Nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm tự sự có vai trò chủ đáo gì

                                                                        Ths Ngô Thị Hy

                                           

Nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm tự sự có vai trò chủ đáo gì
                          

Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn thể hiện rất rõ bút pháp, phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi. Nội dung câu chuyện kể về truyền thống đánh giặc của gia đình anh Giải phóng quân tên là Việt, qua đó có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của con người Nam Bộ trong những năm gian khổ chống Mỹ cứu nước thể hiện qua lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gắn bó trong gia đình. Tất cả tạo nên một sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt qua khó khăn, gian khổ, mất mát hy sinh.

            Để thể hiện nội dung trên, Nguyễn Thi đã có sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật kể chuyện. Tình huống của câu chuyện là một yếu tố quan trọng dẫn đến lối kể sáng tạo và việc tổ chức điểm nhìn trần thuật. Đó là tình huống anh Giải phóng quân tên Việt bị thương nặng trong một trận đánh phải nằm lại giữa chiến trường và nhiều lần ngất đi, tỉnh lại. Giữa những lần ngất đi tỉnh lại đó là những dòng ý thức, những hồi ức về quá khứ, về người thân và những cảm xúc nội tâm của nhân vật Việt. Truyện được kể theo dòng nội tâm khi đứt (ngất đi), khi nối (tỉnh lại) của nhân vật .

            Nếu xem xét về hình thức kể thì truyện được kể theo  ngôi thứ ba, trong đó nhân vật Việt là đối tượng được thuật kể. Đây là phương thức kể phổ biến trong tác phẩm tự sự. Ở lối kể này, câu chuyện thường được kể với “người kể chuyện như đứng kín đáo ở một chỗ nào đấy, chứng kiến hết mọi sự việc xảy ra nhưng không tự mình trực tiếp tham gia vào các diễn biến”. Câu chuyện vì thế được kể lại một cách khách quan “ người kể chuyện nói về các sự kiện với một sự yên tĩnh điềm đạm, anh ta vốn có một cái tài “biết hết” và hình tượng anh ta là hình tượng của một sinh thể sống trên thế giới mang lại cho tác phẩm một màu sắc khách quan tối đa”.Tuy nhiên ở truyện này, Nguyễn Thi đã thể hiện một sự sáng tạo riêng, độc đáo trong cách kể. Tuy người kể vẫn ẩn sau ngôi thứ ba giấu mình để nhân vật hiện ra như một đối tượng được thuật kể nhưng có thể thấy toàn bộ câu chuyện được tái hiện thông qua cái nhìn, ý thức của nhân vật. Tác giả đã khéo léo trao cho nhân vật nhiệm vụ kể chuyện. Thông qua những dòng hồi tưởng liên tục sau những lần ngất đi rồi tỉnh lại, quá khứ lại hiện về trong tâm trí nhân vật qua những mẩu hồi ức. Nối kết những hồi ức đó, người đọc có thể hiểu câu chuyện về truyền thống đánh giặc của một gia đình nông dânNam bộ, ý nghĩa tư tưởng chủ đề của tác phẩm cũng từ đó toát lên. Với cách kể này, người trần thuật như lùi lại phía sau để dòng ý thức của nhân vật trực tiếp xuất hiện. Do vậy người kể không phải thuộc dạng người kể chuyện “toàn tri” biết hết mà ban phát thông tin. Người kể hầu như biết ít hơn nhân vật nên cũng phải dõi theo tâm tư nhân vật để tiếp cận câu chuyện.

