So sánh văn hóa Việt Nam và Mỹ bằng tiếng Anh

So Sánh Văn Hóa Nhật Bản Và Văn Hóa Việt Nam

--- Bài mới hơn ---

  • So Sánh Văn Hóa Quốc Gia Giữa Việt Nam Và Nhật Bản
  • So Sánh Văn Hóa Hàn Quốc Và Việt Nam
  • 11 Điểm Khác Biệt Giữa Tiếng Anh Và Tiếng Việt
  • Văn Minh Phương Tây: Vùng Lưỡng Hà
  • Ac Và Eu: Khác Nhau Nhưng Cần Nhau
  • Theo cách phân chia thông thường hiện nay thì Việt Nam và Nhật Bản ở vào hai khu vực văn hoá khác nhau. Nhật Bản là một nước Đông á, còn Việt Nam thuộc Đông Nam á. Không dễ gì đem văn hoá thuộc hai khu vực khác nhau để so sánh, nhưng chúng ta lại rất cần đến nghiên cứu so sánh để có thể hiểu sâu thêm từng đối tượng và hiểu rộng thêm mối quan hệ giữa các đối tượng này. Mặt khác, sự phân chia thành các khu vực văn hoá, thực chất cũng chỉ là một cách làm của các nhà khoa học nhằm phân lập một cách tương đối một thực thể nào đó, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chia cắt chúng một cách tuyệt đối. Hơn thế, do tác động của hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc thuộc các khu vực văn hoá khác nhau lại có nhiều mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì vậy so sánh để tìm ra những mối liên hệ, rút ra những điểm tương đồng và dị biệt lại là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Nhật Bản và Việt Nam có thể coi là những trường hợp như thế. Hơn nữa, Việt Nam và Nhật Bản lại cùng chịu nhiều ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa, nên có không ít những điểm tương đồng, nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn những biểu hiện của ảnh hưởng này lại tìm ra những khác biệt đáng kể.

    Chọn Nhật Bản để so sánh, tác giả muốn đạt tới sự nhận thức sâu sắc hơn về văn hoá Việt Nam và qua đó, góp phần hiểu thêm về mối quan hệ Đông á và Đông Nam á.

    Có nhiều phương pháp so sánh nhưng phương pháp được sử dụng trong bài này là so sánh theo tiêu chí. Theo chúng tôi có thể chọn 5 tiêu chí sau đây:

    1. Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái.

    Với nhận thức của khoa học ngày nay, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ quan trọng đến sáng tạo văn hoá của con người. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá.

    2. Sự hình thành nhà nước đầu tiên.

    Đây là sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi dân tộc vì sự xuất hiện nhà nước vừa là cái mốc bước nhảy vọt của một cộng đồng cư dân đưa họ bước vào thời đại văn minh vừa là sự kết tinh của những thành tựu về văn hoá đã đạt được trước đó, bước đầu định hình một bản sắc văn hoá.

    3. Những đặc điểm về cư dân và đặc trưng văn hoá truyền thống.

    Nói tới văn hoá, không thể không xem xét chính chủ thể của văn hoá, nên nguồn gốc, quá trình tộc người và đặc điểm của cả cộng đồng là những yếu tố không thể bỏ qua. Còn đặc trưng của văn hoá truyền thống ở đây là xét trên những đặc trưng chung nhất của 4 thành tố cấu thành văn hoá.

    4. Các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử.

    Từ khi nhà nước hình thành, mặc dù là sản phẩm của văn hoá do chính con người tạo ra nhưng các hình thức tổ chức nhà nước có tác động rất mạnh mẽ đến chiều hướng phát triển của lịch sử và chi phối những đặc trưng của xã hội.

    5. Ứng xử với văn hoá ngoại lai.

    Văn hoá được sản sinh trong một không gian nhất định và giới hạn của nó thường là môi trường tự nhiên, nhưng văn hoá không bao giờ là đóng kín. Sự lan toả những giá trị của một nền văn hoá này tới những nền văn hoá khác là một hiện tượng tự nhiên, nhưng cách ứng xử trước hiện tượng tự nhiên ấy là phụ thuộc vào, và vì vậy, phản ánh đặc trưng của chính những nền văn hoá chịu những tác động ấy. Vì vậy đây có thể coi là một trong những tiêu chí để có thể xét sự tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hoá.

    Xét theo tiêu chí thứ nhất về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, có thể thấy Việt Nam là một bán đảo với diện tích tự nhiên hơn 33 vạn km2 và hơn 3000 km bờ biển. Chỉ số duyên hải [ISCL] tính được ” 106. Trong khi đó, Nhật Bản là một quần đảo với 3.600 hòn đảo lớn nhỏ quây quần xung quanh 4 hòn đảo lớn. Tổng diện tích tự nhiên ” 377.000 km2 và 29.000 km bờ biển, chỉ số ISCL ” 13 [1].

    Do địa hình dốc, mưa theo mùa tạo thành mạng lưới sông ngòi dày đặc [trên có tới gần 3.000 con sông lớn nhỏ], xoè theo hình nan quạt ở phía bờ biển. Do bồi lấp không hoàn chỉnh, vùng đồng bằng hay có úng lụt, tạo thành vùng sinh thái có nhiều mặt nước chiếm chỗ. Người Việt gọi Tổ quốc mình là nước.

    Khí hậu Việt Nam tương đối đa dạng. ở miền Bắc có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt. Miền Nam chia thành 2 mùa Khô và Mưa. Đặc điểm chung là nóng, ẩm, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh. Cùng vớí chế độ nhiệt đới gió mùa, hằng năm có bão, thiên nhiên cũng đặt ra không ít những thử thách hiểm nghèo. Mưa, lũ, bão, ẩm, dịch bệnh là những thiên tai mà người Việt thường xuyên phải đối phó.

    Do lãnh thổ trải dài trên 15 vĩ tuyến, lại có nhiều mạch núi cắt ngang, tạo thành nhiều âu khí hậu khác nhau mà rõ nhất là Bắc, Trung, Nam Bộ. Cùng với sự đa dạng về địa hình, sự khác biệt về khí hậu là những yếu tố tự nhiên nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá phân bố theo vùng, miền.

    Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú, nhưng nhìn chung trữ lượng không cao. Ưu thế tài nguyên chủ yếu là đất. Nông nghiệp đã xuất hiện sớm và là ngành kinh tế chủ đạo trong suốt mọi thời kỳ lịch sử.

    Một đặc điểm nổi bật của điều kiện tự nhiên Việt Nam là vị trí địa lí giao tiếp, là nơi giao lưu của nhiều dòng văn hoá và là nơi luôn bị tác động của khu vực và thế giới. Lãnh thổ quốc gia được mở rộng dần theo thời gian.

    Tuy có diện tích tự nhiên rộng hơn, nhưng khác với Việt Nam, Nhật Bản có tới 75% diện tích là núi và 67% rừng xanh che phủ. Với lượng mưa không lớn [trung bình khoảng 300mm/năm] và do địa hình núi gần biển, Nhật Bản không có nhiều sông. 13 con sông được ghi trong các sách địa lý đều ngắn, nhỏ và nghèo phù sa. Nhật Bản hầu như không có đồng bằng châu thổ [2]. Ngay cả những vùng được gọi là đồng bằng như vùng Kanto và Kansai, thực chất cũng chỉ là những thung lũng lớn được tạo thành bởi nham thạch của núi lửa. Nhật Bản có tới 200 núi lửa, 60 ngọn trong số đó vẫn còn đang hoạt động. Chính vì vậy mà biểu tượng của người Nhật là núi lửa Fuji.Cả nước có khoảng 300 thung lũng, bị chia cắt thành 7 vùng núi lửa.

    Bù lại sự chật hẹp về đất đai cư trú và trồng trọt, Nhật Bản có hệ thống cảng biển dày đặc.

    Khí hậu Nhật Bản có sự cách biệt khá xa. Có vùng lạnh như Siberi [đảo Hokkaido], lại có vùng ấm như Đông Nam á [Okinawa và các đảo cực nam]. Quanh năm có 4 mùa rõ rệt nhưng độ ẩm không cao. Khí hậu nói chung không thật thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Trong khi đó, Nhật Bản được coi là nước thiên tai rất khắc nghiệt với sự hoành hành thường xuyên của động đất, lũ quét, sóng thần, bão biển và núi lửa.

    Do địa hình chia cắt, văn hoá Nhật Bản có thể chia thành nhiều vùng – địa phương. Nghèo về tài nguyên [3] kể cả đất canh tác, Nhật Bản chỉ có khoảng 2,5 triệu ha đất có thể canh tác được nhưng chỉ trong một vụ xuân hè.

    Nhật Bản nằm giữa biển, nhưng trong các giai đoạn lịch sử trước khi có sự xuất hiện của người châu Âu, vị trí địa lý của quần đảo tương đối cách biệt nên ít chịu tác động tự nhiên mà thường chủ động du nhập các yếu tố văn minh từ bên ngoài.

    Những nét tương đồng có thể thấy qua những đặc điểm mang tính hình thức như diện tích tự nhiên [33 vạn/38 vạn km2], địa hình, khí hậu đa dạng với đủ các vùng rừng núi, đồng bằng và duyên hải. Cả hai quốc gia đều phải đối phó với những thiên tai hiểm nghèo… Phân tích sâu hơn những tham số tự nhiên thì thấy những điểm dị biệt là rất đáng kể. Trước hết đó là sự khác nhau giữa một bán đảo với một quần đảo, do đó chỉ số ISCL chênh nhau tới hơn 8 lần [13/106]. Do đặc điểm này mà tác động của yếu tố biển tới đời sống văn hoá của mỗi dân tộc rất khác nhau. Sự khác biệt còn thể hiện ở mức độ thuận lợi và thử thách do thiên nhiên đem lại như khắc nghiệt của thiên tai, sự phong phú giàu có về tài nguyên và ảnh hưởng của vị trí địa lý.

    Trong tiêu chí thứ hai: cư dân và đặc trưng văn hoá, Việt Nam luôn được nhận diện như một quốc gia đa tộc người, ít nhất có tới 54 tộc người với ngôn ngữ và truyền thống văn hoá khác nhau, nhưng có một dân tộc chủ thể là người Kinh [hay Việt].

    Đặc trưng văn hoá Việt được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài do tác động của nhiều nhân tố, nhưng về đại thể có thể coi những nhân tố sau đây có vai trò tác động chính yếu:

    – Tác động của môi trường “nước”. Do tác động này mà hình thành các dạng thức văn hoá sông – nước với những tính cách của cư dân ở gần/trên sông, nước [can đảm, linh hoạt, mềm dẻo, dễ thích ứng, giỏi xử lí tình huống…].

    – Tác động của hoàn cảnh lao động sản xuất [nông nghiệp trồng lúa nước]. Trong quá trình chinh phục đồng bằng châu thổ, đắp đê, điều tiết nước để sản xuất và hợp lực phòng chống lũ lụt, người Việt cần tới sức mạnh cộng đồng. Làng, một loại hình tụ cư đậm tính cố kết trở thành hội điểm của rất nhiều đặc trưng văn hoá. Trong bảng giá trị truyền thống, đoàn kết [cố kết cộng đồng], hiếu với cha mẹ [gia đình hạt nhân là tế bào xã hội] và trọng lão [trọng kinh nghiệm] luôn là những chuẩn mực được đề cao. Nhưng cũng do hoàn cảnh sản xuất mà người nông dân Việt không quen hạch toán và lường tính xa. Bình quân [chia đều] trở thành một phương thức hữu hiệu duy trì mối quan hệ hoà đồng trong làng xã.

    – Tác động của hoàn cảnh lịch sử mà nổi bật là phải thường xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược. Tác động này đã tạo nên truyền thống bất khuất kiên cường, có ý thức độc lập tự chủ cao. Đồng thời cũng chính do tác động này mà thiết chế cộng đồng được gia cố thêm.

    Về tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt coi trọng đạo thờ cúng tổ tiên. Trong quá trình tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, ấn Độ và phương Tây, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo lần lượt được du nhập vào Việt Nam. Các tôn giáo ngoại lai và các loại hình tín ngưỡng bản địa đã dung hợp nhau cùng tồn tại và phát triển. Việt Nam trở thành một xứ sở hỗn dung tôn giáo.

