So sánh ước nguyện viễn phương và thanh hải năm 2024

+ “Mùa xuân nho nhỏ”, lời tâm niệm chân thành, tha thiết được cống hiến phần tinh túy nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở.

– Trích dẫn các khổ thơ.

II. Thân bài:

1. Ước nguyện cống hiến ở khổ 4 bài thơ “Viếng lăng Bác”

– Nghệ thuật: hình ảnh chứa chan cảm xúc “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, điệp ngữ “muốn làm”. Nội dung: tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác; muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật ở bên lăng: muốn làm con chim cất tiếng hót, muốn làm bông hoa tỏa hương, muốn làm “cây tre trung hiếu” nhập vào cùng hàng tre bát ngát bên lăng Bác.

\=>Những ước nguyện cống hiến chân thành đã cho thấy tình cảm mà tác giả dành cho Bác Hồ kính yêu thật sâu sắc và đầy cảm động.

2. Ước nguyện cống hiến ở khổ 4, 5 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

– Nghệ thuật: điệp ngữ “ta làm”, “dù là”, liệt kê những hình ảnh đẹp của thiên nhiên “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm”.

– Nội dung:

+ Khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp — dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.

+ Được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con chim đến tiếng hót, bông hoa tỏa hương sắc cho đời.

– Đề cập một vấn đề lớn của nhân sinh quan: ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng một cách tha thiết, nhỏ nhẹ như điều tâm niệm chân thành của nhà thơ, được thể hiện qua những hình tượng đơn sơ mà chứa đựng nhiều xúc cảm.

– Mùa xuân nho nhỏ => vẻ đẹp giản dị, đầy chân thành và tha thiết của nhà thơ: Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh túy của mình, dù nhỏ bé, góp vào cuộc đời chung.

3. Điểm giống và khác nhau

a. Điểm giống:

– Về nội dung: cả hai đoạn thơ đều nói về ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến của tác giả và của tất cả mọi người => đều xuất phát từ những cảm xúc chân thành nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, đất nước với vị lãnh tụ kính yêu.

– Về nghệ thuật: cả hai tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng cống hiến cao đẹp. Cả hai đoạn thơ sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, lôi cuốn, gây nhiều cảm xúc cho người đọc.

b. Điểm khác

Về nội dung: cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác lúc đang lâm bệnh; Viễn Phương sáng tác sau khi ra Hà Nội vào thăm lăng Bác. Thanh Hải viết về thiên nhiên đất nước và khát vọng cống hiến. Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ tha thiết thành kính thiêng liêng.

Về nghệ thuật: khổ bốn, năm “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, tâm tình, bộc lộ tấm chân tình của tác giả; khổ bốn của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ tám chữ, giọng thơ trang nghiêm, thành kính, nhịp thơ dồn dập gây cho người đọc nhiều cảm xúc về Bác Hồ.

III. Kết bài

Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì không còn nhìn thấy mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi nhà thơ đều để lại những dòng thơ chan chứa, ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.

Bài văn tham khảo

Ai cũng có những ước muốn của riêng mình, ước muốn ấy có thể bình thường, giản dị nhưng cũng có thể là khao khát nguyện vọng thực hiện được khi thoát khỏi cái tôi cá nhân hóa thân, hòa nhập vào cộng đồng. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã thể hiện khát vọng dâng hiến mùa xuân của mình vào mùa xuân chung đất nước qua bài thơ Mùa Xuân nho nhỏ. Hay đó là niềm thành kính, nỗi xúc động chân thành của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được bộc lộ qua bài thơ Viếng lăng Bác.