            Do đặc điểm của lối kể trên nên việc tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng có những điểm riêng, độc đáo. Câu chuyện chủ yếu được kể lại theo điểm nhìn của nhân vật, mang ý thức, giọng điệu của nhân vật. Cho nên, lời nói nửa trực tiếp, tức lời gián tiếp nhưng đã mang ý thức và giọng điệu nhân vật, được khai thác tối đa. Truyện cũng đan xen với ngôn ngữ và điểm nhìn của người trần thuật. Đó là những lúc cần dẫn dắt câu chuyện để đi vào dòng ý thức của nhân vật, lúc này tác giả sử dụng lời gián tiếp để tái hiện sự việc xảy ra phía bên ngoài nhân vật với điểm nhìn khách quan của người trần thuật tạo nên khoảng cách giữa người kể và nhân vật. Nhưng ngay sau đó tác giả lại trao ngòi bút cho nhân vật để nhân vật tự kể lại câu chuyện theo điểm nhìn và ý thức của mình. Điểm nhìn do vậy có sự di chuyển từ bên ngoài vào bên trong, từ người trần thuật sang nhân vật. Dường như không còn có sự tách bạch rõ ràng giữa lời gián tiếp và trực tiếp. Lúc này người kể như thâm nhập sâu vào ý thức của nhân vật. Có thể mượn một đoạn văn sau để làm dẫn chứng:

            “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai…Việt ngóc dậy. (Ngôn ngữ và điểm nhìn của người trần thuật). Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm…chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy.Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra…Cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên…Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút…(Ngôn ngữ và điểm nhìn của nhân vật)

            Do đặt câu chuyện trong một tình huống đặc biệt nên điểm nhìn của nhân vật cũng dịch chuyển liên tục trên trục thời gian đan xen hiện tại – quá khứ. Sự việc ở hiện tại đã có tác dụng khơi gợi dòng hồi ức của nhân vật về quá khứ. Điều này dẫn đến việc sắp xếp các yếu tố không gian, thời gian không theo trật tự thông thường: không gian hiện tại dẫn dắt nhân vật hồi tưởng về quá khứ  trong sự liên tưởng chập chờn, đứt nối. Thời gian cũng không đi theo trục tuyến tính mà theo dòng ý thức của nhân vật từ hiện tại trôi giạt về quá khứ và trở lại hiện tại. Điều này phù hợp với hoàn cảnh của nhân vật trong những lần liên tục ngất đi rồi tỉnh lại.

            Sự độc đáo trong cách kể và tổ chức điểm nhìn trần thuật đã góp phần dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc câu chuyện: Sự kiện trong câu chuyện không đi theo một trật tự thông thường mà đảo lộn: sự kiện, nhân vật xuất hiện tùy thuộc vào hồi ức nhân vật mỗi lần ngất đi rồi tỉnh lại: lần 1, lần 2, lần 3… Bắt đầu là một sự kiện của hiện tại: Việt bị thương ở chiến trường và mỗi lần tỉnh lại những dòng hồi ức lại đưa người đọc quay về quá khứ để tiếp cận với câu chuyện của gia đình Việt. Những hồi ức này không tách rời thực tại mà có sự đan xen với những suy nghĩ từ hiện tại gắn liền với hoàn cảnh hiện tại của Việt. Những gì nhân vật cảm nhận từ hiện tại có tác dụng gợi nhớ về quá khứ, gợi ra những liên tưởng khi gần khi xa, chuyện này dẫn sang chuyện khác. Câu chuyện cứ thế diễn tiến tự nhiên, biến hoá, hợp qui luật tâm lí của nhân vật. Ví dụ trong lần tỉnh lại thứ tư, trong hồi ức của Việt hiện ra hình ảnh người mẹ với những kỉ niệm mà Việt không thể quên: “ Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn…”. Trong lòng Việt chợt dậy lên một khát khao: “Ước gì bây giờ lại được gặp má.”. Dòng hồi ức chấm dứt khi những giọt mưa lất phất làm Việt choàng tỉnh cảm nhận rõ sự vắng lặng xung quanh khiến Việt nhớ đến câu chuyện các chị vẫn nói ở nhà về “con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chõng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông”. Rồi từ thực tại, âm thanh của một loạt súng lớn dội lại ầm ĩ đem đến cho Việt một cảm xúc cụ thể “ Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ”. Việt lắng nghe và nhận ra đó là tiếng súng của ta, Việt càng nhớ về đồng đội, những người thân thiết đang cùng Việt chiến đấu, họ hiện ra rõ mồn một trong tâm trí Việt với “ cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên…”. Ngay khi ấy, những dòng độc thoại nội tâm của Việt như muốn hướng tới các đồng đội của mình: “ Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút…”.  Rõ ràng cách kể trong đoạn văn này đã giúp cho tác giả vừa thuật lại diễn biến câu chuyện vừa diễn tả được tâm lí nhân vật đồng thời khắc hoạ được tính cách của người chiến sĩ trẻ giàu tình cảm, dũng cảm, kiên cường dù đã bị trọng thương nhưng vẫn sẵn sàng tư thế chiến đấu. Cách kể như thế không đi theo lối mòn truyền thống mà lôi cuốn người đọc đi theo một con đường riêng để nắm bắt câu chuyện. Qua đó có thể thấy tác giả đã tạo cho tác phẩm của mình một hình thức kết cấu rất đặc biệt với hai phần nội dung rõ rệt:

            – Nối kết các hồi ức đứt nối của nhân vật về quá khứ, về người thân, người đọc có thể hiểu câu chuyện về truyền thống đánh giặc của một gia đình tiêu biểu cho những con người Nam Bộ trong những năm chống Mỹ cứu nước. Phần này thiên về những sự kiện và có thể sắp xếp lại tạo thành một cốt truyện cụ thể.

            – Song hành với những sự kiện được hồi tưởng lại là những suy nghĩ, cảm xúc thuộc thế giới nội tâm của nhân vật được tái hiện tinh tế tạo thành dòng ý thức cũng đứt nối qua những lần ngất đi, tỉnh lại. Qua dòng ý thức này, tính cách của nhân vật cũng được bộc lộ rõ. Mặt khác, đi theo dòng ý thức của nhân vật, đối tượng được miêu tả mở rộng dần, các nhân vật khác cũng dần dần hiện ra: Má, chú Năm, chị Chiến, đồng đội…Các nhân vật này không được tác giả khắc họa một cách trực tiếp mà được soi trong  cái nhìn, cách cảm nhận, đánh giá và tình cảm của nhân vật Việt nhưng tính cách của những nhân vật ấy cũng hiện ra sống động, chân thực, khách quan.

            Hai mảng nội dung này không tách bạch rõ rệt và diễn tiến một chiều mà hòa trộn, đan xen linh hoạt, phù hợp qui luật tâm lí và hoàn cảnh của nhân vật, trong đó dòng ý thức của nhân vật có vai trò rất quan trọng dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện một cách tự nhiên. Có thể thấy Nguyễn Thi có khả năng thâm nhập, mổ xẻ tinh tế đời sống nội tâm với những quá trình tâm lí tinh vi của nhân vật.

Với lối kể chuyện độc đáo, truyện ngắn Những đứa con trong gia đình trở nên mới mẻ, hấp dẫn, đậm đà màu sắc trữ tình thể hiện rõ sự tìm tòi, sáng tạo trong bút pháp nghệ thuật của tác giả Nguyễn Thi.

* Tài liệu tham khảo

1.      Bakhtin M. (1998 ),Lý luận và thi pháp tiểu thuyết ( Bản dịch tiếng Việt của Phạm Vĩnh Cư ), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

2.      G.N.Pospelov (chủ biên) (1985) Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

3.      Trần Đình Sử (chủ biên), (2008), Lý luận văn học tập 2, NXB Đại học sư phạm Hà Nội

4.      Phương Lựu ( Chủ biên ), ( 1997 ), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

5.      Đinh Trọng Lạc ( 1994 ), Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội

6.      Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện của truyện ngắn, Tạp chí văn học số 2

7.      Sách Giáo khoa Ngữ văn lớp 12 tập 2 ( 2008), NXB Giáo dục.

 NTH

Posted by Hoài Ngọc