    Khác với Việt Nam, Nhật Bản là một quốc gia thuần chủng, có bản sắc chung rất rõ nét. Trong kết cấu cư dân hiện nay, 99,4% dân số là người Nhật, bộ phận những cư dân khác còn lại chỉ chiếm 0,6% [gồm 600.000 người Triều Tiên, 40.000 người Trung Quốc và khoảng 20.000 Ainu]. Quá trình “thuần chủng hoá” này đã diễn ra trong một quá trình lịch sử lâu dài trong điều kiện quần đảo Nhật Bản sống tương đối tách biệt với thế giới bên ngoài. Địa hình bị chia cắt bởi núi non, thung lũng và đảo dẫn tới sự hình thành nhiều dạng thức văn hoá địa phương. Người ta đã từng chia Nhật Bản thành 6 vùng văn hoá là Bắc hải đạo [đảo Hokkaido], Bắc lục đạo [vùng núi phía bắc, giáp biển Nhật Bản, chủ yếu là các tỉnh Nigata, Kanazawa], Đông hải đạo [vùng đồng bằng Kanto], Kinki [vùng đồng bằng Kansai], Tây hải đạo [đảo Kyushu], Nam hải đạo [đảo Shinkoku và các đảo phía nam].

    – Xét về tác động của môi trường có thể thấy biển, núi, thung lũng, khí hậu ôn đới, núi lửa và động đất là những nhân tố tự nhiên tác động mạnh mẽ và thường xuyên đến quá trình hình thành văn hoá truyền thống Nhật Bản. Do tác động đó mà tính cách Nhật Bản cứng rắn, tiết kiệm, trung thành với các giá trị truyền thống và rất cầu toàn. Vị trí địa lý tương đối biệt lập [của cả quần đảo và của từng vùng] đã tạo nên tính cách đóng kín nhưng lại luôn có mặc cảm “bị bỏ rơi” nên luôn mong muốn hội nhập và học tập cái hay ở người khác.

    – Về hoàn cảnh lịch sử, có thể thấy trong suốt thời kỳ trung đại, ngoại trừ hai lần tấn công xâm lược nhưng không thành của quân Mông – Nguyên, Nhật Bản hầu như không phải đối phó với ngoại xâm. Thay vì các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, nội chiến giữa các thế lực phong kiến địa phương diễn ra tương đối thường xuyên và kết cục dẫn đến sự hình thành thiết chế Mạc phủ mà thực chất là sự thống trị của chính quyền quân sự, đứng đầu là các dòng họ Shogun [Tướng quân] song song với sự tồn tại phần nhiều trên danh nghĩa một chính quyền dân sự do Thiên hoàng [Teno] đứng đầu. Hoàn cảnh lịch sử này đã tạo nên tính kỉ luật, đề cao vai trò người chỉ huy. Chuẩn mực đạo đức là đề cao giữ chữ tín. Sự phát triển mạnh mẽ của các phong kiến địa phương tại mỗi thung lũng đã dẫn tới sự hình thành các đơn vị thân binh [Samurai] sau thành trở thành một tầng lớp có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội dưới tên gọi Vũ sĩ [Bushi]. Trong xã hội truyền thống, đại bộ phận cư dân sống ở nông thôn. Họ tụ cư thành các đơn vị gọi là mura [thôn]. Khác với cấu trúc làng ở Việt Nam, trong các mura của Nhật Bản, xã hội có cấu trúc theo chiều dọc, nghĩa là có trật tự, lớp lang. Mọi thành viên đều có chức năng, bổn phận rất rõ ràng. Quan niệm “cá mè một lứa” hay “cá đối bằng đầu”, một kiểu dân chủ làng xã theo lối bình quân chủ nghĩa thường thấy ở Việt Nam, rất xa lạ với xã hội Nhật Bản.

    Tôn giáo giữ vị trí độc tôn ở Nhật Bản là Shinto [Thần đạo]. Tôn giáo này đã hoà trộn nhiều yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng thờ tổ tiên là nữ thần mặt trời. Các tôn giáo khác ở Nhật rất kém phát triển, trừ phật giáo Đại thừa. Nhật Bản đã có thời coi văn minh Trung Hoa là mẫu hình lý tưởng để học theo, nhưng Nho giáo khi du nhập vào Nhật Bản không phải là nguyên mẫu. Người Nhật đã chọn lựa từng bộ phận nhưng rất tuân thủ giáo lý. Hệ thống tuyển chọn quan lại bằng thi cử hoàn toàn không được người Nhật áp dụng.

    Trên bình diện cư dân và đặc trưng văn hoá, những nét tương đồng của Việt Nam và Nhật Bản thể hiện ở chỗ cả hai cộng đồng đều thuộc chủng Mongoloid và có chung yếu tố Nam á.

    Văn hoá truyền thống của cả hai dân tộc đều hình thành trên nền tảng sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên những đặc trưng như tính cộng đồng cao, trọng kinh nghiệm, tuổi tác, kinh nghiệm đều có nhiều nét tương đồng. Cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa nên Nho giáo, Đạo giáo và nhiều chuẩn mực Trung Hoa có thể tìm thấy trong văn hoá cả hai nước.

    Tuy nhiên, tính chất đa dân tộc của cộng đồng cư dân Việt Nam rất khác với đặc điểm thuần chủng của người Nhật. Mặt khác sự trội vượt của yếu tố phương Nam và sự thiếu vắng hoàn toàn hoạt động không du mục của cư dân Việt và tính trội yếu tố phương Bắc với sự hiện diện của kinh tế du mục trong một thời kỳ lịch sử của Nhật Bản đã dẫn tới sự khác biệt đáng kể trong hai nền văn hoá. Nếu như ở Việt Nam, ảnh hưởng từ dưới lên là đặc trưng chủ đạo thì với văn hoá Nhật Bản ảnh hưởng từ trên xuống lại là xu hướng chi phối.

    Việt Nam không có quốc đạo trong khi đó ở Nhật Bản đạo Shinto được coi là quốc giáo. Sự khác biệt trong văn hoá còn thể hiện ở tính cách ứng xử của hai dân tộc. Một bên là mềm mỏng, linh hoạt, dễ thích ứng, một bên coi trọng nguyên tắc, kỉ luật. Trong bảng giá trị đạo đức, người Việt trọng hiếu còn người Nhật thì trọng tín.

    Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam được xác định vào cuối thời Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2500 – 2700 năm. Như vậy là tương đối sớm. Tuy nhiên đây không phải là kết quả của một quá trình phân hoá xã hội sâu sắc mà trên cơ sở phát triển nhất định của các tiền đề kinh tế xã hội, những tác động khách quan của nhu cầu sản xuất và chống xâm lấn đã đẩy nhanh quá trình này. Ngay sau khi ra đời, nhà nước Văn Lang và sau đó là Âu Lạc đã phải liên tục đương đầu với quá trình bành trướng xuống phương Nam của các đế chế Trung Hoa. Đây là điểm khác biệt lớn của lịch sử Việt Nam so với Nhật Bản. Từ giai đoạn văn hoá Yayoi [thế kỷ III TCN – III SCN], kỹ thuật luyện kim và nghề trồng lúa nước du nhập vào Kyushu đã tạo nên bước nhảy vọt trong lịch sử Nhật Bản. Cùng với sự phát triển về kinh tế, phân hoá xã hội trở nên ngày càng sâu sắc. Vào giữa thế kỉ I SCN, tầng lớp Shucho [thủ lĩnh] giàu có xuất hiện. Sau đó hàng loạt Kuni [một loại hình nhà nước sơ khai] được hình thành, trong đó mạnh nhất là nước Wa. Ngay sau khi thành lập, vào năm 57 SCN, nước này đã xin thần phục nhà Hán mở ra một thời kỳ phát triển theo quỹ đạo của văn minh Trung Hoa.

    Về các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử, mặc dù đã từng tồn tại nhiểu kiểu loại nhà nước khác nhau, nhưng xu hướng chủ đạo là sự thắng thế của hình thức nhà nước trung ương tập quyền. Dưới thời Lý-Trần [1009 – 1400], mô hình “tập quyền thân dân” tồn tại gần 4 thế kỷ. Cả thế kỷ XV là thời kỳ thịnh trị của mô hình “tập quyền quan liêu” và thế kỷ XIX là thời kỳ thống trị của mô hình “tập quyền chuyên chế”. Duy có giai đoạn từ năm 1600 đến 1789 trong bối cảnh chiến tranh phe phái triền miên, ở đàng Ngoài tồn tại một thiết chế khá đặc biệt với sự tồn tại song song hai chính quyền: triều Lê trên danh nghĩa và Chúa Trịnh [chính quyền quân sự] nắm thực quyền.

    Ở Nhật Bản, từ thế kỷ VII, dưới tác động của mô hình cai trị của nhà Đường, Nhật Bản cũng cố gắng xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên hoàng. Tuy nhiên từ thế kỷ X, chính quyền trung ương suy yếu vì các vị Kokushi do chính quyền trung ương cử đến đứng đầu Kuni ngày càng có nhiều trang viên [Shoen] do được tặng biếu.

    Trong thời kỳ này hình thức xin thầu khai khẩn đất hoang [Myo] rất phát triển. Người trúng thầu gọi là Tato. Người nhiều ruộng gọi là Daimyotato. Những người này có rất nhiều Samurai [người hầu cận] làm cơ sở cho việc hình thành lực lượng vũ trang riêng. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới những cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến địa phương và sự hình thành thể chế Mạc phủ [Bakkufu] từ năm 1192 và kéo dài cho đến tận cải cách Minh Trị [1868].

    Những điểm tương đồng về tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có thể thấy ở 3 điểm:

    – Cùng chịu ảnh hưởng từ mô hình Nho giáo của Trung Hoa

    – Đều chú trọng pháp luật

    – Đặc biệt là thiết chế hai chính quyền ở Việt Nam từ 1600 đến năm 1789 và thiết chế Mạc phủ ở Nhật Bản từ 1192 đến 1868.

    Sự khác biệt thể hiện ở chỗ:

    – Việt Nam luôn thiết lập được thiết chế tập quyền mạnh còn ở Nhật Bản, chính quyền ở các địa phương mới là thế lực chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Thể chế Mạc phủ chỉ có thể khống chế địa phương về mặt quân sự.

    – Do cần tới một đội ngũ quan lại hùng hậu, các chính quyền phong kiến Việt Nam bắt đầu từ triều Lý [1076] đã tiến hành tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài, từ đó hình thành một hệ thống lưỡng ban [văn và võ]. Chính quyền phong kiến Nhật Bản chưa bao giờ áp dụng hệ thống này. Vì vậy tầng lớp sĩ ở Nhật Bản chính là các Samurai văn võ kiêm toàn.

    Trong quá trình tiếp xúc với văn hoá ngoại lai, Việt Nam có ưu thế về vị trí địa lý. Và trên thực tế đã tiếp thu không ít những giá trị từ những nền văn hoá khác. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng, ứng xử truyền thống của người Việt với văn hoá ngoại lai thường bắt đầu từ sự hoài nghi, rồi sau đó buộc phải chấp nhận nhưng tìm mọi cách cải biến theo chuẩn mực của mình. Trong khi đó, do hoàn cảnh lịch sử và những đặc trưng văn hoá khác biệt, người Nhật luôn cho rằng ở ngoài Nhật Bản có rất nhiều giá trị văn hoá cao hơn, nếu tiếp thu được sẽ tạo cho văn hoá của họ những bước nhảy vọt [kỹ thuật đúc đồng, lúa nước, các chuẩn mực văn minh Trung Hoa…], vì vậy ứng xử truyền thống của người Nhật là xác định đâu là đỉnh cao rồi cố chí học theo. Điều này còn bao hàm cả việc sau khi nhận ra một mô hình nào đó đã lỗi thời, họ sẵn sàng từ bỏ để đến với những chuẩn mực cao mới. Đó là trường hợp Nhật Bản quay lưng lại với mô hình Trung Hoa sau khi chiến tranh thuốc phiện chấm dứt với thắng lợi của người phương Tây. Từ đây chuẩn mực mà người Nhật quyết chí noi theo là văn minh phương Tây.

