưu ý như sau:

Khoản 2, 3, 4 và 6 Điều 4 quy định về những hành vi bị nghiêm cấm trong việc truyền tin mang nội dung bí mật nhà nước qua máy điện thoại, mạng máy tính, internet hoặc các phương tiện truyền tin khác; sao chụp tài liệu mật mang nội dung bí mật nhà nước khi chưa được phép của người có thẩm quyền; sử dụng máy tính hoặc các thiết bị khác có kết nối mạng internet để soạn thảo, đánh máy, lưu giữ thông tin, tài liệu, vật mang bí mật nhà nước; cắm thiết bị lưu giữ bí mật nhà nước vào máy tính có kết nối mạng internet…v.vv..

Khoản 1, 5 Điều 7 quy định về việc soạn thảo, đánh máy sao, chụp, in tài liệu, vật mang bí mật nhà nước: Phải được tiến hành ở nơi an toàn do Thủ trưởng đơn vị trực tiếp quản lý tài liệu mật quy định. Trong một số trường hợp đặc biệt, việc soạn thảo phải được thực hiện trên hệ thống trang thiết bị đã qua kiểm tra và đủ điều kiện về đảm bảo an toàn, bảo mật; Người có trách nhiệm đánh máy, in, sao, chụp tài liệu, vật mang bí mật nhà nước chỉ được in, sao, chụp đủ số lượng văn bản, đóng dấu độ mật, dấu thu hồi (nếu cần), đánh số trang, số bản, số lượng in, phạm vi lưu hành, tên người đánh máy, in, soát, sao chụp tài liệu. Sau khi đánh máy, in, sao, chụp xong phải kiểm tra lại và hủy ngay bản thảo (nếu không cần lưu) và những bản đánh máy, in, sao chụp hỏng; nếu đánh máy bằng máy vi tính, phải xóa ngay dữ liệu sau khi hoàn thành việc in tài liệu, trường hợp đặc biệt chỉ được lưu đến khi văn bản phát hành.

Với những quy định nêu trên, thì việc thực hiện soạn thảo, sao chụp, truyền thông tin, các hoạt động nghiệp vụ..vv.. có liên quan đến tài liệu thuộc độ mật quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư số 08/2015/TT-BCA phải được đảm bảo việc bảo mật theo quy định.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc tổ chức thực hiện từng lúc, từng nơi vẫn còn một số trường hợp chưa tuân thủ chặt chẽ theo pháp luật, nguyên nhân trong đó có việc chưa nghiên cứu để nắm chắc quy trình thực hiện theo quy định, hoặc đã biết quy định nhưng chưa nghiêm túc trong áp dụng, còn chủ quan, thiếu sự kiểm tra chấn chỉnh và xử lý vi phạm theo quy định của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

Để tổ chức thực hiện, Thanh tra tỉnh An Giang đã triển khai và quán triệt các nội dung quy định nêu trên cho toàn thể công chức, người lao động của cơ quan; ban hành Quyết định số 47/QĐ-TT ngày 08/4/2014 và Quyết định số 41/QĐ-TT ngày 18/02/2016 thiết lập Quy chế đảm bảo an toàn thông tin số, an ninh thông tin trong hoạt động ứng dụng công nghệ và việc bảo vệ bí mật nhà nước của đơn vị; từng bước củng cố và trang bị các điều kiện, phương tiện để đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện công tác bảo mật theo quy định, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra. Theo đó, việc phân công trách nhiệm thực hiện của từng bộ phận được quy định rõ ràng, các quy định sát với thực tiễn hoạt động nhằm làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát và xác định trách nhiệm khi có vi phạm.   

Thiết nghĩ, để làm tốt công tác bảo vệ bí mật nhà nước, bên cạnh các quy định của pháp luật và tinh thần trách nhiệm trong việc quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có thẩm quyền thì yếu tố hết sức quan trọng là sự am hiểu đúng các quy định về bảo mật, tinh thần trách nhiệm và ý thức tự giác chấp hành nghiêm túc của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khi thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến các nội dung, thông tin thuộc bí mật nhà nước./.   

Lưu Thị Anh Thư - Phó Trưởng phòng TT. KNTC