So sánh cái chạy của Mị và A Phủ với cái chạy của chị Dậu

Vợ nhặt

của Kim Lân, các nhân vật trong truyện được đặt trong một tình huống rất bi đát, khốn cùng. Họ bị cái đói rình rập, cướp đi sự sống bất cứ lúc nào. Đấy là tình cảnh chân thực của hàng triệu người lao đọng ở Bắc Bộ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945. Vào thời điểm này, đứng trước hoàn cảnh như vậy, Tràng - một người nông dân nghèo xơ xác, xấu trai, ế vợ, người xóm ngụ cư bỗng nhặt được vợ như cái rơm, cái rác bên đường. Khi có vợ, Tràng buồn, vui lẫn lộn, đêm tân hôn diễn ra trong ngày đói.

Trong "Vợ chồng A Phủ" Tô Hoài đã khắc họa số phận của đôi nam nữ người H - Mông [Mèo] ở vùng núi Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống thực dân.

Mị - một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, yêu đời, được nhiều chàng trai theo đuổi nhưng do món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị bắt cóc về làm dâu nhà thống lí. Thời gian đầu, bị làm con dâu gạt nợ, Mị đã phản kháng, tính ăn lá ngón tự ử nhưng vì thương cha đành chấp nhận cuộc sống nô lệ. Từ đó, Mị sống cam chịu, sống vô cảm, không còn ý thức về thời gian. Ở đây, đoạn đời tăm tối của Mị được Tô Hoài khắc họa chân thực, cảm động. Nhà văn không chỉ dừng lại ở đó mà còn phát hiện niềm ham sống, khao khát hạnh phúc của người đàn bà tội nghiệp này bằng việc miêu tả sinh động sự hồi sinh của Mị. Mùa xuân, những hình ảnh tươi trẻ, những âm thanh rạo rực của mùa xuân đã làm sống lại tình yêu đời trong tâm hồn của Mị. Nhờ sự tác động của men rượu, Mị hồi tưởng lại dĩ vãng tươi đẹp, cảm thấy tâm hồn mình phơ phới, Mị chuẩn bị đi chơi như một con người tự do. Nhưng rồi A Sử trói đứng Mị, khát vọng sống của Mị bị chà đ5p rất tàn nhẫn. A Phủ cũng là một nô lệ trong nhà thống lí. Người thanh niên khỏe mạnh, dũng cảm, chỉ vì đánh con quan mà đã bị phạt vạ và trở thành người tôi tớ gạt nợ cho bọn chúa đất chỉ vì để mất con bò, A Phủ đã bị Pá Tra trói đứng ở góc nhà, chỉ còn chờ chết. Qua cảnh phạt vạ, cũng như qua số phận của nhân vật này, Tô Hoài cũng đã lên án tội ác dã man của bọn chúa đất phong kiến miền núi đương thời. Vì cùng cảnh ngộ, vì thương người, Mị đã vượt qua nỗi sợ hãi cố hữu để cắt dây trói cho A Phủ, cũng là Mị đã tự giải thoát mình. Hai người chạy đến Phiềng Sa, tham gia du kích.

Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong ” Vợ chồng A phủ" và hành động thị theo không Tràng về làm vợ trong “Vợ nhặt” Kim Lân.

Định hướng cách làm bài

Mở bài : +Giới thiệu Tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài

+Giới thiệu Tác phẩm Vợ nhặt của

Kim Lân


+Giới thiệu vấn đề nghị luận : hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị theo không Tràng về làm vợ
Thân bài :

1. Phân tích hành động Mỵ chạy theo A phủ

+Vài nét về nhân vật Mỵ : -Là cô gái xinh đẹp, con dâu gạt nợ, bị bóc lột, đày đọa về thể xác và tâm hồn -Cô sống vật vờ y một cái bóng “lùi lũi như 1 con rùa nuôi xó cửa”…

+ Lí giải hành động Mỵ chạy theo A phủ

-Nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ . Ngay sau khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cô định tự tử vì ý thức được cuộc sống tủi nhục của mình và không chấp nhận cuộc sống ấy . Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì không muốn tiếp tục một cuộc sống đầy đoạ nên cô đã tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát

-Tuy nhiên với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan .Vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết, những yếu tố ngoại cảnh đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ , một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc , tâm trạng và cuối cùng là hành động .

-Trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh, lại thêm sự thôi thúc của tiếng sáo réo rắt đã dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lạ tóc và với tay lấy váy mới , chuẩn bị đi chơi”.Nhưng khi bị trói Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và trong lòng lại trào lên một nỗi đau xót, tủi nhục. Mị lại thổn thức , miên mang nghĩ về thân phận không bằng con trâu , con ngựa của mình rồi dần thiếp đi .

– Khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói ,ban đầu Mị thật thản nhiên. Mị dường như đã trở nên vô cảm trước tất cả. Nhưng khi Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại…”thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây…Ý nghĩ A Phủ rất có thể sẽ bị chết trong đêm nay đã hoàn toàn đánh thức tình thương và lòng căm hận trong long Mị. Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần, lớn dần để rồi dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về một sự thật thật tàn bạo và vô lí, bất công .Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài

->>. Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới.

2. Phân tích hành động thị theo Tràng về làm vợ

+ Vài nét về nhân vật thị – Cảnh ngộ : Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh

– Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ

+Phân tích, lí giải hành động theo Tràng về làm vợ

– Bề ngoài Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa ,cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!

-Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.

3. Ý nghĩa hành động của các nhân vật : -Họ là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn người phụ nữ.

-Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và vớinhững phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ, họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc

4. Đóng góp của hai nhà văn :

a. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm , đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ-luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp .

b. Đóng góp riêng : – Đóng góp về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả nội tâm rất tinh tế…trong Vợ chồng A phủ- Tô Hoài [ Phân tích ngắn gọn ] – Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả nội tâm, xây dựng tình huống éo le, cảm động trong Vợ Nhặt -Kim Lân [ phân tích ngắn gọn]

– Sáng tạo về nội dung : Mỗi nhà văn đều tìm cho mình một hướng đi riêng, khắc họa phẩm chất , số phận của những người phụ nữ trong từng cảnh ngộ khác nhau : Kim Lân tập trung miêu tả số phận người phụ nữ trong nạn đói 1945, Tô Hoài tập trung khắc họa số phận , vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi dưới ách áp bức thống trị của chúa đất phong kiến…