    1. Ta thường nói đến sự tương đồng văn hoá giữa Việt Nam và Nhật Bản [đồng văn, đồng chủng]. Điều này đúng vì cả hai dân tộc đều có những giá trị chung của châu á lấy nghề trồng lúa nước làm nền tảng kinh tế, đều chịu ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa và xét trên nhiều khía cạnh cụ thể cũng có thể tìm ra những điểm tương đồng, Chẳng hạn như sự tồn tại hai chính quyền quân sự và dân sự trong một thời kỳ lịch sử. Đấy là cơ sở thuận lợi trong quá trình giao lưu, hợp tác và học hỏi lẫn nhau.

    2. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng sự tương đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản lớn tới mức có thể dùng chuẩn mực của nền văn hoá này để suy ra những đặc điểm tương tự ở nền văn hoá kia. Chẳng hạn như tính cách nông dân trồng lúa nước của Việt Nam hoàn toàn không thể dùng để quy chiếu tính cách nông dân Nhật Bản.

    3. Để có thể học tập và mở rộng hợp tác, nhất thiết phải có những nghiên cứu cụ thể và sâu sắc. Điều này không chỉ đúng với trường hợp Việt Nam và Nhật Bản mà còn đúng với các trường hợp khác. Nói rộng ra về sự tương đồng và khác biệt văn hoá của hai khu vực Đông á và Đông Nam á cũng cần tính tới việc phải xem xét thật cụ thể từng trường hợp và từng tác nhân dẫn tới sự tương đồng và khác biệt đó.

    GS.TSKH Vũ Minh Giang

    1. Chỉ số duyên hải được tính bằng công thức: ISCL = å A / å L [Tổng diên tích tự nhiên chia cho tổng chiều dài đường bờ biển]. ở Nhật Bản ISCL ” 13, Việt Nam ” 106, có nghĩa là 1 km đường bờ biển chỉ che phủ tương ứng với mỗi nước là 13 km2 và 106 km2 diện tích lục địa. Theo đó, chỉ số ISCL càng thấp thì tác động của biển tới văn hoá càng mạnh.

    2. Trong một số sách địa lý của Nhật Bản có nhắc đến châu thổ sông Ota, tức vùng có thành phố Hiroshima, nhưng thực ra đấy chỉ là nói về đặc trưng thành tạo chứ quy mô bồi tụ và chất lượng phù sa của vùng này không giống với châu thổ ở các nơi khác trên thế giới.

    3. Thực ra Nhật Bản đã từng có những mỏ khoáng sản lớn như đồng, bạc, vàng… nhưng tất cả hầu như nhưng đã khai thác hết từ thế kỷ XVII.

    --- Bài cũ hơn ---

  • So Sánh Văn Hóa Nhật Bản Và Việt Nam Có Gì Khác
  • Sự Khác Nhau Về Văn Hoá Giữa Việt Nam Và Phương Tây
  • 5 Điều Khác Biệt Về Văn Hóa Giữa Việt Nam Và Các Nước Phương Tây [Phần 1]
  • Sự Khác Biệt Trong Văn Hóa Phương Đông Và Văn Hóa Phương Tây Và Ảnh Hưởng Của Chúng Đến Hành Vi Con Người Trong Tổ Chức
  • Phân Tích Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Doanh Nghiệp Phương Đông Và Văn Hóa Doanh Nghiệp Phương Tây
  • So Sánh Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Người Mỹ Và Người Việt Nam

    Ngày đăng: 18/09/2021 | Lượt xem: 3881 |

    Mỗi quốc gia sẽ có một nền văn hóa khác nhau, và sự khác biệt này ảnh hưởng đến tính cách cũng như hành động của họ trong đời sống hằng ngày. Có thể thấy hiện nay người Việt Nam sinh sống tại Mỹ rất nhiều, nhưng họ vẫn luôn giữ được những đặc điểm vốn có của văn hóa người Việt Nam. Vậy lối sống, ngôn ngữ, cách ăn uống, cách chào hỏi,… của người Việt Nam và người Mỹ khác nhau như thế nào?

    1. Điều khác biệt về văn hóa 1 – Văn hóa trên bàn ăn

    Người nước ngoài không có thói quen mời mọi người ăn cơm như ở Việt Nam. Trong văn hóa Việt, “mời ăn cơm” thể hiện sự kính trọng, lễ phép của người nhỏ tuổi với người lớn tuổi. Tuy nhiên người phương Tây chỉ mời người khác khi họ đã tự chuẩn bị mọi thứ và muốn người kia thưởng thức. Ví dụ như mời uống cafe, mời tham dự hòa nhạc, mời dự tiệc, mời xem phim… nên họ sẽ thấy khá lạ lẫm với văn hóa “mời cơm” của Việt Nam.

    Sự khác biệt thứ 2 là cách ăn của người Việt và người phương Tây. Người Việt khi ăn khá tự nhiên, có thể cười nói trong suốt bữa ăn, khi nhai không cần khép miệng và vẫn có thể tạo ra tiếng. Thế nhưng, việc đó được cho là ‘’rude’’ [thô lỗ] trong văn hóa phương Tây. Người phương Tây thường khép miệng khi nhai, không tạo ra tiếng ồn và trật tự khi ăn uống. Họ có thể trao đổi vài câu chuyện nhưng không cười đùa ầm ĩ và tuyệt đối không vừa ăn vừa nói.

    Bài viết số 1: giới thiệu Việt Nam bằng Tiếng Anh cơ bản

    Vietnam is a developing country in Southeast Asia. Although this is a small country but Vietnam still has many things that attract tourists. Vietnam has tropical climate with differently complex seasons in two parts of the country. Through many wars for the past a thousand years, Vietnam has developed continuously and now, it is a beautiful country in the eyes of the foreigners. Vietnam has had a victorious history. It has 54 ethnic groups and diverse cultures. Having tropical climate, Vietnam is known for many beautiful landscapes especially mountains, beaches, caves and even rice fields. One of the most important festival in Vietnam is Tet holiday, which occurs around January or February. Cuisine is also a highlight when talking about Vietnam. My country still has many things that wait for you to explore.

