Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 đã ảnh hưởng như thế nào đến chủ quyền dân tộc Việt Nam

Hiệp ước Nhâm Tuất 5/6/1862 * Hoàn cảnh: Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân pháp thừa thắng, lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Tình hình này làm cho triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ nên triều đình đã kí với pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất với nội dung: - Triều đình nhà Nguyễn thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì [Gia Định, Định Tường, Biên Hòa] và đảo Côn Lôn; mở ba cửa biển [Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên] cho Pháp vào buôn bán; cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây; bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 288 vạn lạng bạc. - Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến...... => Nhận xét: - Triều đình đã chính thức đầu hàng, bức bột trước sự xâm lược của Pháp. - Với việc làm đó, triều đình đã từ bỏ một phần trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống

Pháp đồng thời cũng thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã phản bội một phần lợi ích dân tộc.

Hai tháng sau khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha hạ đại đồn Chí Hòa [2.1861] và chiếm được tỉnh Gia Định, Charner ban hành một nghị định về phân chia ranh giới thành phố Sài Gòn, ông cũng thành lập tại đây một chính quyền tạm thời. Viên phó đô đốc dùng sĩ quan Pháp thay thế cho các nhà nho và viên chức hành chính cũ, gọi là giám đốc bản xứ vụ [directeur des affaires indigènes].

Giám đốc bản xứ vụ có nhiệm vụ “duy trì trật tự tốt nhất có thể, và toàn quyền giải quyết một cách nhanh chóng tất cả các sự cố hành chính và tư pháp phát sinh” [Prosper Cultru, Histoire de la Cochinchine française: des origines à 1883 - Lịch sử Nam kỳ thuộc Pháp: từ sơ khởi đến năm 1883 - Paris, 1910, tr.186].

Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công thành Gia Định ngày 17.2.1859

L’illustration, Journal Universel

Quá trình thiết lập hệ thống chính quyền ở vùng đất mới chinh phục được tiến hành song song với công cuộc bình định các tỉnh còn lại ở Nam kỳ, và tổ chức lãnh thổ đã chinh phục cùng lúc với yêu cầu đạt được nền hòa bình với người bản xứ là nhiệm vụ của Đề đốc Bonard, người được cử đến Nam kỳ để thay thế vị trí của Charner vào ngày 30.11.1861. Cần lưu ý, trong lá thư [đề ngày 19.8.1861] Pháp hoàng Napoléon đệ tam gửi cho Bonard, có đoạn “... để đạt được kết quả mong muốn […] phải thiết lập chế độ bảo hộ của nước Pháp đối với Nam kỳ…” [Nguyễn Xuân Thọ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam [1858 - 1897], Omega+ và NXB Hồng Đức, 2018, tr.97].

Tháng 5.1862, khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha đang gặp không ít khó khăn trước sự kháng cự ngày càng mạnh mẽ của quân và dân Nam kỳ, đặc biệt là phong trào khởi nghĩa của Trương Định, triều đình Huế lại bất ngờ đưa ra đề nghị đàm phán [nghị hòa] theo gợi ý của phía Pháp từ tháng 2.1862.

Phái đoàn Đại Nam [quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ] do đại thần Phan Thanh Giản dẫn đầu đến Sài Gòn ngày 26.5.1862, sau những cuộc thương nghị kéo dài giữa các bên từ ngày 28.5 đến 3.6.1862, Hiệp ước Nhâm Tuất chính thức được ký kết ngày 5.6.1862 giữa Chánh sứ Phan Thanh Giản và Đề đốc Bonard tại Trường Thi [Camp des Lettrés, Sài Gòn].

Nội dung chính của Hiệp ước Nhâm Tuất là triều đình Huế phải cắt nhượng chủ quyền 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ [Gia Định, Biên Hòa và Định Tường [Pháp gọi là Mỹ Tho]] cùng Côn Đảo [Poulo Condor] cho nước Pháp, cùng với những thỏa thuận về tự do hành đạo, thông thương, bồi thường chiến phí… Biến 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ thành thuộc địa thay vì xứ bảo hộ, Bonard đã trái ý của Pháp hoàng và đặt các bên vào sự đã rồi.