Hai bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và Viếng lăng Bác đều được sáng tác ở hai thời điểm rất đặc biệt. Nếu bài thơ Viếng lăng Bác được nhà thơ Viễn Phương viết khi ông lần đầu từ miền Nam xa xôi tới thăm lăng Bác Hồ ngay sau khi lăng được khánh thành vào tháng 4 năm 1976 thì bài thơ Mùa xuân nho nhỏ lại được nhà thơ Thanh Hải sáng tác vào tháng 11 năm 1980, trước khi ông qua đời không lâu. Vậy nên khi đọc hai bài thơ, chúng ta có thể cảm nhận được những suy tư, những cảm nhận rất chân thành, tha thiết của hai tác giả, đồng thời, ta cũng thấy được những nguyện ước vô cùng đẹp đẽ của cả hai thi nhân.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được nhà thơ Thanh Hải sáng tác ngay trên giường bệnh của mình vào mùa đông năm 1980. Thế nhưng với người thi nhân, đó đã là thời điểm mà mùa xuân rục rịch chuyển mình, bước vào cuộc sống của ông. Vậy nên những vần thơ của ông là sắc xuân ngập tràn trên đất trời xứ Huế và nổi bật trên nền cảnh đó là hình ảnh của những con người lao động, những chiến sĩ đang cống hiến hết mình cho Tổ quốc thân yêu. Trong từng vần thơ, ta thấy được một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu đất nước vô cùng tha thiết của Thanh Hải, và tới những vần thơ cuối, ông đã nói lên khát vọng nhỏ bé mà chân thành của mình:

“Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”

Mùa xuân đã về mang theo nguồn nhựa sống tràn trề, Thanh Hải khi ấy đang nằm trên giường bệnh nhưng ông khao khát vô cùng được sống, được hòa nhập, được hoá thành một phần của mùa xuân kia, dù đó chỉ là một chú chim nhỏ, một “cành hoa” xinh hay một “nốt trầm” trong bản hoà ca của cuộc đời. Những khát vọng ấy, ước mong ấy thật nhỏ nhoi biết bao nhưng cũng thực tha thiết, đẹp đẽ. Qua đó, ta cảm nhận được niềm khao khát được cống hiến, khao khát được hòa nhập đến cháy bỏng của nhà thơ. Đặc biệt là điệp từ “làm” được lặp lại liên tiếp ở khổ thơ thứ tư như khẳng định nỗi khát khao đến cháy bỏng của ông. Nếu như ở khổ 1, Thanh Hải chỉ sử dụng từ “tôi” để chỉ cá nhân mình thì ở khổ thơ này, ông sử dụng liên tiếp ba lần điệp từ “ta” để chỉ chung mọi người, là cái chung cho muôn người trên đất nước Việt Nam. Tất cả đều mong muốn được hiến dâng sức lực của mình cho mùa xuân của dân tộc. Còn đối với Thanh Hải, nhà thơ muốn một lần nữa trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để cống hiến cho đời, cho sự nghiệp của đất nước. Chỉ cần “lặng lẽ dâng cho đời” chứ chẳng cần phô trương, cũng chẳng cần hào nhoáng, bất kể là lúc nào, khi còn trẻ “hai mươi” hay khi đã về già “tóc bạc”. Điệp từ “dù là” lặp lại hai lần như để nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. Chỉ với hai khổ thơ ngắn, nhưng nó đã gửi gắm biết bao tình yêu cuộc đời, yêu đất nước cùng ước nguyện chân thành mà cháy bỏng của nhà thơ, nguyện hiến dâng cho đời những thanh âm trong trẻo nhất. Và nhà thơ dù đang trên giường bệnh nhưng chưa bao giờ ông thôi khao khát được cống hiến cho sự nghiệp của nước nhà.