    Dịch

    Việt Nam là một nước đang phát triển nằm ở phía đông nam Châu Á. Dù là một đất nước nhỏ nhưng Việt Nam vẫn có rất nhiều điều thu hút du khách. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới với những mùa có tính chất phức tạp riêng biệt ở hai miền đất nước. Dù đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh trong suốt hàng ngàn năm, Việt Nam vẫn phát triển không ngừng và hiện tại, đây là một đất nước vô cùng tươi đẹp trong con mắt du khách nước ngoài. Việt Nam có bề dày lịch sử vang dội. Nước ta có 54 dân tộc anh và những nền văn hóa đa dạng. Nhờ có khí hậu nhiệt đới, Việt Nam được biết đến với rất nhiều cảnh đẹp như đồi, biển, hang động hay cả những cánh đồng lúa. Một trong những ngày lễ quan trọng nhất ở Việt Nam là tết nguyên đán, thường diễn ra vào khoảng tháng 1, tháng 2. Ẩm thực cũng là một nét nổi bật khi nhắc tới Việt Nam. Đất nước tôi vẫn còn rất nhiều điều chờ bạn đến khám phá.

    Đôi nét về văn hóa Mỹ và Việt Nam

    23 Tháng Mười Một, 2020

    Văn hóa Mỹ và Việt Nam nói riêng cũng như văn hóa giữa Phương Tây và Phương Đông nói chung có rất nhiều sự khác biệt thú vị mà không phải ai cũng biết nhưng cũng ẩn chứa không ít điểm giống nhau giữa văn hóa Việt Nam và Mỹ. Hãy cùng chúng tôi điểm qua những nét nổi bật trong văn hóa Mỹ và văn hóa Việt Nam.

    Sự khác biệt trong văn hóa Mỹ và Việt Nam?

    Người Việt cần biết gì về Phương Tây?

    Hiện nay nhiều thanh niên Việt Nam muốn đi du học và sinh sống ở các nước Phương Tây, nhất là những nước nói Tiếng Anh như Úc, Mỹ, Anh và Canada.

    Nhưng ấn tượng của họ về xã hội và con người phương Tây nhiều khi sai lầm, hạn hẹp hoặc giản đơn. Một số người nghĩ Phương Tây giống như thiên đàng: một nơi mà mình chắc hẳn được giàu có, hạnh phúc và tự do.

    Một số khác thấy xã hội ở các nước Phương Tây nguy hiểm, xa lạ và không bao giờ hợp với cách sống của người Việt. Ai đúng hơn? Phương Tây sự thật như thế nào?

    Điểm riêng

    Trước hết, chúng ta không nên định kiến cho rằng Phương Tây là một. Mỗi xã hội và mỗi cá nhân đều có tính cách riêng biệt. Ví dụ, lịch sử nước Anh có lâu dài và trước đây là một đế quốc vinh quang, nhưng hiện nay đã suy tàn. Như vậy, người Anh có xu hướng nhìn về quá khứ.

    Họ hay kính trọng truyền thống, phong tục và giai cấp quý tộc. Sự hài hước của người Anh là nhăn nhó và mỉa mai, đôi khi khiến mình cười cợt và khóc lóc cùng lúc [bạn nên xem The Office, Extras, Psychoville và những phim của Christopher Morris].

    Còn người Mỹ hay nhìn về phía trước. Theo họ, Hoa Kỳ là miền đất hứa và là quốc gia quan trọng nhất đã chống chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản và cứu thế giới. Nhiều khi họ tin tưởng mình như Chúa cứu thế, một cách nghĩ được phản ánh trong văn hóa của họ.

    Biết bao nhiêu phim Mỹ nói về một người có xuất thân khiêm tốn nhưng đã trở thành vị cứu tinh của thế giới do vận số, đạo đức và sự can đảm [The Matrix, Transformers, Rocky, Shrek…].

    Còn nếu bạn muốn đi Úc, nên nhớ, ‘Australia rhymes with failure’ [trong tiếng Anh từ ‘Úc’ có vần với từ ‘thất bại’]. Vì người da trắng đầu tiên định cư ở Úc là các tù nhân từ Anh, nên Châu Úc không phải là miền đất hứa mà là miền đất bị bỏ rơi. Đó là một lục địa vắng vẻ dưới cùng của quả địa cầu.

    Bởi vậy nhiều câu chuyện trọng đại của Úc ca tụng những con người và sự kiện thất bại một cách dũng cảm [ví dụ trận đánh và bộ phim Gallipoli và bài hát ca ngợi quốc gia không chính thức ‘Waltzing Matilda’].

    Người Úc hay chọc ghẹo nhau vì bản năng của họ là thích công bằng, không thích ai kiêu căng quá.

    Điểm chung

    Mặc dù có nhiều khác biệt, nhưng cũng có những đặc tính chung mà mỗi xã hội Phương Tây đều chia sẻ. Khi hiểu điều cơ bản này, chúng ta có thể bắt đầu hiểu sâu hơn về những đặc tính riêng biệt của mỗi người. Và có thể trong tương lai mình sẽ hiểu xã hội, văn hóa và chính trị của người Tây hơn họ hiểu chính họ.

    “Mặc dù có nhiều khác biệt, nhưng cũng có những đặc tính chung mà mỗi xã hội Phương Tây đều chia sẻ. Khi hiểu điều cơ bản này, chúng ta có thể bắt đầu hiểu sâu hơn về những đặc tính riêng biệt của mỗi người.”

    Một điểm quan trọng mà chúng ta phải biết về người Tây là họ thường thường tắm vào buổi sáng. Khi tôi là thanh niên, phát hiện ra điều này, tôi đã rất ngạc nghiên. Vì trong các gia đình nói chung ở Châu Á người ta có xu hướng tắm vào buổi chiều. Tôi đã không hiểu vì sao người Tây chịu đi ngủ sau khi làm việc suốt ngày, người đầy mồ hôi và có vẻ hơi dơ dáy.

    Giờ đây tôi hiểu việc tắm của Tây và Ta khác nhau vì lịch sử kinh tế của mỗi phương trời không giống nhau. Theo truyền thống, người Châu Á là nhà nông và hiện nay ở Việt Nam đa số còn theo chu kỳ sản xuất nông nghiệp: thức dậy sớm, ngủ trưa và khi làm đồng về tắm vào buổi chiều. Trái ngược lại, nhiều Người Tây cần tắm vào buổi sáng để giúp họ tỉnh táo và chuẩn bị quần áo công sở để đi làm.