Kết bài : Đánh giá chung

Sửa lần cuối bởi điều hành viên: 13/9/18


Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ [ Tô Hoài] và Vợ nhặt [ Kim Lân] Nhân vật chính là những người lao động vốn có cuộc sống rất cực khổ, bất hạnh. Mị, A Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo khổ bị bọn thống trị mà đại diện là thống lí Pá Tra đè nén, áp bức. Mẹ con Tràng, người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên đều là những người dân lao động bị cái đói khủng khiếp đe dọa cướp đi sự sống. Tuy vậy, ở những nhân vật nói trên không bao giờ mất đi niềm hi vọng vào tương lai, họ luôn tiềm ẩn một sức sống vô cùng mãnh liệt. Bên cạnh những nét tương đồng, mỗi nhân vật trong tác phẩm có số phận, mang một vẻ đẹp tâm hồn khác nhau. Điều này thể hiện cách cảm nhận, khám phá độc đáo riêng, giàu ý nghĩa của từng cây bút trước hiện thực đời sống. Mặc dù họ cùng viết về một đề tài theo một mô tuýp gần gũi. Trong "Vợ chồng A Phủ" Tô Hoài đã khắc họa số phận của đôi nam nữ người H - Mông [Mèo] ở vùng núi Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống thực dân. Mị - một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, yêu đời, được nhiều chàng trai theo đuổi nhưng do món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị bắt cóc về làm dâu nhà thống lí. Thời gian đầu, bị làm con dâu gạt nợ, Mị đã phản kháng, tính ăn lá ngón tự ử nhưng vì thương cha đành chấp nhận cuộc sống nô lệ. Từ đó, Mị sống cam chịu, sống vô cảm, không còn ý thức về thời gian. Ở đây, đoạn đời tăm tối của Mị được Tô Hoài khắc họa chân thực, cảm động. Nhà văn không chỉ dừng lại ở đó mà còn phát hiện niềm ham sống, khao khát hạnh phúc của người đàn bà tội nghiệp này bằng việc miêu tả sinh động sự hồi sinh của Mị. Mùa xuân, những hình ảnh tươi trẻ, những âm thanh rạo rực của mùa xuân đã làm sống lại tình yêu đời trong tâm hồn của Mị. Nhờ sự tác động của men rượu, Mị hồi tưởng lại dĩ vãng tươi đẹp, cảm thấy tâm hồn mình phơ phới, Mị chuẩn bị đi chơi như một con người tự do. Nhưng rồi A Sử trói đứng Mị, khát vọng sống của Mị bị chà đ5p rất tàn nhẫn. A Phủ cũng là một nô lệ trong nhà thống lí. Người thanh niên khỏe mạnh, dũng cảm, chỉ vì đánh con quan mà đã bị phạt vạ và trở thành người tôi tớ gạt nợ cho bọn chúa đất chỉ vì để mất con bò, A Phủ đã bị Pá Tra trói đứng ở góc nhà, chỉ còn chờ chết. Qua cảnh phạt vạ, cũng như qua số phận của nhân vật này, Tô Hoài cũng đã lên án tội ác dã man của bọn chúa đất phong kiến miền núi đương thời. Vì cùng cảnh ngộ, vì thương người, Mị đã vượt qua nỗi sợ hãi cố hữu để cắt dây trói cho A Phủ, cũng là Mị đã tự giải thoát mình. Hai người chạy đến Phiềng Sa, tham gia du kích. Như vạy, nhờ sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã khiến cho hai nhân vật này thoát khỏi cuộc đời nô lệ, tìm đến cách mạng và cách mạng chính là con đường duy nhất để giải thoát, giải phóng cuộc đời cho họ. Vợ nhặt của Kim Lân, các nhân vật trong truyện được đặt trong một tình huống rất bi đát, khốn cùng. Họ bị cái đói rình rập, cướp đi sự sống bất cứ lúc nào. Đấy là tình cảnh chân thực của hàng triệu người lao đọng ở Bắc Bộ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945. Vào thời điểm này, đứng trước hoàn cảnh như vậy, Tràng - một người nông dân nghèo xơ xác, xấu trai, ế vợ, người xóm ngụ cư bỗng nhặt được vợ như cái rơm, cái rác bên đường. Khi có vợ, Tràng buồn, vui lẫn lộn, đêm tân hôn diễn ra trong ngày đói. Người vợ nhặt là một người phụ nữ đáng thương đến nỗi không thấy tác giả nói về lai lịch, gốc gác, quê hương, ngay cả tên gọi cũng không có. Cuộc sống chỉ vì nghèo đói nên thị đã đánh mất những phẩm chất vốn có của người phụ nữ. Với chi tiết này, "ăn một mạch bốn bát bánh đúc", Kim Lân đã khắc sâu nỗi cơ cực, cơ nhục của người đàn bà này, thị trở thành người đói nhất trong những người đói, người đáng thương nhất trong những người khốn khổ nên chấp nhận theo không về làm vợ Tràng. Nhưng khi về làm vợ Tràng cũng là một quyết định táo bạo. Từ đó trở về sau, tính cách của người vợ nhặt đã dần dần thay đổi. Do đó, trên đường về nhà, nét duyên dáng cố hữu của người con gái đã trở về với thị. Và khi về đến nhà Tràng, cô trở nên e thẹn, rụt rè. Đến bữa ăn sáng đầu tiên chỉ có cháo cám và cháo loãng, cô im lặng chịu đựng. Và đặc biệt khi nghe tiếng trống thúc thuế, thị đã ý thức cho Tràng về hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới. Cũng như Mị và A Phủ đến Phiềng Sa rồi đi theo du kích, những người trong gia đình Tràng trước hoàn cảnh bi đát, họ đã hướng về Cách mạng, hướng về Việt Minh, bởi lẽ, chỉ có Cách mạng mới làm thay đổi được thân phận của họ. Không chỉ dừng lại ở việc phản ánh chân thực nạn đói khủng khiếp năm 45, Kim Lân còn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, đó là dù rơi vào hoàn cảnh vô cùng bi đát, họ vẫn hướng tới cuộc sống gia đình, vẫn cưu mang nhau, vẫn tin ở tương lai.