Đến với bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương, ta lại bắt gặp một tình yêu khác, đó là tình yêu, niềm kính trọng với vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam – Bác Hồ. Bài thơ được viết năm 1976, khi nhà thơ lần đầu từ miền Nam ra thăm lăng Bác khi lăng Bác vừa mới được khánh thành. Trong ngày vui, hạnh phúc đó, nhà thơ đã hòa mình cùng dòng người vào lăng thăm viếng Bác. Và ông đã viết lên những cảm xúc vô cùng chân thành của mình, thể hiện sự thành kính, niềm xúc động vô vàn của mình cũng như mọi người đối với Bác. Cuối bài thơ, khi phải rời xa Người để trở về phương Nam, Viễn Phương đã vô cùng nghẹn ngào, lưu luyến vậy nên ông ước nguyện rằng:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Chỉ ngày mai thôi, Viễn Phương đã phải trở về miền Nam, rời xa vị Cha già của dân tộc, trong khoảnh khắc xúc động ấy, ông đã ước mình được trở thành chú“chim” nhỏ, thành “ đoá hoa” thơm, thành “cây tre”, dù là nhỏ bé thôi nhưng ngày ngày sẽ được bầu bạn, được gần cạnh Người cha già của dân tộc. Ước nguyện tuy bé nhỏ nhưng thật cháy bỏng, thật chân thành, điều đó được thể hiện qua điệp ngữ “muốn làm” lặp lại ba lần trong khổ thơ cuối. Nhịp thơ chậm rãi như muốn kéo dài giây phút chia xa Bác của nhà thơ. Nhà thơ muốn trở thành chú chim nhỏ hót lên những tiếng ca vui tươi, muốn trở thành một bông hoa nhỏ “tỏa hương” ngát thơm cho Người. Và hình ảnh cuối cùng xuất hiện trong ước vọng của nhà thơ là “cây tre trung hiếu”. Cây tre – loài cây tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, trung dũng, kiên cường, bất khuất, không bao giờ chịu khuất phục trước mọi kẻ thù. Và nhà thơ muốn mình được trở thành một “cây tre” nhỏ ở quanh lăng Bác để “trung hiếu” với Bác cũng là để Bác soi sáng, dẫn đường và đưa lối cho mình. Ước nguyện đó cũng là sự khẳng định sự tin tưởng, sự trung thành của nhà thơ, của mỗi người dân Việt Nam đối với Bác, với chân lý mà Bác đã mang về cho dân tộc ta.

Đọc xong những vần thơ thể hiện ước nguyện của hai nhà thơ Thanh Hải và Viễn Phương, ta chợt thấy rằng ước nguyện của họ thật đẹp. Đó đều là những ước nguyện chân thành, giản dị, mong muốn được cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước Việt Nam, dù chỉ là những điều thật nhỏ bé, thật khiêm nhường. Hai thi nhân cũng khéo léo sử dụng những hình ảnh rất đẹp của thiên nhiên như “hoa”, như “chim”, như “mùa xuân”, … để thể hiện niềm ước vọng của mình, làm nên những vần thơ thật đặc biệt, thật xúc động.

Thế nhưng, vì được sáng tác trong hai hoàn cảnh và cảm hứng khác biệt, vậy nên mỗi ước nguyện của hai thi nhân lại mang những nét riêng biệt, không thể pha lẫn. Với Thanh Hải, ông chọn đề tài về thiên nhiên, đất nước bởi bài thơ được ra đời khi đất nước ta đang bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã khơi gợi niềm cảm hứng để ông viết lên bài thơ này, cũng là niềm cảm hứng để ông thể hiện khát vọng của mình là được hòa nhập, được cống hiến cuộc đời riêng của mình cho cuộc đời chung của đất nước, non sông.

Còn với nhà thơ Viễn Phương, niềm cảm hứng của nhà thơ đến với ông khi ông lần đầu từ miền Nam xa xôi tới thăm lăng Bác vào năm 1976. Chính vì vậy, bài thơ Viếng lăng Bác của ông ông viết về Bác Hồ, về vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc ta để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng đối với Người. Chính vì được viết trong thời điểm khác nhau, đề tài khác nhau nên khát vọng của Viễn Phương cũng không giống Thanh Hải, ông khát khao được ở lại, được hòa nhập với thiên nhiên quanh lăng Bác Hồ để được mãi mãi ở gần bên cạnh Bác.

Tuy mỗi đoạn thơ đều có những nét tương đồng và riêng biệt, thế nhưng chúng đều khiến cho người đọc chúng ta vô cùng xúc động trước những nguyện ước chân thành của cả hai nhà thơ. Mượn những hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, Viễn Phương và Thanh Hải đã giúp chúng ta thấu hiểu được những khát vọng của những thi nhân chân chính, của những con người khát khao được hoà mình vào cuộc đời chung, cống hiến cho cuộc sống tươi đẹp này.

Có thể nói rằng, tuy hai ước nguyện là khác nhau, thế nhưng ước nguyện của Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ hay của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác đều chung hướng đến khát vọng là được cống hiến, được dâng tặng cuộc đời riêng của mình cho non sông, cho Tổ quốc. Những điều đó thật đáng trân trọng và đó cũng là tấm gương để thế hệ chúng ta học tập, noi theo mà cố gắng hết mình để dựng xây quê hương, đất nước ngày thêm tươi đẹp.

Chủ Đề