    Xã hội của họ là hậu công nghiệp và chủ yếu là thành phần trung lưu. Ở Úc khoảng 20% dân số là giàu, 30% là nghèo và giai cấp trung lưu chiếm 50% [nghĩa là được học trường cao đẳng hay đại học và thường thường làm trong văn phòng]. Những người này không cần tắm vào buổi tối vì họ ít ra mồ hôi ban ngày.

    Các nước Phương Tây trở nên giàu có ít nhất là từ sau Thế chiến Hai. Điều này không có nghĩa là người Tây tốt hơn người Việt. Cũng không có nghĩa là sống ở các nước Phương Tây sướng hơn sống ở Việt Nam. Chỉ có điều hoàn cảnh giàu có không chỉ ảnh hưởng việc tắm mà thôi, mà còn ảnh hưởng đến quan điểm và cơ cấu xã hội của người Tây.

    Nghịch lý

    Một điều mà có thể làm cho bạn ngạc nghiên là ở Phương Tây, người mập nhất nhiều khi lại là người thuộc giai cấp nghèo và là người lao động. Lý do là dù hầu hết mọi người có khả năng mua xe hơi và có đầy đủ đồ ăn, nhưng nhiều người không có đủ cơ hội để tập thể dục và không hiểu biết về ăn uống để tạo ra lối sống lành mạnh. Khi đến Phương Tây, bạn sẽ thấy ngay, không phải là tất cả người Tây trông đẹp đẽ và có vóc dáng mảnh khảnh như diễn viên trong Glee và Desperate Housewives.

    Hơn nữa, có một vấn đề rất lớn ở các nước nói tiếng Anh mà giàu có. Khi người ta lo về tiền bạc, vật chất quá mức, họ không thể lo về cuộc sống của cộng đồng xã hội. Francis Fukuyama, nhà trí thức gốc Châu Á nổi tiếng nhất tại Phương Tây, đã nhận xét: chủ nghĩa cá nhân làm cho nền văn minh Phương Tây trở nên sáng tạo và thịnh vượng, và đồng thời cũng làm mòn dần hầu hết những loại quyền uy trong xã hội. Không ai kính trọng ai. Vì vậy, hiện nay ở Phương Tây gia đình, hàng xóm và quốc gia trở nên yếu đi so với trước đây.

    Vào thập kỷ 1970 người Mỹ đi dã ngoại [picnic] trung bình mỗi năm năm lần [nghĩa là họ hay đi chơi ở ngoài trời và san sẻ đồ ăn mà mỗi người có]. Vào cuối thế kỷ 20 người Mỹ trung bình chỉ đi picnic khoảng hai lần mỗi năm thôi. Đây là một trong nhiều chỉ số chứng tỏ các nước nói Tiếng Anh bị thiếu ‘vốn xã hội’.

    Trong trường hợp này người ta không có hy vọng và lòng tin vào cộng đồng. Hiển nhiên nhất đối với thanh niên: bệnh trầm cảm và việc tự tử trong giới thanh niên càng ngày càng cao hơn.

    Chắc nhiều người Việt cũng biết rằng việc phát triển nền kinh tế nhiều khi gắn liền với những vấn đề xã hội. Tôi có những người quen ở Việt Nam trước đây nghèo khó, nhà cửa dột nát và chật chội vì nhiều bà con và bạn bè đến ở. Vào thập kỷ 80 cả nhà phải góp tiền mua một máy truyền hình đen trắng. Nhưng nay gia đình họ cất nhà mới cao tầng, mỗi phòng ngủ đều có tivi LCD.

    Không có ai tranh cãi nữa vì không có ai tiếp xúc với nhau. Họ thoải mái hơn, nhưng không chắc đã hạnh phúc hơn. Phương Tây đã trải qua nhiều vấn đề như thế này rồi. Người Việt nên chú ý đến kinh nghiệm của người Tây để tránh những vấn đề mà họ đã gặp phải.

    Nhãn quan chính trị

    Hệ thống chính trị khác nhau cũng có thể khiến người Việt khó hiểu khi ở Phương Tây

    Vị trí trung tâm của giai cấp trung lưu và điều kiện sống thoải mái trong xã hội Phương Tây cũng định hình nhãn quan chính trị. Ở Việt Nam, chiếu theo lý thuyết Marx và tư tưởng Hồ Chí Minh, việc đấu tranh của phái tả là vì công lý cho giai cấp vô sản và nông dân. Ở Phương Tây, hai giai cấp này thường có điều kiện sống đầy đủ nên họ sẽ không tham gia đấu tranh.

    Như vậy, phái tả ở Phương Tây không lo về chủ nghĩa duy vật, mà chỉ quan tâm những vấn đề liên quan bản sắc, văn hóa và phong cách sống. Họ muốn bênh vực quyền lợi cho phụ nữ, cho dân tộc thiểu số, cho người đồng tính, cho người di dân, cho cả con vật và lẫn người nghèo trong các nước đang phát triển.

    Thông thường, họ cảm thấy có lỗi với lịch sử thực dân của phương Tây và cách tiêu thụ quá mức mà đã đóng góp vào khủng hoảng biến đổi khí hậu. Vì vậy, nhiều người thanh niên phái tả bi quan về xã hội của họ và cảm thấy hơi tội lỗi và ngại ngùng về sự thịnh vượng. Những người này thèm muốn một đời sống đơn giản. Họ mặc quần áo cũ rích, hay ăn chay, đạp xe đạp và hay làm việc ở các tổ chức viện trợ. Gia đình họ nhiều khi giàu có nhưng lại phải giả bộ nghèo khó.

    Ngược lại, người theo phái hữu nhìn thấy bổn phận chính của họ là bảo vệ nền văn hóa và văn minh Phương Tây, chống lại người theo phái tả và những đe dọa khác. Bất chấp khủng hoảng tài chính toàn cầu, những người này kiêu hãnh vì sự giàu có và sự thành công của những nước tự do tư bản. Họ nghĩ từ khi Phương Tây chiến thắng Chiến Tranh Lạnh, nhất định không có tư tưởng nào tốt hơn và có thể đe dọa chủ nghĩa dân chủ tự do.