[ Sưu tầm ]

So sánh thị và Mị, Tràng và A Phủ trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

1, Điểm giống nhau giữa hai tác phẩm:

- Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc. - Cùng viết về người nông dân nghèo trong cảnh ngộ khốn khổ. - Hai tác phẩm cùng vẽ ra hành trình đến với cách mạng, đến với hạnh phúc của những con người tưởng như đã bị đẩy vào bước đường cùng. Chính hoàn cảnh tăm tối, cuộc sống nghiệt ngã đã viết nên thiên tình sử của Mị - A Phủ, Thị - Tràng. - Chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc.

2, Phân tích nhân vật:

a, A Phủ và Tràng:


- Điểm giống: + Đều là những người nông dân nghèo, thật thà, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình. + Là những người cùng cảnh ngộ: A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn. Tràng bị dồn đuổi bởi cái đói dừng chân, dựng nhà ở cuối xóm ngụ cư, bên mé bờ sông.

-> Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể lấy được vợ, có được vợ.

+ Bị đè nén bởi tư tưởng cai trị của giai cấp thống trị: . Tràng không dám cướp thóc bỏ trốn khi có cơ hội. . A Phủ không bước qua khỏi lời nguyền, trở thành kẻ ở gạt nợ cho thống lí Pá Tra; nhẫn nhục chịu đựng như con trâu, con ngựa. + Giàu ước mơ và khát vọng: . Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh: Tàn khốc của XH; Khổ cực của bản thân; Tăm tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người cao cả "Trong một lúc Tràng như quên những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên". Tràng xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống. . A Phủ: Dù khó lấy được vợ vì quá nghèo nhưng cái nghèo không kìm nén được bước chân của những con người biết tự mình vượt lên khỏi hoàn cảnh để được sống đúng ý nghĩa của cuộc sống. A Phủ cùng đám bạn rong ruổi theo những cuộc chơi khi mùa xuân về. Cùng thổi kèn thổi sáo; cùng réo rắt những bản tình ca gọi bạn đi chơi…Khi bị trói, nhận thức được cảnh ngộ của mình A Phủ đã khóc. Giọt nước mắt của sự cam chịu, bất lực, đồng thời cũng là giọt nước mắt khóc cho những ước vọng không thành, giọt nước của cuộc đời từ đây vĩnh biệt….Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵ xuống, nhưng rồi khát vọng sống lại khiến anh quất sức, vùng lên chạy. Đó là sự tiếp sức của lòng ham sống của, của khát vọng tự do + Đều hướng về ánh sáng cách mạng: . CM đã soi đường chỉ lối cho A Phủ, đến Phiềng Sa, A Phủ trở thành một anh du kích dũng cảm, kiên cường -> Anh có được tự do, hạnh phúc. . Tràng chưa trở thành một anh du kích nhưng cuối tác phẩm tronh óc anh đã nghĩ tới đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới-> Tác giả đã gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, nhất định ngày mai trong đoàn quân của những người đói kéo nhau đi trên đê Sộp sẽ có Tràng, bà cụ tứ và thị -> họ sẽ thoát khỏi đói nghèo và cuộ sống nô lệ.

- Điểm khác:

+ Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích học Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ. + Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi dưới sự cai trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để biến những người dân nghèo thành nôlệ không công cho chúng, hết đời này sang đời khác. + Tràng được tác giả tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể, sinh động.

b, Thị và Mị:

- Điểm giống:

+ Cả hai đều là nhân vật điển hình cho thân phận, số phận những người phụ nữ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Mị điển hình cho hoàn cảnh của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc, thị điển hình cho cảnh ngộ người phụ nữ trong nạn đói 1945. + Bị đẩy vào bước đường cùng: . Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải đau đớn chấp nhận phận làm dâu gạt nợ; Vì cha mẹ không có tiền trả cho nhà giàu, mị phải trả bằng cả tuổi trẻ, hạnh phúc, tự do của mình. . Vì cái đói dồn đuổi, cái chết đeo bám, thị trở thành một người phụ nữ không có gì cả: không tên, không gốc gác, gầy vêu rách như tổ đỉa, không tư thế, không luôn cả tự trọng… + Giàu lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc: . Mị yêu đời yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý: Xin bố đừng gả con cho nhà giàu, sẵn sàng làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Khi bị ép về nhà Pá tra, mị đã định quyên sinh bàng lá ngón để giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, thiếu tự do và không có tình yêu đích thực. Khi mùa xuân đến, Mị đã hồi sinh [….] và mị muốn đi chơi. Khi bị Ẳ trói đứng vào cột, Mị như không biết mình đang bị trói, vẫn thổn thức vẫn bồi hồi. Nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đen xạm của A Phủ, niềm khao khát tự do lại trỗi dậy mãnh liệt thôi thúc Mị cắt dây trói, cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời. . Đối với thị, lần đầu làm quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và bởi những lời trêu ghẹo của bạn bè, thị ton ton chạy lại đẩy xe cho tràng rồi liếc mắt cười tít -> Thị mong chờ một cái gì đó dù chỉ là mong manh cho tương lai tăm tối của mình. Lần thứ hai gặp tràng, thị đã sẵn sàng bỏ qua ý thức về danh dự về nhân phẩm; thị chao chát chỏng lỏn, thị sấn sổ, thị trơ trẽn không biết xấu hổ là gì, thị xem miếng ăn là tất cả "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng trò chuyện gì" rồi không băn khoăn, thị gật đầu theo không Tràng về làm vợ chỉ với một suy nghĩ cho khỏi đói, để được sống. Sáng hôm sau thị trở thành một cô dâu hiền thục, dịu dàng, đúng mực và có trách nhiệm với gia đình: Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm " quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang nước". Tình người và những khao khát nhân bản đã làm nên điều kì diệu. + Tin tưởng vào ánh sáng CM: . Mị rời khỏi Hồng Ngài được giác ngộ CM, trở thành du kích. . Thị vững tin vào một ngày mai tươi sáng, yên ấm; khi một ngày mới, một lá cờ đỏ tươi thắm, một chân trời mới đang dần hiện hữu.

- Điểm khác:

+ Vị trí nhân vật: Mị là nhân vật chính được nhà văn Tô Hoài dày công khắc hoạ; Thị là nhân vật phụ, là hiện thân của nạn đói. + Hoàn cảnh: Thị bị cái đói rình rập, dồng đuổi mà sẵn sàng bỏ qu tất cả, lại sẵn sàng làm một vật rẻ rúng để người ta đơn giản nhặt về làm vợ.. mị là người dân lao động nghèo miền núi, sống dưới ách thống trị cường quyền, thần quyền của bọn chúa đất phong kiến. + Mị được nhà văn khám phá phát hiện và mô tả bằng những diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp. Nhân vật thị chủ yếu được khắc hoạ bằng ngoại hình và hành động.

[ Sưu Tầm ]


Phân tích hành động Mị cởi trói cứu A phủ và chạy theo A Phủ

Vợ chồng A Phủ là mội truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc cùa Tô Hoài được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó chăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ - một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.

Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rượi”, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự việc đã hiện lên khá nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thâu đáo. Vị trí xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.

Ở địa ngục trần gian nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhọc nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng như minh cũng là con trâu, con ngựa [...] biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chí là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp... thêm vào sự đoạ đày thể xác ấy còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Mác nói.

Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự mình coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa trong xó chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.

Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khái khao làm chủ cuộc sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ lạm thời bị đè lén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao: “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rát dữ dội”. Dầu trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống, được Sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm đá, xoè ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà...”Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà còn ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp cho dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần ngọn gió thoáng qua là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.

Hoàn cảnh ấy không thể tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố “ngoại của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi...”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, khát vọng ham sống. Trong không khí ấy Mị lại được kích động bởi men rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ: “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng [...], còn Mị thì đang sống về ngày trước”.

Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: “Mị thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…” ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết tiệt với hoàn cảnh.

Trong khi ấy, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài [lơ lửng bay ngoài đường], đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong [rập rờn trong đầu].

Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghiã “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng. Hành động này có ý nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ.

Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà.

Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao cuộc sống mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”. Như thực tế phũ phàng là vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan.

“Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách [...] Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”- thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đây, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự đo hãy còn đó hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.

Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, “ngọn lửa bập bừng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ : vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai gò má đã xám đen lại”. Chao ôi! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại loé lên cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội?
Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình ? và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”.

Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.”

nguồn Phạm Thanh Trường THPT Hàm Rồng

Sửa lần cuối bởi điều hành viên: 13/9/18

Video liên quan

Chủ Đề