Vua Tự Đức bị đặt vào tình thế nan giải Từ khi tiếp quản Nam kỳ, Bonard hiểu rằng sẽ sai lầm nếu áp đặt những tập quán hành chính Pháp lên dân tộc có nền văn hóa khác biệt như Đại Nam. Ngày 25.6.1862, Bonard được thăng hàm từ đề đốc lên phó đô đốc, Pháp hoàng Napoléon đệ tam cũng bổ nhiệm Bonard làm thống soái đầu tiên ở Nam kỳ.

Gần 2 tháng sau khi nhậm chức, Bonard ban hành quyết định số 145 ngày 12.8.1862 quy định tổ chức hành chính tạm thời của tỉnh Gia Định cũ gồm 3 phủ [préfecture] Tân Bình, Tây Ninh và Tân An; mỗi phủ gồm 3 huyện [sous-préfecture] [Bulletin officiel de l’expédition de Cochinchine - Công báo quân viễn chinh Nam kỳ, 1862, tr.211 - 212].

Quá trình tổ chức hành chính ở 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ chính thức được khởi động dưới quyền của Bonard từ đầu năm 1863, căn cứ theo sắc lệnh ngày 10.1.1863 do Pháp hoàng Napoléon đệ tam ban hành về quyền hạn [mặt dân sự] dành cho một vị Thống soái.

Bonard thay thế các giám đốc bản xứ vụ dưới thời Charner, dùng số ít sĩ quan Pháp giám sát các viên quan bản xứ [quan phủ, quan huyện], đặt tên mới là thanh tra bản xứ vụ [inspecteur des affaires indigènes]. Tuy nhiên, theo sử gia Prosper Cultru, đám công chức bản xứ mới này làm việc thiếu hiệu quả so với kỳ vọng, bởi khi tuyển dụng họ, người Pháp thiếu thông tin, họ thiếu năng lực hoặc đạo đức, cũng không có uy tín với đồng bào… [Histoire de la Cochinchine française: des origines à 1883, sđd, tr.76]. Lý do chính đến từ việc hàng loạt sĩ phu, quan lại có tài đã di tản về các tỉnh miền Tây Nam kỳ tổ chức kháng chiến, không chịu hợp tác với chính quyền thuộc địa sau khi Hiệp ước Nhâm Tuất được phê chuẩn.

Nhận xét về điều này, TS Nguyễn Xuân Thọ viết: “Chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới [người Pháp]…”

[Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam [1858 - 1897], sđd, tr.146].

Trước khi ra quyết định nghị hòa tháng 5.1862, vua Tự Đức bị đặt vào tình thế nan giải khi phải đương đầu cùng lúc với giặc ngoại xâm ở Nam kỳ và nội loạn ở Bắc kỳ, đứng giữa hai phe chủ hòa và chủ chiến ở triều đình Huế lúc bấy giờ, đồng thời thông thương đường biển cũng bị quân Pháp phong tỏa nên Huế lâm cảnh thiếu lương nhu. Cuối cùng, Tự Đức quyết định hy sinh một phần Nam kỳ để giải quyết loạn Tạ Văn Phụng ở Bắc kỳ, sau đó sẽ giành lại Nam kỳ từ tay người Pháp. Tuy nhiên, mọi thứ đã vượt ra khỏi toan tính và tầm kiểm soát của vua quan nhà Nguyễn.

[còn tiếp]

Tin liên quan

 mình thấy nhà nguyễn kí với pháp 4 hiệp ước : nhâm tuất, giáp tuất, hác măng và patonot thì trình bày khái quát nội dung của từng bản hiệp ước rồi nêu hậu quả