    “Dĩ nhiên, đa số người ở Phương Tây không hoàn toàn thuộc phái tả hay phái hữu và nhiều khi không theo phái nào. Tuy nhiên, khi bạn hiểu những điểm này, bạn sẽ bắt đầu hiểu thêm những lực lượng và vấn đề ảnh hưởng tới mỗi người.”

    Họ nhìn lại 30 năm và cho rằng sự phát triển ở các nước Châu Á có được là nhờ quyết định giống Tây phương hơn, như mở rộng thị trường và đôi khi kể cả hệ thống chính trị và xã hội.

    Về văn hóa, quan điểm và sự hy vọng, người phái hữu nhận xét thanh niên ở nhiều nước – bao gồm Việt Nam và cả nước Trung Đông đang cách mạng – càng ngày càng Tây hóa.

    Họ muốn mặc quần áo Tây, dùng kỹ thuật Tây, tiêu thụ sản phẩm Tây và đoạn tuyệt với những sự bắt ép của xã hội cũ. Trong sự biển đổi đồ sộ này, không có ai bị bắt buộc và không dân tộc nào bị chiếm làm thuộc địa. Nghĩa là văn minh và văn hóa Phương Tây đang có duyên rõ rệt với mỗi người. Bởi vậy, theo phái hữu, người Tây nên bảo vệ và phổ biến tư tưởng của họ để có lợi cho lối sống khắp mọi nơi.

    Người thanh niên phái hữu nhiều khi cũng lo về vấn đề đề cao cá nhân, giữ gìn môi trường và bảo vệ quyền cho những người bị đè nén bóc lột. Nhưng họ khác phái tả vì họ tin tưởng vào cách giải quyết những vấn đề này được phát hiện trong sáng kiến, tự tin và sự phát đạt Tây Phương.

    Theo họ, người Mỹ, Anh và Úc nên tự tin và tích cực hơn trên trường quốc tế, không được quỵ lụy theo các tư tưởng, văn hóa khác hay cũng trở nên bất an như người phái tả.

    Dĩ nhiên, đa số người ở Phương Tây không hoàn toàn thuộc phái tả hay phái hữu và nhiều khi không theo phái nào. Tuy nhiên, khi bạn hiểu những điểm này, bạn sẽ bắt đầu hiểu thêm những lực lượng và vấn đề ảnh hưởng tới mỗi người. Sự hiểu biết này có lẽ làm cho bạn bớt bị ‘sốc văn hóa’ và mở rộng suy nghĩ về những câu hỏi rất quan trọng như, “Tôi sẽ thích ở Phương Tây không? Phương Tây sẽ thay đổi tôi như thế nào? Và tôi sẽ tắm vào buổi sáng hay buổi chiều?”

    Tiến sĩ Kim Huỳnh là giảng viên tại Đại Học Quốc Gia Úc, đã đăng tiểu sử về gia đình mình trong cuốn Where the Sea Takes Us: A Vietnamese-Australian Story [HarperCollins 2008] và là một trong hai chủ bút của cuốn sách The Culture Wars: Australian and American Politics in the 21st Century [Palgrave MacMillan 2009]. Bản gốc tiếng Việt được bà Hà Thị Thu Hương từ Trung tâm Integrated Culture and Language Studies [ICLS] chỉnh sửa đôi chút và BBC biên tập lại.

    //www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/11/111111_kimhuynh_west_asia.shtml

    Phương Tây nhìn người Châu Á thế nào?

    Trong bài Bấm tiểu luận trước, tôi đã đề cập đến những vấn đề, góc nhìn và sự phát triển gần đây mà người Việt cần biết trước khi họ mạo hiểm sang Phương Tây.

    Tuy nhiên, tôi đã sao nhãng một câu hỏi rất quan trọng: “Nói chung, người Tây nhìn và đối xử với người Việt và người Châu Á như thế nào?”

    Tin mừng là người Tây nói chung nhìn người Châu Á cũng giống như mọi người khác. Vì đạo đức tự do được phổ biến và cá nhân được đề cao, nhiều nước Phương Tây tin tưởng rằng mọi người nên được đối đãi bình đẳng và công bằng. Có pháp luật ở mỗi nước khuyến khích và bảo vệ lý tưởng này, tức là trong việc làm và cả trong đời sống công cộng, không phân biệt nam hay nữ, gia đình, giới tính, tôn giáo, dân tộc hoặc là chủng tộc. Quan trọng nữa là những đạo luật này phản ánh sự cởi mở và quyết tâm có công bằng xã hội mà đã giúp cho phương Tây thành công và đáng được đến thăm hay định cư.

    Nhưng dĩ nhiên, xã hội phương Tây, như bất cứ xã hội nào, không phải lúc nào cũng sống đúng theo lý tưởng của mình. Mặc dù những vụ phân biệt chính thức hay quá khích ít xảy ra, nhưng sự phân biệt thực sự vẫn còn. Theo kinh nghiệm của tôi sau khi ở Úc hơn 30 năm, rất hiếm khi xảy ra các vụ tấn công bạo lực do kỳ thị chủng tộc. Vì vậy, mỗi người đi nước ngoài, dù phải lo về an toàn cá nhân, nhưng không phải vì thế mà ngần ngại làm chuyến “Tây du ký”.

    Tệ phân biệt mà người Châu Á nên chú ý hơn là sự phân biệt “tinh tế hơn”, hiện hữu trong những cửa hàng và quán ăn nơi mà người bán hàng và hầu bàn có vẻ đối xứ với mình cộc lốc và uể oải hơn những khách không phải là người Châu Á. Đôi khi chúng ta bị bắt gặp đang nói chuyện to bằng tiếng Việt và người qua đường nhìn chúng ta với thái độ khinh miệt. Và chúng ta có thể nhận ra khi người khác cười khẩy vì những điều bình thường đại loại như râu tóc, ngón tay nhỏ dài, một món ăn không quen hay cách ta đậu xe hơi.

    Video liên quan

    Bài Viết Liên Quan

    Chủ Đề