1. Hiệp ước Nhâm Tuất 5/6/1862 * Hoàn cảnh: Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân pháp thừa thắng, lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Tình hình này làm cho triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ nên triều đình đã kí với pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất với nội dung: - Triều đình nhà Nguyễn thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì [Gia Định, Định Tường, Biên Hòa] và đảo Côn Lôn; mở ba cửa biển [Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên] cho Pháp vào buôn bán; cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây; bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 288 vạn lạng bạc. - Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến...... => Nhận xét: - Triều đình đã chính thức đầu hàng, bức bột trước sự xâm lược của Pháp. - Với việc làm đó, triều đình đã từ bỏ một phần trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống Pháp đồng thời cũng thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã phản bội một phần lợi ích dân tộc. 2. Hiệp ước Giáp Tuất 15/3/1874 * Hoàn cảnh: - Chiến thắng của ta ở Cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang cực độ còn quân và dân ta phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc. - Ngược lại, triều đình phong kiến nhà Nguyễn lo sợ nên đã vội vã kí với pháp Hiệp ước Giáp Tuất, trước mắt để pháp rút khỏi Bắc Kì. * Nội dung: - Triều đình chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp. - Quân Pháp sẽ rút hết quân ở Bắc Kì. => Nhận xét: - Triều đình sớm tỏ ra hoang mang, giao động vô căn cứ nên lo sợ, dẫn đến những việc làm ngu ngốc và tội lỗi. - Với nội dung kí kết đó, triều đình đã tiếp tục phản bội lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân, tạo đà cho quân Pháp có cơ hội lấn tới trên con đường xâm lược nước ta. 3. Hiệp ước Quý Mùi: * Hoàn cảnh: - Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai làm quân Pháp thêm hoang mang dao động. Chúng đã toan bỏ chạy nhưng triều đình lại chủ trương thương lượng với Pháp. - Sau khi có thêm viện binh, lại nhân cơ hội vua Tự Đức qua đời, triều đình nhà Nguyễn lục ***c, thực dân Pháp chớp ngay lấy cơ hội và quyết định tấn công thẳng vào cửa ngõ kinh thành Huế Đó là cửa biển Thuận An. - Ngày 20/8/1883 sau 2 ngày bắn pháo, quân Pháp đổ bộ lên Thuận An.Triều đình hoảng hốt xin đình chiến. - Cao ủy Pháp lên ngay Huế, đưa ra bản hiệp ước thảo sẵn, buộc triều đình chấp nhận và kí ngày 25/8/1883. Hiệp ước mang chính tên viên Cao ủy Pháp: Hiệp ước Hac - măng [còn gọi là hiệp ước Quý Mùi] với nội dung:

+ Triều đình Huế Chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì,cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì để nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh_Nghệ_Tỉnh được sáp nhập vào Bắc Kì .Triều đình chỉ được cai quản vùng đất Trung Kì,nhưng mọi việc đều phải thông qua viên khâm sứ Pháp ở Huế.Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình,nắm cá quyền trị an và nội vụ.Mọi việc giao thiệp với nước ngoài [kể cả với Trung Quốc] đều do Pháp nắm.Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc Kì về Trung Kì. => Nhận xét: - Tuy nội dung hiệp ước chỉ nói đến mức độ bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và trung Kì nhưng thực chất quyền đối nội, đối ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và do Pháp quyết định. Vì vậy, thực chất hiệp ước 1883 đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lạp. Tuy vẫn còn tồn tại trên hình thức nhưng triều đình phong kiến chỉ còn là tay sai cho Pháp. => Với hiệp ước 1883, triều đình phong kiến nhà Nguyễn không những tự mình làm mất đi sự độc lập của một chính quyền nhà nước phong kiến mà qua đó còn thể hiện sự phản bội trắng trợn của triều đình phong kiến và bè lũ vua tôi nhà Nguyễn với lợi ích của dân tộc. 4. Hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884 * Hoàn cảnh - Sau hiệp ước 1883, nhân dân cả nước một mặt phẫn nộ trước thái độ đầu hàng của triều nguyễn, mặt khác càng căm thù quân xâm lược Pháp nên soi nổi đứng lên kháng chiến. - Trước hoàn cảnh đó, chính quyền thực dân Pháp chủ trương làm dịu bớt tình hình căng thẳng của nhân dân và tỏ ra rộng lượng với triều đình để lấy lòng bọn tay sai nên đã dẫn đến việc kí kết hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884 => Nhận xét : - Việc kí kết hiệp ước đó không làm thay đổi căn bản tình hình nước ta, kẻ thù vẫn nham hiểm và đô hộ nước ta, triều đình vẫn đầu hàng, can tâm làm tay sai cho giặc. ==> Kết luận chung:

- Từ các bản hiệp ước nói trên ta đã có dủ bằng chứng kết luận từ năm 1858 - 1884, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng từng bước tiến tới đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược Pháp.

 tham khảo cách người ta viết nhé e!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Video liên quan

Chủ Đề